Những bài cùng tác giả
Cuộc "khủng hoảng tài
chính" hôm nay đã và sẽ tác động lớn vào đời hàng
trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người. Không thể thờ ơ
được, phải tìm hiểu nó một chút. Cũng chẳng để làm
gì. Nó quyết định tương lai của mình nhưng mình đâu
có khả năng tác động vào nó ! Thân phận làm người
hôm nay nó thế, ngay tại Pháp, một nước dân chủ. Bề
gì cũng ăn đòn thôi. Nhưng đã ăn đòn cũng nên "biết"
mình ăn đòn của ai, vì sao, như thế nào, sẽ đau
điếng tới đâu, bao lâu. Nếu điều ấy khả dĩ "hiểu"
được, ít nhiều.
Đột nhiên,
trong thời gian vài tuần thôi, kinh tế thế giới có
thể sập xuồng. Hệ thống ngân hàng có thể phá sản. Hệ
thống sản xuất - kinh doanh - dịch vụ (từ đây gọi
vắn tắt là sản-xuất cho gọn) có thể lụi tàn vì không
vay được vốn đầu tư, sản-xuất, thậm chí vay tiền mặt
để thanh toán hàng ngày thôi, dù đơn đặt hàng đầy
ắp. Người lao động có thể thất nghiệp. Đồng tiền có
thể phá giá. Sức mua của người tiêu thụ có thể bị sa
sút nặng nề. Et tutti quanti. Do đâu
mà nên nỗi này ?
Cả tháng nay tôi đọc
trên báo chí bài vở của các chuyên viên có máu mặt
trên quốc tế, ở Pháp và Châu Âu, của các vị Nobel
kinh tế. Lúc này, ngoài hai vị trước kia bị coi là
hâm hâm, các vị khác biến đâu hết ?
Tôi chẳng hiểu gì cả.
Thôi đành liều, thử tưởng tượng một
cách hiểu "ngoại đạo". Nó có sai vì mình dốt cũng
chẳng sao. Chí ít cũng bịa được một giả thuyết cho
đỡ bực mình.
Tư bản tài
chính là gì, từ đâu ra ?
Tư bản tài chính có
thể coi như hình thái "tinh khiết", "nguyên chất",
"lý tưởng" của tư bản. Không hình thái tư bản nào
biểu hiện rõ ràng, mạch lạc hơn, công thức vận động
cơ bản của tư bản : tiền đẻ ra tiền, bất tận.
T → T + T' → …
Trong học thuyết kinh
tế kinh điển (Ricardo, Marx), người ta công nhận
nguyên lý sau : trong thị trường, hàng
hoá được trao đổi ngang giá trị (valeur,
khái niệm kinh tế học chứ không phải X $ nhe) với
nhau. Đó là tiền đề cần thiết
để đảm bảo tính khoa học của môn kinh tế học : khách
quan (khoa học ! hết sức trừu tượng, chẳng "khách
quan" tí nào, như thuyết tương đối của Einstein ấy
mà).
Trong đời thực, không
có chuyện ấy. Từng lúc, có người mua đắt, có người
bán rẻ. Có kẻ lời người lỗ. Nhưng tổng hợp lại, lời
bù lỗ, kết quả = 0. Rất dễ hiểu : nếu trong một năm
xã hội sản-xuất được một lượng giá trị mới
= 100 nằm trong hàng hoá đã được sản-xuất và in một
lượng tiền = 100$ biểu hiện chúng, buôn đi bán lại
như thế nào đi nữa, tiền từ túi anh này nhảy qua túi
anh kia ra sao đi nữa, cuối cùng thì trong thị
trường cũng chỉ có bấy nhiêu giá trị và tiền thôi.
Tính khách quan ở đó.
Trên cơ sở ấy, làm
sao giá trị có thể đẻ ra giá trị, tiền có thể đẻ ra
tiền được ?
Chẳng thể giải thích
được bằng sự kiện nhà nước in bạc giấy quá đà : chỉ
tổ lạm phát thôi, không thay đổi được lượng giá trị
có thực ở đời.
Marx là người đầu
tiên vạch rõ bí mật thầm kín đáng mê của phương thức
sản-xuất tư bản trên cơ sở nguyên lý trao đổi ngang
giá trị của kinh tế thị trường.
Tiền vứt một xó hay
gửi ngân hàng chẳng bao giờ đẻ ra tiền cả. Ngay kôm
nay, ngân hàng Pháp không trả lãi cho những món tiền
mà bàn dân gửi nó.
Nhưng dùng tiền để
mua sức lao động của con người, rồi khiến nó
sản-xuất, thì nó có khả năng sản-xuất ra một lượng
giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Lượng giá
trị dôi ra đó gọi là giá trị thặng dự. Không có nó,
không thể có tái sản-xuất mở rộng dưới bất cứ hình
thái kinh tế nào nói chi tới hình thái kinh tế tư
bản. Kinh tế tư bản mới chỉ hình thành khoảng 300
năm nay thôi mà. Trước hình thái kinh tế tư bản, vẫn
có thị trường, vẫn có bóc lột đủ kiểu mà. Vì thế, cơ
sở phát triển của tư bản là… thị trường sức
lao động, người Pháp gọi một cách không
chính xác là "marché du travail", "thị
trường lao động". Trong thị trường ấy, làm quái gì
có lao động (travail) để mua ! Chỉ có
sức lao động thôi, bản thân tôi chẳng hạn, ai muốn
mua, tôi bán liền vì sợ … đói. Dẹp hàng hoá
"sức lao động của con người", dẹp "thị trường lao
động" đi thì kinh tế tư bản tiêu vong. Ta có thể
chứng kiến điều ấy hàng ngày. Ai đã nếm mùi
délocalisation thì hiểu liền : "thị trường
lao động" đã toàn cầu hoá.
Quá trình vận động
trên của tư bản rất minh bạch, sòng phẳng, hợp
pháp : mỗi người đã hành động trong tư cách tự do,
bình đẳng với nhau trước pháp luật, không ai lừa gạt
ai, không ai ăn cắp của ai xu nào. Nhưng đã có người
bóc lột sức lao động của người khác.
Trên cơ sở đó, tư bản
tài chính đã hình thành. Nó không từ trên trời rơi
xuống. Nó không do các bực thiên tài đẻ ra trong
chớp mắt. Nó chỉ là những giá trị thặng dư trên tập
trung trong tay hay trong quyền quyết định của một
số ít người, ít so với hơn 6 tỷ người gọi là nhân
loại.
Những "người" đó có
thể là :
a/ Tổng giám đốc Ngân
hàng quốc gia "Trung Cộng", đang bơm hàng tỷ $ để
cứu bồ Mỹ, nghĩa là mấy vị cầm quyền ở Trung Quốc
ngày nay.
b/ Tổng giám đốc của
các Fonds d'investissement Mỹ. Số tiền
khổng lồ này là tiền dành dụm thuộc quyền sở hữu của
hàng triệu bàn dân lao động Mỹ. Mỗi người làm chủ
một tí tiền còm, không ai có quyền quyết định sử
dụng nó ra sao, ngoài mấy anh lãnh đạo dù mấy anh ấy
không bỏ xu nào vào đó.
c/ Những nhà tỷ phú. Thí dụ Bill Gates khi
ông rút lui khỏi hoạt động sản-xuất và nếu
ông bán hết cổ phiếu của ông, thu tiền bỏ túi.
Với số tiền ấy, ông có thể mua tác phẩm nghệ thuật
mang về nhà thưởng thức, hưởng thụ cạn đời cũng chưa
cạn của, hay cho không Foundation Bill Gates để làm
việc từ thiện như ông đã làm với 28,8 tỷ $, 95% tài
sản của ông . Trong quan hệ ấy với đời,
28,8 tỷ $ của Bill Gates không có chức năng tư bản :
tiêu mãi cũng cạn, chẳng bao giờ đẻ ra tiền cả, dĩ
nhiên là đối với ông Bill Gates thôi vì người được
giúp đỡ có thể dùng nó làm… vốn tư bản để sản-xuất.
Nhưng nếu ông cho Foundation Bill Gates quyền sở hữu
một số cổ phiếu trong công ty này ngân hàng nọ và sử
dụng tiền lời do chúng tạo ra để làm chuyện từ thiện
thì, trong quan hệ này, 28,8 tỷ $ của
ông cho có chức năng tư bản.
Cho thấy : tiền có nhiều bộ mặt, nhan sắc khác nhau,
có khi bất ngờ không thua gì chữ nghĩa !
Tôi cố ý dùng thí dụ này vì tôi quá sợ người đời
ghép tội cực tả bị "ý thức hệ" làm cho ngu muội :
tôi công nhận trong nền văn minh tư bản ở Mỹ vẫn còn
có những con người, như Bill Gates và tỷ phú Warrant
Buffet (không thèm lập Foundation dưới tên mình mà
cho không 37 tỷ $ cho Foundation Bill Gates), là tư
bản kếch xù mà vẫn có quan điểm và hành động nhân
bản : dùng tiền mình đã thu được để làm việc từ
thiên. Chí ít cũng khá hơn những nhà ý thức hệ kinh
tế thị trường định hướng xhcn ở ta.
d/ bản thân các ngân hàng hay cơ quan bảo
hiểm khi nó mua bán những "sản phẩm tài chính" để
kiếm lời chớp nhoáng.
e/ et tutti
quanti.
Tư bản tài chính có
ba đặc tính sau :
1/ Nó biểu hiện giá
trị có thực, đã được sản-xuất, dưới dạng tiền hay
dưới dạng những món nợ được đảm bảo "vững chắc" như
trái phiếu của nhà nước Mỹ chẳng hạn.
2/ Nó đã ít nhiều dứt
khỏi cái dây nheo gắn nó với lao động sản-xuất thực
trong nghĩa này : nó là giá trị có
thực, nằm trong túi ông chủ, không dính dáng tới bất
cứ quá trình sản-xuất hiện hữu nào cả, nó là sản
phẩm của lao động đã qua mà.
Khi chủ nó cho người
khác vay, nó có thể gắn trở lại với
một quá trình sản-xuất mới (tái
sản-xuất), tùy người vay làm gì với
nó :
a/ người vay dùng nó để đầu tư vào
sản-xuất : giấy nợ được quá trình sản-xuất ấy bảo
lãnh, giá trị tài chính biến thành giá trị tư bản
sản-xuất, có khả năng tạo giá trị thặng dư đích
thực.
b/ nhà nước vay, để làm gì, không
biết. Giấy nợ được lao động tương lai của bàn dân
bảo lãnh.
c/ một chàng lãng tử vay, chơi bời
trác táng đã đời rồi tự tử để thoát tù. Giá trị thực
tan trong du hí tiêu thụ. Giấy nợ trở thành giấy
lộn.
3/ Qua đó, sự vận
động của tư bản tài chính có thể :
a/ chớp nhoáng, không gắn bó với
thời gian của hệ sản-xuất.
b/ về mặt giá trị, nó "chỉ" tuỳ
thuộc chủ quan của chủ nó thôi.
Về mặt chức năng, tư
bản tài chính khác tư bản ngân hàng ở đó.
Chức năng ban
đầu của tư bản ngân hàng là : tập trung
những món tiền lẻ tẻ của hàng triệu người, từng món
không đạt lượng cần thiết để biến tiền thành tư bản,
tạo ra vốn đầu tư tập thể cho phép
phát triển sản-xuất. Vốn riêng
của nó là giá trị có thực ở đời. Cho xí nghiệp vay,
nó lấy quá khứ đánh cá tương lai : khả năng tái
sản-xuất giá trị cũ và tạo giá trị thặng dư mới của
các công ty sản-xuất. Nó có chức năng kinh tế cần
thiết, hữu ích đối với xã hội, rõ ràng và đáng được
thù lao. Dù những créances (quyền đòi
nợ) của nó có thể đổi tay chớp nhoáng trong thị
trường tài chính, những créances đó,
cuối cùng, chỉ trở thành hiện thực sau một quy trình
sản-xuất đích thực. Nó cho anh Renault vay 3 tỷ $ để
xây dựng nhà máy ở Trung Quốc thì nó phải chờ vài
năm, khi anh Renault xây dựng xong nhà máy và khai
thác, tức là mua sức lao động rẻ tiền ở Trung Quốc
để sản-xuất hàng hoá, và bán được sản phẩm với giá
hằng mong. Lúc đó người đời mới biết được 3 tỷ
$ ấy đáng giá bao nhiêu, cả vốn lẫn lời hay…
lỗ.
Tư bản tài chính thì
khác. Nội một tuần thôi, tuy bản thân ông chẳng có
vốn liếng bao nhiêu, ông Soros đã lời 2 tỷ $ không
ảo tí nào.

George Soros
Ba câu hỏi
ám ảnh
Với kẻ ngoại đạo, có
mấy câu hỏi cứ ám ảnh trở đi trở lại :
1/ Vì sao một con
chuột có thể đẻ ra một con voi khủng khiếp đến thế ?
Bước đầu, "chỉ là"
một món nợ 1 ngàn tỷ $ không có khả
năng thanh toán "của" bàn dân Mỹ ham mua nhà nên vay
tiền càn. Nhưng, theo anh Vũ Quang Việt cho bạn bè
biết, và tôi tin số liệu của anh, nó đã biến thành
516 ngàn tỷ $ trong đủ thứ thị trường chứng
khoán, trong khi "GDP của Mỹ chỉ có 16 ngàn tỷ và
của cả thế giới là 50 ngàn tỷ." Hơn 10 lần GDP của
cả nhân loại !
2/ Vì sao các ngân
hàng bỗng nhiên cạn tiền mặt, mất hết khả năng thanh
toán, nợ nần lụt mặt, lâm vào nguy cơ phá sản ?
3/ Tiền thực đã đi
đâu mất hút ?
Cho tới nay tôi chưa
may mắn được đọc một bài nào giúp tôi hiểu ba
sự kiện ấy một cách tổng hợp và hữu cơ.
Đành tự mình mày mò
vậy.
Trước hết, tôi nhại
chương trình giáo khoa trong môn kinh tế học lý
thuyết ở năm đầu đại học Tây U, thời tôi xách cặp
tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang
sách nhỏ : đơn giản hoá và khái niệm hoá vấn đề,
bịa ra vài tác nhân kinh tế (agents
économiques) liên quan với hiện tượng này để
vạch rõ chức năng của chúng trong sự
vận động của hiện tượng. Điều ấy có nghĩa : ta gạt
qua một bên tất cả những tham số không cần thiết để
hiểu cốt lõi của sự kiện, tuy chúng có thể tác động
ít nhiều vào kết quả cụ thể, coi như là nhiễu.
Trong tinh thần đó,
những số liệu sau đây dĩ nhiên là vớ vẩn, chi có
chức năng lôgích thôi.
Trong vấn đề này, sơ
khởi, có mấy tác nhân đại diện cho những chức năng
sau :
A : bàn dân Mỹ ham
làm chủ cái nhà mình ở, đi vay tiền mua.
B : một anh đầu cơ,
cho A vay tiền mua nhà với điều kiện rất đặc biệt,
nhưng hợp pháp.
C : ngân hàng cho B
vay tiền để làm ăn, theo kiểu truyền thống.
D : ngân hàng kinh
doanh subprimes et tutti quanti.
E : "những thị trường
tài chính", tôi tạm định nghĩa kiểu tôi : toàn bộ
những ai nắm những giá trị thặng dư khổng lồ có thực
trên thế giới dưới dạng tiền hay dạng nợ do các quốc
gia bảo lãnh (nợ do lao động tương lai của bàn dân
bảo lãnh) : những tỷ phú, những cơ quan đầu tư,
fonds d'investissement, những "fonds
souverains" (tiền của các quốc gia như Trung
Quốc, Nga, Ảrạp) et tutti quanti, và
ngay cả tôi nếu tôi sẵn sàng đem ít tiền còm của tôi
để mua bán sản phẩn tài chính này nọ. Đây là nguồn
cung cấp vốn lớn nhất cho "thị trường".
Đương nhiên, những
tác nhân ở đây chỉ biểu hiện chức năng
kinh tế thôi. Anh đầu cơ B có thể là cá nhân ông
Soros, tổng giám đốc một Fond d'investissement
Mỹ, một ngân hàng nào đó, hay Ngân hàng quốc gia
của Trung Quốc chẳng hạn. Có "người" có thể vừa là
đầu cơ, vừa là chủ ngân hàng, vừa là tư bản tài
chính. Et tutti quanti. Khái niệm luôn
luôn trừu tượng, xám xịt, thế giới thực mới khởi sắc
thôi mà.
Ta thử tưởng
tượng xem, về mặt lôgích thôi, 5 tác nhân
kinh tế ấy có thể hành động như thế nào trong chuyện
này.
Cho rằng số $ có thực
ở đời tương đương với giá trị hàng hoá có thực ở
đời.
Điều này cãi cọ với
nhau mãn kiếp cũng chưa cạn vấn đề. Ta không cần
biết tới. Ta xuất phát từ hiện thực này : trong đời
thực lúc đó có một lượng hàng hoá nhất định và một
lượng $ nhất định cho phép người ta thoải mái trao
đổi hàng hoá với nhau bằng lượng $ tiêu biểu cho giá
trị của chúng. Lời bù lỗ, tổng số lời-lỗ = 0. Đó là
nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường. Vứt nó đi,
chẳng có gì hiểu đươc. Chấm hết.
Trong những bảng sau,
$ màu đen là $ có thực tương ứng với hàng hoá có
thực. $
màu đỏ là $ ảo, chỉ có trong kế toán, tương
ứng với khả năng sản-xuất tương lai 20 năm của A.
"Thoạt kỳ thuỷ", xuất
hiện một hàng hoá mới vừa được sản-xuất, có thực :
nhà = 100$
hành động |
có |
nợ vốn |
nợ lãi |
A vay tay đầu cơ B tiền mua nhà |
100$ biến thành nhà của A |
100$ (*) |
900$
trên 20 năm |
B cho A vay |
-100$ +
1000$ |
|
|
(*) 100$ thực đã vào
túi của người bán nhà. Món nợ này của A là tiền ảo,
chứ nếu A có thực thì đã không phải đi vay và chịu
lãi nặng nề đến thế ! Nhưng món nợ này có bảo lãnh
thực : bản thân cái nhà.
900$
còn lại đương nhiên là tiền ảo nguyên chất, bảo lãnh
của nó là khả năng làm ra
900$
trong tương lai 20 năm của A.
Hỡi ơi, bản thân B
cũng không có 100$ để cho A vay, nên B đã đi vay
người khác. Vì B "có tài", dám liều, và nhất là B có
quan hệ tốt đẹp đầy niềm tin với hệ thống ngân hàng,
lại biết chơi ngon, B vay được.
B vay ngân hàng C với tỷ
lệ lãi 100%/năm |
100$ |
100$ |
100$ trên 1 năm |
C cho B vay + với
lời |
-100$ +
200$ |
|
|
B bán rẻ giấy nợ của A
cho ngân hàng D |
300$ |
|
|
D mua giấy nợ |
- 300$ +
1000$ →
(700$ lời) |
|
|
B thanh toán nợ cho C |
-200$ |
|
|
C nhận tiền của B |
200$ |
|
|
B thủ túi tiền lời và
zông |
100$ |
|
|
Đến đây, B đã thủ túi
100$ một cách sòng phẳng, đúng pháp luật, và có thể
biến, đàng hoàng tử tế.
Với các tác nhân còn
lại trong hệ thống tiền tệ, kết quả tổng hợp là :
tác nhân |
có |
nợ vốn |
nợ lãi |
A |
nhà |
100$ |
900$
trên 20 năm |
C |
200$ |
|
|
D |
-300$ +
1000$ |
|
|
D đã đánh đổi 300$
thật lấy một giấy nợ
1000$
ảo. Vốn riêng của D từ 300$ thật đã biến thành
300$
ảo. Qua đó D đã lời
700$
ảo.
Giá trị cổ phiếu của
D tăng vùn vụt trên thị trường chứng khoán. Lương
của tổng giám đốc của D còn tăng nhanh hơn ! Trước
kia cổ phiếu của D đáng giá 300$. Bây giờ nó đáng
giá
600$, tăng thêm
300$,
toàn là giá trị ảo cả :
300$
trong số
1000$
và 300$
do tăng giá trên thị trường chứng khoán.
Nhưng, đúng theo một nguyên lý khác của "khoa học"
kinh tế hàn lâm, giá trị đích thực của hàng hoá do
cung-cầu quyết định, ở đây là cung-cầu trong thị
trường chứng khoán. Thế là trong hệ thống tài chính,
20 năm lao động tương lai của A bảo lãnh cho
1300$
ảo.
Tiền của D ảo vì
không có trong đời thật, dưới dạng hàng hoá hay
tiền. Nó chỉ là một dòng chữ số trong bảng kế toán
của D. Người đời lại dựa vào bảng kế toán ấy để đánh
giá giá trị "thật" của D !
Nếu vốn riêng của D
(do bàn dân gửi tiền, người đời cho vay, v.v.) là
300$ và nếu chủ nợ cùng lúc đòi D trả lại thì D…
chìm xuồng : thắt cổ A cũng không vắt được 300$
thôi, nói chi là 1000$.
300$ thật của D đã
được phân phối như sau :
100$ vào túi người bán nhà. Làm ăn
lương thiện và hợp pháp.
100$ vào túi anh đầu cơ B. Tuy không
có một xu vốn nhưng lời đích thực và hợp pháp.
100$ vào túi ngân hàng C. Lời đích
thực và hợp pháp.
Chẳng có gì ám muội,
khó hiểu cả.
Mô hình đơn sơ này,
hoàn toàn không dùng tới một tham số tâm lý nào cả,
đã đủ giải thích về mặt lôgích, một cách tổng
hợp và hữu cơ 3 hiện tượng :
1/ Vì sao con chuột
100$ đã đẻ ra con voi
1000$, rồi,
qua thị trường tài chính, đẻ ra một con voi
1300$. Tiền
thì ảo, nhưng nợ thì… thật, lôi thôi ra toà thì
biết.
2/ Vì sao có ngân
hàng bỗng nhiên cạn tiền mặt, mất hết khả năng thanh
toán nợ thực của mình và, nếu vứt bỏ
1000$
ảo kia thì nợ nần lụt mặt, cổ phiếu chẳng còn giá
trị gì cả.
Đó là cốt lõi của
cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Ngân hàng và cơ
quan bảo hiểm, tài chính rất giàu trên giấy tờ,
nhưng đều đang cạn túi tiền mặt, không có ngay cả
khả năng hoàn lại tiền bàn dân đã cho nó vay.
3/ Tiền thực đã đi
đâu mất hút ?
Từ đó, đẻ ra hiện
tượng tâm lý :
4/ Ngân hàng không
dám cho nhau vay tiền nữa, bởi vì đâu ai còn tiền
mặt để trả, chỉ trả nhau bằng tiền chữ-số nửa ảo nửa
thật thôi, không ai biết thật ảo tới mức nào.
5/ Ngân hàng cũng e
ngại cho anh tư bản sản-xuất vay tiền thực để phát
triển sản-xuất : bản thân nó đang thiếu tiền mặt để
trả nợ, còn cho ai vay nữa ? Và anh tư bản sản-xuất
thì không thể dùng tiền ảo để mua phương tiện
sản-xuất thực và nhất là trả lương nhân viên ! Thế
thì chỉ tái sản-xuất thôi cũng không đảm bảo nổi nói
chi là tái sản-xuất mở rộng. Vì thế mà có thể có "tăng
trưởng âm". Ngôn ngữ của chính trị gia và
kinh tế gia đáng nể thật !
6/ "Các thị trường
tài chánh" e ngại đổ tiền vào hệ thống ngân hàng,
bảo hiểm et tutti quanti : đổ tiền
thật để mua nợ ảo, dù có thể lời ảo đến bao nhiêu,
để làm gì ?
Chỉ còn lại một điều
bí hiểm thôi : quy mô của con voi. Cuộc khủng hoảng
bước đầu chỉ ở mức thiếu hụt tối đa là
1000$,
cho rằng cái nhà không ai thèm mua nữa nên đã mất
giá = 0$ !
Về mặt lôgích, nó có
thể tự phình ra, mô hình trên đã cho thấy. Nhưng đến
thế thì tưởng tượng sao được ?
Các chính quyền Tây
Âu đã đổ ra hơn 1000 $ nhiều mà chẳng giải quyết
được gì, lại còn đang tự hỏi : liệu 1 000 000 $ có
đủ chăng ?
Lý do ? (có thể)
1/ Món tiền ảo kia đã
được xé nhỏ ra, trộn lẫn với những giá trị khác
(công nghiệp, kinh doanh, trái phiếu, et tutti
quanti) biến thành những món "sản phẩm tài
chính" ô hợp, nửa thực nửa ảo, mua đi bán lại cho
nhau trên cơ sở những tham số, ở đây, nặng tâm
lý cá cược và kiến thức toán học kinh tế hão.
Tư bản tài chính đã thoát dây nhau trói buộc tiền
với sản-xuất thực mà. Có ai biết giá trị thực của
các "sản phẩm tài chính" ấy là bao nhiêu đâu ? Ngay
trước mắt, nói gì tới tương lai 20 năm ! Thế thì mua
bán với giá nào mà chẳng được, miễn sao cuối năm
khai lời và lãnh tiền thưởng là xong ? Còn lại, sống
chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.
2/ Tác nhân kinh tế
trừu tượng D, trong thực tế là toàn bộ hệ thống ngân
hàng, bảo hiểm, et tutti quanti, tương
tác hàng ngày hàng phút hàng giây với nhau và với
những tác nhân kinh tế khác, với "các thị trường tài
chính", tức là những người hay cơ quan nắm số vốn tư
bản không lồ có thực trên thế giới, thí dụ những cơ
quan đầu tư (fonds d'investissement)
vui chơi với tiền tiết kiệm, bảo hiểm hay hưu trí
của bàn dân lao động ở Mỹ, Ngân hàng nhà nước Trung
Quốc, Nga, Ảrạp, các anh hùng hảo hớn khác,
mua qua bán lại tiền, giá trị,
thực và ảo, để thủ lời chớp nhoáng.
Trong sự trao đổi này, người ta rất có
thể trao đổi không ngang giá trị vì có ai biết được
1000$ ảo
"của" A giá trị bao nhiêu đâu ? Và cũng chẳng ai ngờ
được rằng giá trị cổ phiếu của D hoàn toàn ảo !
Hai nhân tố ấy có thể
giải thích chăng hiện tượng này ? Tôi không biết,
không quan tâm. Để làm gì ? Vì sao ?
Vì dù sao thì kết quả
cuối cùng là :
a/ Các ngân hàng và
cơ quan bảo hiểm, v.v. cạn tiền mặt, nợ nần lụt mặt,
chẳng còn giá trị nào cả.
b/ "các thị trường
tài chính" ứ hự tiền nhưng không muốn cho vay…
trừ khi các nhà nước tư bản lấy tiền dân,
hôm nay và ngày mai, ra bù lỗ, bảo
lãnh tương lai của các ngân hàng, các cơ quan bảo
hiểm et tutti quanti bằng lao động
tương lai của bàn dân. Cứ đọc thông tin về thị
trường chứng khoán mấy ngày qua thì thấy. Các nhà
nước bơm tiềm bù lỗ tới đâu, niềm tin của "các thị
trường tài chính" khởi sắc tới đó. Được vài ngày,
lại xìu. Có thể vì nhà nước chưa bơm đủ tiền để hài
lòng tin của chúng ?
Các nhà nước tư bản
không dám in tràn tiền giấy để bù lỗ, thế là ngoan :
lạm phát sẽ bùng nổ ngay, hậu quả không ai lường
được, chết cả lũ, kể cả "các thị trường tài chính" !
Nguyên lý của kinh tế thị trường là vậy mà ! Nhưng
bàn dân tứ xứ lao động cật lực trong 10-20 năm thì
có thể bù lỗ ? Điều ấy tạm tin được. Các lãnh tụ
chính trị chỉ cần sai vài chuyên viên kinh tế chứng
minh như đinh đóng cột, 1+1=2, rằng bàn dân đã sống
trên khả năng của mình quá lâu,
từ nay phải thắt lưng buộc bụng, lao động hết mình
để trả nợ. Rất khó nuốt, nhưng vẫn nghe được được.
Trừ khi cái bụng đã teo quá rôi, không thể thắt lại
hơn nữa, sẽ kiệt sức lao động ngay. Thế thì còn lâu,
chí ít ở Tây Âu. Bụng của mấy ông Tây bụng phệ teo
đến mấy vẫn còn quá lớn so với bụng của 350 triệu
lao công Trung Quốc mà.
Hiện tượng con chuột
đẻ ra con voi khổng lồ có thể tim hiểu được. Cũng
vui thôi. Nhưng, đối với tôi, nó không thuộc lý luận
cơ bản trong môn kinh tế học, nó thuộc :
a/ Lĩnh vực kỹ thuật. Cứ moi hết sổ
sách của các tác nhân trong các căn cứ dữ liệu thì
có đủ tài liệu để phân tích. Cũng chẳng cần đến
phương tiện tính toán khổng lồ và kiến thức toán
siêu việt : hệ thống kế toán của kinh tế tư bản rất
chặt chẽ, hoàn chỉnh, dễ hiểu. Nó quản lý giỏi cũng
nhờ hệ thống ấy. Với những thông tin mà họ có được
thôi, tất nhiên là rất thiếu, các lãnh tụ tư bản
cũng đã tính đại khái phải đổ bao nhiêu tiền để tạm
thời ổn định tình hình trong điểm này điểm nọ. Trong
hệ kế toán ấy, người ta có thể khai gian để ăn cắp,
nhưng bới tới cùng sổ sách, chẳng trốn vào đâu được,
tiền ra luôn luôn phải đối xứng với tiền vào. Còn
lưu lượng tiền ấy có thực sự biểu hiện một công việc
thực hay không là chuyện vặt của công an, toà án,
không thuộc về lý thuyết kinh tế. Đây là lãnh vực có
thể nghiên cứu một cách khoa học, nghĩa là : trên cơ
sở của hiện thực, không trên cơ sở của tâm lý, toàn
là chuyện đã qua rồi mà, và có bằng chứng cụ thể.
Chính các ngân hàng cũng phải dựa vào những bằng
chứng cụ thể ấy để biết mình còn bao nhiêu tiền, nợ
ai bao nhiêu và ai nợ mình bao nhiêu mà ! Nếu
chuyện ấy khả thi, nó có thể cho phép ta
giải thích quá trình phóng đại tiền ảo,
và đó là một vấn đề kỹ thuật đơn thuần : bất kể tâm
lý của ai thế nào trong quá khứ thì những chuyện ấy
đã xảy ra, có bằng chứng khách quan. Quá trình hành
động khách quan đó, ta có thể biết, phân tích, hiểu
và, cho tương lai, điều chỉnh hay cấm đoán được. Còn
tâm lý người đời trong 10-20 năm nữa, thậm chí ngày
mai thôi, ta không thể biết được, đừng hòng dùng
"khoa học" kinh tế để điều chỉnh nó. Thế thôi. Ngay
trong kiếp nhân văn, tinh thần khoa học khác ý thức
hệ kinh tế ở đó.
Còn những lý do rất thực khiến chuyện
ấy không thể thực hiện được, tiền vòng vèo qua những
thiên đường tài chính rồi trở lại trong tay những ai
ai và luật pháp đảm bảo bí mật ngân hàng, chúng nằm
ngoài lý luận kinh tế lý thuyết. Những lý thuyết cho
phép một số người tạo ra một cơn khủng hoảng tai hại
như thế này, lại được bí mật ngân hàng bảo vệ và ung
dung đi nhậu những bữa ăn trị giá 3000€/người tại
Monaco, tôi không mê tí nào. Ai muốn bàn ra tán vào
thế nào cũng được : đó là ý thức hệ, là niềm tin
không cần phải chứng minh của mỗi người.
Ngoài ra, đương nhiên là còn có trăm
thứ vấn đề liên quan :
b/ Lĩnh vực chính trị. Nhà nước nên
can thiệp vào kinh tế để điều tiết nó hay không ?
Đến mức nào ? Cứu hay không cứu ? Cứu ai ? Lấy tiền
của ai để cứu ai ? Cứu như thế nào ? V.v.
c/ Lĩnh vực ý thức hệ kinh tế.
Niềm tin lẫn nhau của các ngân hàng, của các
"thị trường tài chính", của người tiêu thụ.
d/ et tutti quanti.
Những chuyện đó có thực, có thể giải
thích được hậu quả tức thời của cuộc
khủng hoảng, không giải thích được nguồn gốc và quá
trình phát triển của nó đã dẫn tới thực trạng hôm
nay và đẻ ra những niềm tin hay tâm lý ấy. Nếu có
thể, người đời đã vạch ra từ lâu rồi và ai mà chẳng
hiểu được : tâm lý thôi mà ! Chỉ vài tuần thôi mà
niềm tin ấy đã quay 180° rồi mà ! Có mấy ai tiên
đoán được đâu ? Và có ai dám nghĩ rằng cơn bão đã
được giải quyết tận gốc đâu ? Mấy ngày nay, niềm tin
ấy lắc lư như con lúc lắc nổi điên. Dựa vào nó đó để
xây dựng khoa học kinh tế là chuyện hão.
Bây giờ ta trở lại một vấn đề "lý
thuyết" của môn kinh tế học. Sức mạnh của kinh tế tư
bản là : nó khuyến khích con người cả gan chấp nhận
rủi ro, đánh cá tương lai, qua đó nó khiến con người
phát triển khả năng sáng tạo, hành động et
tutti quanti. Tôi hoàn toàn đồng ý : chính
Marx đã nói thế hơn 100 năm nay rồi mà, và sâu sắc
toàn diện hơn các giáo trình lý thuyết kinh tế mà
tôi đã được học.
Chỉ có điều này tôi hơi bị khác
thôi : các anh hùng hảo hớn ấy đánh cá tương lai của
mình thì ít, đánh cá tương lai của tha nhân thì có
thể… bạt mạng. Khi đã thất bại, họ còn
được đi nhậu một bữa ăn 3000€/người và về nhà ngủ
dưới một cái "dù vàng" vài hay cả trăm triệu $ mà.
Thí dụ : Henry Paulson, cứ vào Wikipedia đọc thì
biết.
Khi nhà tư bản mua sức lao động sẵn
có trong thị trường lao động với giá 100$ và tin
tưởng rằng với cách mình sử dụng nó, nó sẽ sản-xuất
ra 120$, nhà tư bản đã đánh cá với tương lai, chí ít
là của người lao động (vì không chỉ có thế thôi) :
nếu, ngay trong hoàn cảnh sản-xuất bình thường,
người ấy dở quá thì… lỗ to.
Ngày nay, trong cuộc đánh cá hi hữu
này :
1/ Kẻ đầu tiên đánh cá có thể
là ngài giám đốc ngân hàng với tiền
của… người khác (của tất cả những ai gửi tiền vào
ngân hàng hoặc cho nó vay) : cho nhà tư bản chức
năng vay vốn để sản-xuất.
2/ Người thứ hai đánh cá, tuy không
ham, nhưng cực chẳng đã, chính là người lao động làm
thuê, phải ứng vốn cho nhà tư bản đánh cá : phải làm
việc hết tháng mới được lĩnh lương. Trong thời gian
ấy, ăn cơm nhà vác ngà voi. Ai mà chẳng "biết".
Nhưng chỉ khi khủng hoảng, bị quỵt lương mới ý thức
được. Đó là điều kiện tồn sinh bình thường
của kẻ bán sức lao động để sống. Trong nhiều nghề
khác, người ta không mần ăn kiểu ấy, cứ thuê trạng
sư thì biết.
3/ Giám đốc công ty sản-xuất, và là
nhà tư bản sở hữu nếu
ông là chủ của công ty : ký hợp đồng rồi, có thể
lĩnh chút tiền cọc, nhưng phải sản-xuất xong sản
phẩm thì mới lĩnh được hết tiền. Chính vì thế mà cần
ngân hàng cho vay ngắn hạn để thanh toán lương bổng,
chi phí sản-xuất hàng ngày. Trong lĩnh vực siêu thị
ở Pháp thì kinh hoàng : các xí nghiệp nộp hàng cho
chủ siêu thị xong rồi, phải chờ 90 ngày mới được trả
tiền. Một phần quan trọng tiền lời của các siêu thị
xuất phát từ khai thác lượng tiền ứng trước ấy trong
thị trường tài chính. Đúng là buôn lấy lời bằng tiền
vốn của người khác. Dũng cảm chấp nhận rủi ro đến
thế là cùng ! Những ngân hàng cũng thế thôi : trong
chức năng ngân hàng truyền thống, tiền nó cho thiên
hạ vay là tiền của chúng ta gửi nó, không có lời.
Thế thôi.
T → T + T' → …Bí quyết thành công của công thức này
là : cả gan đánh cá tương lai thật thà… của người
khác và, nếu có thể, với tiền của người khác ! Và
biết thu lời đúng lúc bất kể tương lai
ấy sẽ thế nào. Hơn thua nhau ở hai từ đúng lúc.
Thế thôi. Tương lai ảo đổi ngay ra tiền thực dễ yêu
hơn bất cứ tương lai "thực" bấp bênh nào. Biết được
lúc nào là "đứng lúc", quả là không dễ. Nhưng vẫn có
người biết hơn người khác. Ông Tổng giám đốc ngân
hàng Société Générale chẳng hạn. Thí dụ có đầy trong
báo chí hàng ngày.
Có người sẽ cười : ôi, lại kiểu lý
luận duy vật lỗi thời, chẳng khoa học gì cả. Tôi
chấp nhận : nó không cần biết tới tâm lý của ai cả,
chỉ lý luận trên cơ sở những hành động đã có thực và
hậu quả có thực của chúng thôi. Ngay như thế, cũng
chỉ ở dạng tưởng tượng lôgích thôi : tôi không là
chuyên viên kỹ thuật trong môn này, không biết hết
những thông tin chi tiết khách quan, chưa kể tới
luật lệ cụ thể của từng quốc gia, chỉ biết đại khái
qua báo chí thôi.
Nhưng đồng thời, kiểu lý luận này
không coi hoạt động kinh tế của con người như sự
kiện tự nhiên tuân theo quy luật của tự nhiên, dù nó
phải có kích thước vật chất mới có thực, không coi
rằng toán học có thể bảo lãnh kinh tế học như nó bảo
lãnh vật lý.
Tôi đặt hành-động của con người trong
thời gian, đương nhiên là thời gian trong cõi trung
mô, thời gian của người. Thời gian ấy đương nhiên là
thời gian vật lý đếm bằng năm, tháng, ngày, giờ. Ai
có thể hành động ngoài thời gian vật lý ấy, trừ các
hảo hớn tài chính ? Nhưng nó cũng là thời gian sinh
học. Ai mà chẳng sợ đói, cần ăn, thậm chí thà ăn
nhiều mà ngon còn hơn ăn ít mà dở ? Ai chẳng thèm có
một mái nhà để trú thân mưa nắng ? Ai có thể làm gì
mà không có ý-hướng ? Và, cuối cùng, nó là thời gian
của văn hoá, của ý thức hệ : niềm tin vào đủ thứ
linh tinh, có thực và không có thực, chính đáng hay
không chính đáng, et tutti quanti. Tất
cả, cuối cùng, đọng lại trong hành-động có thực của
con người với con người, với thế giới tự-nhiên. Hành
động ấy khách quan. Hậu quả cuối cùng của nó trong
thế-giới cũng khách quan.
Chỉ có "những thị trường tài chính"
mới có khả năng suy luận và hành động độc lập với
thời gian ấy. Cứ xem thị trường chứng khoán thì
thấy : mỗi ngày người ta trao đổi hàng chục hàng
trăm tỷ $ như chơi, xuyên qua quyết định của một
đống định trình, không cần biết trao đổi cái gì với
cái gì trong đời thực cả. Chúng suy luận như thế
nào, tôi không biết. Nhưng hành động ấy có thực, hậu
quả của nó khách quan. Và tai hại cho người đời.
Suy luận biện chứng là thế thôi.
2008-10-29
|