Những bài cùng tác giả
MẬU DỊCH
TỰ DO VÀ MẬU DỊCH CÔNG BẰNG

Nói đến
toàn cầu hóa người ta nghĩ ngay đến Tổ Chức Thương
Mãi Quốc Tế (World Trade Organization - WTO). Pascal
Lamy, tổng giám đốc WTO, dè dặt trấn an mọi người,
WTO "không được sáng lập như một câu lạc bộ của các
công ty đa quốc gia có nhiều ý đồ đen tối phương hại
đến quyền lợi của người dân. Chúng tôi làm việc công
khai. Hãy xem trang mạng của chúng tôi".
Từ hơn
một năm nay, hệ thống tài chính toàn cầu hóa đã làm
cả hành tinh điêu đứng. Tuy vậy, trong phiên họp cấp
bộ trưởng thứ bảy của WTO ở Geneva vào cuối tháng
11- 2009, các nhà ngoại giao vẫn luôn giữ thái độ
chối bỏ sự thật. Một tài liệu mật trong hồ sơ các xứ
hội viên - đã hẳn không thể tìm thấy trên WTO
website - tiết lộ, mặc dù ngay giữa lòng khủng hoảng
tài chánh và môi trường, các lý thuyết gia toàn cầu
hóa vẫn luôn hành động bình thản như đang sống trước
năm 1999.
Tám
tháng trước kỳ họp WTO ở Seattle, Thỏa Ước Các Dịch
Vụ Tài Chánh (WTO's Financial Services Agreement -
FSA) đã bắt đầu có hiệu lực pháp lý trên toàn cầu,
thay thế những quy luật cũ ngăn cấm các giao dịch
ngoại tệ và chứng khoán tài chánh thiếu an toàn
xuyên biên giới. Các loại chứng khoán tài chánh có
thế chấp cũng như đầy bất trắc đã lan tràn nhanh
chóng. Kết quả: bong bóng bất động sản xìu xẹp ở Hoa
Kỳ đã tác động như vệt dầu loang trên khắp thế giới.
Nói
chuyện với Greg Palast, phóng viên Newsnight (Anh)
và Ring of Fire (Mỹ), Lamy nhấn mạnh, ông xem WTO
không như đại diện các công ty đa quốc gia luôn tìm
cách cởi bỏ mọi quy luật giám sát, mà như một định
chế phát huy các quan hệ hổ thuộc, một thứ Oxfam hay
ACLU trong thương mãi. Lamy nói, "sự hỗ thuộc có
nhiều khía cạnh tốt về tự do, về nhân quyền , về kỹ
thuật, về truyền thông, về các quyền tự do dân sự
chính trị".
Trong thực tế, bên ngoài tổng hành dinh WTO ở
Geneva, không mấy ai liên kết các chứng khoán có thế
chấp bất động sản hay không mấy giá trị như swaps
và derivatives với tự do và nhân quyền.
Cũng
theo tài liệu mật nói trên, Liên Hiệp Âu Châu, với
hậu thuẫn của Hoa Kỳ, đòi hỏi Brazil mở cửa đón nhận
các giao dịch chứng khoán thiếu an toàn và đầy bất
trắc của các đại ngân hàng nước ngoài. Liên Hiệp Âu
châu không hài lòng khi Brazil chưa chịu chấp nhận
Thỏa Ước Thứ Năm - có nghĩa, Brazil là nước lớn duy
nhất không chấp nhận FSA.
Tổng
Thống Brazil, Luiz Inacio Lula da Silva, đã từ chối
chơi trò cá cược nguy hiểm trên các thị trường tài
chánh và mậu dịch tự do, nhờ đó, đã giúp Brazil
tránh khỏi hệ lụy của trận đại suy thoái 2008 và
kinh tế Brazil tăng trưởng 9% GDP trong ba tháng vừa
qua. Phải chăng giờ đây đòi hỏi Brazil tham gia vào
canh bạc chứng khoán đầy bất trắc là một điều điên
rồ? Lamy trả lời, chẳng có gì phi lý: "Mậu dịch
không phải là vấn đề. Vấn đề là liệu sản phẩm trao
đổi có được giám sát hay không?".
Như vậy,
giải pháp cho vấn đề là phải quy định và giám sát
chặt chẻ hệ thống tài chánh và các ngân hàng quá
phóng túng và tham lam, như cách đây mười năm. Tuy
nhiên, còn có một khó khăn tiềm ẩn khác. Như Lamy
đã lưu ý, "trong WTO, quý vị luôn có thể bước
lui. Cứ tái quy định và tái giám sát, nhưng quý vị
phải trả giá". Theo quy chế FSA, một khi một xứ
đã gở bỏ các quy chế giám sát tài chánh, xứ đó không
thể, dù gặp khủng hoảng, áp đặt trở lại chính sách
bảo vệ gây trở ngại cho các tác vụ giao dịch của các
ngân hàng nước ngoài mới được thành lập. Chẳng hạn,
nếu Ecuador theo khuyến cáo của nguyên chủ tịch Cục
Dự Trữ Liên Bang Paul Volcker tái lập các quy luật
ngăn cấm các ngân hàng thương mãi đầu cơ trong các
chứng khoán thiếu bảo đảm, chính phủ Mỹ, theo đúng
điều lệ WTO, có thể nâng thuế quan đánh trên chuối
nhập khẩu từ Ecuador để bù vào số lợi nhuận thất
thoát của các ngân hàng Mỹ. Nói một cách khác, một
quốc gia thành viên sẽ phải tốn kém khá nhiều khi
tái lập quy chế kiểm soát các giao dịch của văn
phòng đại diện JP Morgan.
FSA VÀ
CHÍNH QUYỀN CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
Khi thỏa
ước tài chánh WTO bắt đầu có hiệu lực vào năm 1999,
địa cầu trở thành môt hành tinh khác hẳn. Một tháng
trước vụ xuống đường chống đối WTO, Robert Rubin đã
gia nhập Citigroup, một ngân hàng khổng lồ đã được
sáng lập nhờ biện pháp tháo gỡ các quy luật giám sát
do chính Rubin thiết kế khi còn giữ chức vụ bộ
trưởng ngân khố trong chính quyền Bill Clinton. Vào
thời điểm đó, ngoại trừ những người phản đối ở
Seattle, ít ai nghi ngờ khả năng và đòn phép phi
thường của Rubin.
Năm
1999, thương mãi quốc tế liên hệ đến các chứng khoán
dựa trên quyền sở hữu số tiết kiệm lũy tích trong
các bất động sản và tín dụng thiếu giá trị (equity
derivatives and credit default swaps) còn hiếm hoi
nên chẳng ai quan tâm theo dõi. Nhưng nhờ các điều
khoản dự liệu trong WTO do Timothy Geithner, nguyên
phụ tá bộ trưởng Ngân Khố phụ trách quốc tế vụ
thương thảo, thương mãi xuyên biên giới về các chứng
khoán swaps và derivatives đã đạt mức 115.000
tỉ tính đến năm 2008, cũng là năm Citigroup suýt vỡ
nợ và đã được chính quyền cứu trợ.
Một thập
kỷ trước đó, trong Biến Cố Seattle, Lamy - trong tư
cách tổng giám đốc ngân hàng khổng lồ Credit
Lyonnais của Pháp, , do chính Lamy tư hữu hóa -
đã là một tiền đạo nòng cốt đại diện cho các lực
lượng tài chánh WTO. Khi Greg Palast hỏi: hình
như lập trường của các lực lượng phản đối ở Seattle
- sự san bằng biên giới tài chánh giữa các quốc gia
chứa đầy nguy cơ bất trắc - đã được khủng hoảng 2008
chứng minh là đúng. Để trả lời, Lamy nhấn mạnh,
những khó khăn của WTO không phải là vấn đề chính
sách mà chỉ là vấn đề giao tế: "Chúng tôi hiểu
một phần hoạt động của chúng tôi cần phải minh bạch
hơn, phải được giải thích rõ ràng hơn. Tôi nghĩ,
chúng tôi đã làm nhiều việc theo chiều hướng đó".
Martin
Khor không nghĩ như vậy. Trong tư cách giám đốc điều
hành South Center, và nguyên giám đốc Mạng
Lưới Các Tổ Chức Phi Chính Phủ Thế Giới Thứ Ba
(NGO Third World Network), Khor là một lãnh đạo khá
thành công của phong trào chống đối toàn cầu hóa.
South Center, trụ sở ở Geneva, đã đem lại cho Brazil
và nhiều xứ đang phát triển khác sức mạnh kỹ thuật
để tự vệ và chống lại sự áp đặt của Hoa Kỳ và Âu
châu.
Khor cho
biết, tai tiếng của WTO bắt nguồn từ sự quá tự tin,
quá táo bạo, trong nỗ lực gây sức ép, buộc các quốc
gia đang phát triển chạy theo cơn sốt cởi bỏ giám
sát của Hoa Kỳ và Âu châu, đúng theo các quy luật
mậu dịch. Và Khor đã thực sự thấy rõ các ngân hàng -
lẽ ra đã phá sản nếu không được chính quyền cứu trợ
- vẫn tiếp tục thuyết giảng các nước đang phát
triển về thánh kinh cởi bỏ mọi biện pháp kiểm soát
và giám sát các thị trường tài chánh. Theo Khor,
"nếu không có cứu trợ của chính quyền, các định chế
tài chánh vừa nói đã không còn tồn tại. Nhưng được
cứu trợ, những định chế nầy ngày nay vẫn tiếp tục
tin tưởng họ sẽ trở lại làm ăn như trước".
Rõ ràng các định chế nầy chưa hề nhận thức được:
thời các yến tiệc nay đã không còn.
TINH
THẦN VÀ DI SẢN SEATTLE
Hai
tháng sau khi đại diện các tổ chức lao động, nông
dân, các nhà hoạt động môi trường và nhân quyền, đổ
về Seattle phản đối cuộc họp cấp bộ trưởng WTO 1999.
Nghị Sĩ Paul Wellstone, bang Minnesota, đã tâm sự
với nhà báo John Nichols: "Nhiều điều chắt lọc
được từ Seattle - những vấn đề liên quan đến việc
thay hình đổi dạng của nền kinh tế toàn cầu - vẫn
còn nguyên vẹn. Đây là những vấn đề cần phải được
giải quyết".
Theo
Wellstone, một thập kỷ trước đây, những liên minh
đứng lên thách thức nghị trình các đại công ty tại
Seattle đã rất có thể triển khai thành một phong
trào mang tính lột xác và cách mạng. "Cách đây
một trăm năm, văn minh hóa kinh tế quốc gia là một
thử thách. Lúc đó, cũng như ngày nay, nhiều nhóm đặc
lợi với thế lực hùng hậu, đã tìm cách duy trì nguyên
trạng. Tuy nhiên, một phong trào quần chúng tiến bộ
lớn lao đã bùng dậy, và phong trào nầy đã đem lại
cho người Mỹ luật chống các liên minh, các tổ hợp,
các tập đoàn, các quy luật về an toàn thực phẩm, bảo
vệ lao động thiếu niên, bốn mươi giờ làm việc mỗi
tuần, và nhiều chính sách ngày nay chúng ta xem như
đương nhiên. Giờ đây, điều các bạn đang chứng kiến
là một chuyển biến khác - thời kỳ quá độ đến một nền
kinh tế toàn cầu. Yêu cầu hiện nay là văn minh hóa
kinh tế thế giới. Và cũng như lúc khởi đầu của thế
kỷ trước, đòi hỏi hiện nay cũng đến từ quần chúng.
Các lãnh đạo chính trị sớm muộn gì rồi cũng phải đáp
ứng".
Hầu như
mọi điều Wellstone nói đều khá đúng. Nhưng vị nghị
sĩ - mà sự vĩnh viễn ra đi trong năm 2002 đã lấy
mất đi một lãnh tụ dân cử có viễn kiến của phái cấp
tiến - đã đi trước thời đại. Chúng ta đã thấy nhiều
người xuống đường biểu tình ở Seattle đã đắc cử vào
những vị trí quyền lực. Chúng ta cũng đã nghe tiếng
đòi hỏi "mậu dịch công bằng" ở Seattle, tinh
thần trách nhiệm của các đại công ty, minh bạch
trong việc thương thảo, vận hành các thỏa ước toàn
cầu, và tinh thần liên đới quốc tế được phản ảnh qua
các cuộc vận động bầu cử của các ứng viên tổng
thống đảng Dân chủ ở Hoa Kỳ.
Tuy
nhiên, thế giới hiện còn quá tụt hậu so với viễn
kiến chuyển hóa (transformation) của Wellstone. Vì
vậy, chúng ta phải công bằng đặt lại câu hỏi đã được
Sherrod Brown, một trong những người tham dự đấu
tranh ở Seattle và hiện là nghị sĩ, đã thốt ra chỉ
ba ngày sau cuộc xuống đường: Các lực lượng xuống
đường đấu tranh ở Seattle đã thành đạt được những
gì?
Tiếp
theo sau nhiều đổ vỡ và xáo trộn trong các kế hoạch
của WTO, hình như mọi sự - kể cả một thế giới khác
xa - đều là điều có thể. T T Clinton đã phản ảnh
những đòi hỏi của phe phản kháng ở Seattle trong bài
nói chuyện đầy suy tư một cách bất ngờ tại Diễn Đàn
Kinh Tế Thế Giới Davos. Ông nói với các chính trị
gia tham dự, lãnh đạo các công ty, các chuyên gia
mậu dịch: "thương mãi không còn có thể là địa hạt
riêng của các chính trị gia, các CEOs, và các chuyên
gia mậu dịch".
Tuy nhiên, thông điệp nầy đã không được phản ảnh
trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, ngoại trừ
trong chừng mức ứng viên Đảng Xanh, Ralph Nader, đã
nêu lên bên lề cuộc vận động.
Sau khi
George W. Bush đắc cử, nhất là sau biến cố 11/9, với
thế giới quan hẹp hòi thắng thế, vấn đề du nhập ý
niệm "một thế giới khác là điều có thể" vào
các cuộc tranh luận về mậu dịch, phát triển, thực
phẩm và canh nông, và chính sách quân sự, ngày một
khó khăn hơn.
Các lãnh
đạo cao cấp trong Đảng Dân Chủ, cũng như các đảng
viên Cộng Hòa, chẳng mấy sẵn sàng rời bỏ hàng ngũ
mậu dịch tự do. Dennis Kucinich rất có thể đã ra
tranh cử ứng viên đại diện đảng Dân Chủ với thông
điệp "Seattle", nhưng John Kerry đã chẳng lấy đề tài
nầy tranh luận với các đảng viên Cộng Hòa luôn đứng
về phía các đại công ty.
Tuy
nhiên, ở các cấp thấp hơn, hình như đã có thay đổi.
Các ứng cử viên Dân Chủ lấy "mậu dịch công bằng"
làm nghị trình bắt đầu thắng cử ngày một nhiều. Và
họ không phải những ứng viên với lập trường bảo vệ
mậu dịch đơn thuần. Họ là những ứng viên nhiều kinh
nghiệm quốc tế, có thể tranh luận với các kinh tế
gia và các đại diện thương mãi về mặt trái của NAFTA
và CAFTA (Thỏa Ước Tự Do Mậu Dịch Bắc Mỹ và Trung
Mỹ) và ngạch số khuy khiếm lớn lao trong cân thương
mãi.
Bức xúc
với các cuộc chiến và tình trạng vô luật pháp của
Bush có thể đã là những động lực thúc đẩy các đảng
viên Dân Chủ. Nhưng sự giận dữ trước các chính sách
thương mãi của Bush đã làm gia tăng khối cử tri dân
chủ tích cực tham dự bầu cử, đủ để thắng cử. Nếu có
một hằng số trong nhiều lần thắng cử giúp đảng Dân
Chủ kiểm soát được quốc hội trong năm 2006, và nhất
là năm 2008, đó chính là sự kiện các nhân vật chủ
trương "tự do thương mãi" đã bị thay thế bởi
các ứng viên thuộc hàng ngũ "mậu dịch công bằng",
trong 70 đơn vị sau hai chu kỳ bầu cử. Ngay khi vài
ứng viên tổng thống và chiến lược gia Dân Chủ còn dè
dặt trong việc chỉ trích chính sách tự do thương
mãi, được các đại công ty bảo trợ, là có hại cho
công nhân, nông dân, cộng đồng và môi trường, các
ứng viên Dân Chủ đánh bại các dân biểu, nghị sĩ Cộng
hòa, đều hiểu rất rõ điều nầy. Thực vậy, sau cuộc
bầu cử 2006, 39 ứng viên đắc cử lần đầu đã ký thư
nhắc nhở lãnh đạo đảng: " khả năng lấy lập trường
chống đối mãnh liệt nghị trình thương mãi sai lầm
của chính quyền đã rất thiết yếu cho sự thành công
của chúng tôi trong bầu cử ".
Năm
2008, khi các cuộc thăm dò công luận cho thấy gần
80% dân Mỹ không bằng lòng trước các tác động của
chính sách mậu dịch tự do đối với công nhân lao
động, hình như hy vọng của Wellstone cuối cùng đã có
thể được thực hiện. Trong khi vận động giành phiếu
của công nhân, cả hai ứng viên hàng đầu của đảng Dân
chủ bắt đầu sử dụng "ngôn từ Seattle" về tầm
quan trọng của "mậu dịch công bằng" (fair
trade). Barack Obama đã thắng thế vì Hillary Clinton
mang tên họ dính liền với NAFTA. Nói chuyện ở nhà
máy Wisconsin trong tháng 2-2008, Obama không những
đã lánh xa phe Cộng Hòa của Bush mà còn tự tách mình
khỏi hàng ngũ phái Dân chủ Clinton khi lên án "một
Hoa Thịnh Đốn, nơi nhiều thập kỷ các thỏa ước mậu
dịch, như NAFTA và Trung Quốc, đã được thương thảo
và ký kết với rất nhiều đảm bảo cho các đại công ty
và lợi nhuận của các công ty nầy, nhưng không một
bảo đảm cho môi trường và công nhân Mỹ, những người
đã chứng kiến nhiều cơ xưởng bị đóng cửa và hàng
triệu việc làm biến mất".
Không
may, sau khi đã nắm được vai trò ứng viên đại diện
cho đảng Dân Chủ, Obama đã lặng lẽ đảo ngược lập
trường, khi tuyên bố với tạp chí Fortune: lời tuyên
bố chống NAFTA của ông trước đây là "quá nóng"
và "khuếch đại" (overheated and amplified).
Sau khi đắc cử, Obama, luôn giữ vị trí trung tả thận
trọng về kinh tế hơn là phe ủng hộ mong đợi hay phe
chỉ trích e ngại, và đã nghe theo khuyến cáo của các
cố vấn chủ trương mậu dịch tự do (free trade), như
Austan Goolsbee và Rahm Emanuel. Với việc chỉ định
Tim Geithner làm Bộ Trưởng Ngân Khố và Ron Kirk làm
Đại Diện Thương Mãi, tổng thống mới đã nhanh chóng
gửi tín hiệu là sẽ không có những thay đổi tức thì
trong cách tiếp cận của Hoa Thịnh Đốn với vấn đề mậu
dịch quốc tế và các vấn đề liên hệ.
Đã hẳn,
Obama hiểu toàn cầu hóa theo những phương cách khác
với Bush , và đã có những bước tăng cường việc thực
thi các dự án mậu dịch được thiết kế nhằm bảo vệ kỹ
nghệ và công nhân Hoa Kỳ. Nhưng trong tháng 11-2009,
khi Obama hứa sẽ vận động để Quốc Hội chuẩn y thỏa
ước có nhiều sơ sót với Nam Hàn, "phái mậu dịch
công bằng" đã vô cùng kinh ngạc. Dân biểu Phil
Hare, đắc cử năm 2006 và lãnh đạo Nhóm Đặc Nhiệm
Thương Mãi Hạ Viện, phản ứng: "Điều cuối cùng
chúng ta cần làm khi chúng ta chứng kiến tỉ suất
thất nghiệp ở mức trên 10% là thêm một thỏa ước
thương mãi sai lầm".
Hare,
Mike Michaud, cùng với Nghị Sĩ Sherrod Brown, đã dẫn
đầu các nỗ lực thúc đẩy phe ủng hộ mậu dịch công
bằng thay đổi vị thế từ phòng vệ - chống đối các
thỏa ước thương mãi tự do, sai lầm và tai hại, qua
vị thế tấn công - tích cực hậu thuẫn pháp chế như
Luật Cải Cách Thương Mãi, Trách Nhiệm, Khai Triển,
và Nhân Dụng (Trade Reform, Accountability,
Development, and Employment Act - TRADE).
Dự luật
đề nghị tái thẩm định các thỏa ước hiện hữu và tái
thương thảo những thỏa ước không đáp ứng một mức sàn
thích hợp cho việc đối xử công bằng với công nhân,
các chuẩn mực môi trường căn bản, bảo vệ an toàn
thực phẩm, và quy luật tài chánh ngăn ngừa đầu cơ
nguy hiểm. Cho đến nay, 128 dân biểu ký tên bảo trợ,
gồm một số dân biểu bảo thủ Blue Dogs đáng kể và
một số Tân Dân Chủ trung tả (centrist New
Democrats). Không may, Tòa Bạch Ốc không mấy sốt
sắng đối với các đề xuất đòi hỏi tái định hướng
không những các cuộc thảo luận về thương mãi, mà còn
thảo luận rộng rãi hơn về nhân dụng và kinh tế. Cũng
không may, các nhóm lao động và môi trường có khuynh
hướng hợp tác với một chính quyền thân hữu qua lập
trường thương mãi mềm dẻo hơn. Kết quả là tình trạng
chờ đợi: nhu cầu các cách tiếp cận mới đã được
công nhận, nhưng chưa có đủ lực thúc bách để theo
đuổi.
Điều nầy
khiến Hare hết sức bức xúc. Xuất thân như một lãnh
tụ nghiệp đoàn dệt may, Hare đã trở thành một người
công khai chỉ trích sự kiện các thỏa ước thương mãi
bỏ quên quyền lợi của giới lao động ở châu Mỹ La
Tinh và Á châu. Hare nói: "có một sự thiếu kết
nối (disconnect) bên trong đảng dân chủ, nhất là ở
cấp lãnh đạo, khi nói đến thương mãi và các vấn đề
liên hệ. Họ nghĩ các bạn phải lựa chọn giữa tự do
thương mãi và không có thương mãi. Chúng tôi không
nói chúng tôi không muốn có thương mãi. Điều chúng
tôi nói là đừng cho chúng tôi bất cứ thỏa ước thương
mãi nào. Hãy cho chúng tôi một thỏa ước tốt. Cho
chúng tôi một thỏa ước tốt cho công nhân lao động ở
Hoa Kỳ, ở Colombia, ở Hàn Quốc. Cho chúng tôi một
thỏa ước tốt đối với môi trường . Cho chúng tôi một
thỏa ước tốt đối với nhân quyền".
Ngôn từ
của Hare đã nhấn mạnh đến phương cách các bài học
của Seattle đã vang vọng trong sinh hoạt chính trị
của Hoa Kỳ. Vẫn còn có thể tìm thấy khuynh hướng bảo
vệ như phản xạ tự nhiên trong Quốc Hội, ngay cả
trong "Caucus Dân chủ". Nhưng hầu hết các dân biểu
nghị sĩ Dân Chủ chú tâm vào mậu dịch - và ngay cả
một thiểu số Cộng Hòa sáng suốt, như Walter Jones -
đều thấu hiểu những gì Wellstone đã hiểu trước đây.
Những
bất đồng về mậu dịch trong tương lai không phải giữa
công nhân Hoa Kỳ và công nhân Hàn Quốc; mà là giữa
nghị trình các đại công ty nhằm tối đa hóa lợi nhuận
và viễn kiến phổ thông về "mậu dịch công bằng"
tôn trọng công nhân, nông dân, giới tiêu thụ, và
quần chúng nói chung trong mọi quốc gia. Kết quả bầu
cử năm 2006 và 2008 cho chúng ta thấy Wellstone đã
đúng: người Mỹ đã sẵn sàng và mong muốn ủng hộ lề
lối sinh hoạt chính trị tìm cách văn minh hóa kinh
tế toàn cầu. Ngày nay, nếu người Mỹ có thể
thuyết phục một tổng thống Dân Chủ làm việc với một
Quốc Hội Dân Chủ để đem lại cho dân Mỹ loại chính
trị vừa nói...
SEATTLE
VÀ DI SẢN CỦA GIỚI LAO ĐỘNG
Những ai
có mặt ở Seattle mười năm trước đây chắc còn nhớ
giây phút bi hùng khi phong trào lao động Mỹ tham
gia chiến tuyến Mậu Dịch Công Bình - Fair
Trade - cùng với những người có lòng tin và những
nhà hoạt động vì môi trường, nông dân, nhân quyền và
giới tiêu thụ. Tại góc đường Fourth và Stewart, cảnh
sát tìm cách phá vỡ hàng rào chung quanh trung tâm
hội nghị Seattle trong khi 20.000 thành viên các
nghiệp đoàn đang tuần hành tiến về khu vực hội họp.
Các nghiệp đoàn tiến bước sau các biểu ngữ với cờ
hiệu đủ màu. Các nghiệp đoàn theo kế hoạch phải
thẳng tiến đến trung tâm hội nghị, và khi được hiệu
lệnh, ngồi xuống đường và tiếp tục hô to khẩu hiệu
và ca hát.
Bất thần
các người điều khiển cuộc tuần hành, trong áo
vests mầu đỏ với loa phóng thanh, hướng dẫn đoàn
tuần hành quay ngược trở lại, trái với mọi dự tính.
Có lẽ một người có trách nhiệm nào đó e ngại sự hỗn
độn trên đường phố là quá nguy hiểm.
Tiếp đó,
số người biểu tình còn lại dùng loa phóng thanh
riêng kêu gọi mọi người tiến lên. Một số lúc một
đông trong đoàn người đang rút lui lại tiếp tục tiến
bước theo lời kêu gọi. Kề vai nhau, nghiệp đoàn
Teamsters, bên cạnh nghiệp đoàn Turtles,
Steelworkers, sinh viên, quần chúng...cùng nhau bước
tới. Và toàn thế giới dõi theo.
Ngày đó
đã làm thay đổi phong trào chống toàn cầu hóa của
các đại công ty. Cuộc đấu tranh tập hợp nhiều nhóm
đòi hỏi "Mậu Dịch Công Bằng", rầm rộ hơn cả
những cuộc xuống đường chống thỏa ước NAFTA bảy năm
về trước.
Từ đó
mọi việc đã đổi khác. Ngày nay, đại diện Teamsters
và các nghiệp đoàn lao động khác làm việc trực tiếp
với Quốc Hội và chính quyền Obama, nhằm thiết kế một
mô hình phù hợp với quyền lợi giới lao động và môi
trường, để thay thế mô hình thất bại đã đưa đến trên
10% công nhân thất nghiệp. Trong những năm chuyển
tiếp, liên minh Seattle đã gặp nhiều khó khăn với
CAFTA và bình thường hóa quan hệ thương mãi với
Trung Quốc, nhưng nói chung, đã thành công trên bình
diện chính trị: các nhà làm chính sách và các lãnh
đạo công luận không còn nói đến những thỏa ước bên
lề về lao động và môi trường; và càng ngày càng
nhiều ứng cử viên vào các chức vụ liên bang đã thắng
cử với sự ủng hộ của giới lao động và các nghị trình
kinh tế, nhất là "mậu dịch công bằng" (fair trade),
được quần chúng ủng hộ.
Lực
lượng lao động phải tiếp tục giữ vai trò tiên phong
trong các nỗ lực cải tổ các quy luật thương mãi toàn
cầu, theo đúng truyền thống và tinh thần tranh đấu
Seattle, các hành động chống Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế năm
2000, biểu tình chống NAFTA và CAFTA ở Miami năm
2003, và gần đây hơn biểu tình xanh ở Pittsburg.
Tóm lại,
phong trào tranh đấu kiên trì chống lại toàn cầu hóa
của các đại công ty - bất kể đảng nào cầm quyền -
là di sản tinh thần then chốt của Seattle. Mười năm
sau, phong trào luôn sẵn sàng theo đuổi:
(1) Ủng
hộ cải cách mậu dịch trong Quốc Hội với nghị sĩ
Sherrod Brown và dân biểu Mike Michaud;
(2) Chọn
cải cách mậu dịch làm đề tài tranh cử trong cuộc bầu
cử giữa kỳ 2010;
(3)
Chuyển hướng các cuộc thảo luận phục hồi kinh tế để
tập trung vào chính sách mậu dịch với mục đích cải
thiện lương công nhân và việc làm ở Mỹ và trên khắp
thế giới;
(4)
Tuyển mộ các nghiệp đoàn chưa có truyền thống đấu
tranh vì mậu dịch công bằng. Các công nhân trong khu
vực dịch vụ, nạn nhân của chính sách cởi bỏ kiểm
soát, giám sát và tư nhân hóa, phải đi đầu trong
việc tranh đấu chống tự do hóa các dịch vụ tài
chánh;
(5) Xây
dựng khả năng liên minh Seattle trong khắp 50 tiểu
bang của Hoa Kỳ;
(6)
Nhưng trước hết, phát huy tinh thần tranh đấu
Seattle trong khi cùng nhau đấu tranh để phát huy
công bằng về môi trường và kinh tế trên toàn cầu.
SEATTLE
VÀ CHÍNH QUYỀN OBAMA

Quang
cảnh xuống đường phản đối cuộc họp WTO cấp bộ trưởng
ở Seattle mang tính đổi đời. Các cuộc biểu tình bất
thần đảo lộn hình ảnh ước lệ của Hoa Kỳ trên thế
giới: nhân dân Mỹ giờ đây đã chống đối xu thế
toàn cầu hóa được chính quyền Hoa kỳ và các đại công
ty đa quốc gia đẩy mạnh trên toàn thế giới. Và
cuộc cách mạng đang diễn ra trong các phòng hội ở
Seattle cũng bi hài không kém cuộc cách mạng đang
diễn ra trên đường phố: kế hoạch mở rộng kích cỡ
và quyền lực WTO đã bị đánh bại. Các nhà hoạt
động thuộc một thế hệ mới đã trải nghiệm uy quyền và
niềm vui chiến thắng.
Một thập
kỷ sau - và mặc dù nỗ lực không ngừng của các đại
công ty và các chính quyền đầy uy lực - WTO đã không
thể bành trướng. Tuy vậy, WTO cũng chẳng chịu bị đẩy
lùi .
Người Mỹ
bây giờ có vai trò thiết yếu là quyết định đem lại
thay đổi thực sự sau "Trận Chiến Seattle" ,
và một thập kỷ vận động "công bằng toàn cầu"
tiếp theo. Đối tượng theo đuổi là vận động để chính
quyền Obama giữ vai trò hướng đạo trong nỗ lực canh
tân các quy luật chi phối kinh tế toàn cầu thay vì
tiếp tục nghị trình Bush Sr/Clinton/Bush Jr, đã đưa
đến tình trạng khủng hoảng kinh tế, thực phẩm, và
thay đổi khí hậu.
Phiên
họp WTO cấp bộ trưởng kế tiếp đã diễn ra ở Qatar.
Tại đây, hai tháng sau biến cố 11/9, chính quyền
Bush đã tận lực khai thác không khí chính trị toàn
cầu đang xao động để ép buộc các quốc gia trên thế
giới phát động vòng đàm phán Doha (Doha Round). Đây
cũng chỉ là nghị trình bành trướng WTO đã bị bác bỏ
ở Seattle.
Hai năm
sau, phiên họp cấp bộ trưởng ở Cancun cũng thất bại,
vì các giới chức trong nội bộ WTO tiếp tục chống đối
nghị trình bành trướng trong khi người biểu tình
tràn ngập đường phố bên ngoài. Vì sinh mạng của
chính WTO lâm nguy, các giới chức Hoa Kỳ và Âu châu
đồng ý loại bỏ vài thành tố cực đoan trong nghị
trình. Tuy vậy, những gì còn lại của nghị trình cũng
cực kỳ nguy hiểm. Nhờ nỗ lực phối hợp vận động hành
lang, và phong trào phản đối lớn lao trên thế giới
khởi đầu một năm trước phiên họp cấp bộ trưởng ở
Seattle và liên tục từ đó, các phiên họp kế tiếp vẫn
luôn bế tắc.
Trong
bốn năm qua, những viên chức chủ trương bành trướng
WTO đã e ngại tiếp tục các phiên họp thương thảo cấp
bộ trưởng vòng đàm phán Doha. Họ hiểu rõ trừ phi có
thể loan báo một thỏa ước như một việc đã rồi, kế
hoạch mở rộng WTO đã cáo chung, với hậu quả có tiềm
năng đánh mất tính chính đáng của WTO. Tuy nhiên,
trái với các tường trình của báo chí: khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đã không chấm dứt kỷ nguyên thị
trường tự do kinh điển; 153 quốc gia thành viên vẫn
còn bị ràng buộc bởi toàn bộ các chính sách tân tự
do như các quy luật WTO đòi hỏi, những chính sách
thiết lập từ năm 1995. Và ngay cả khi nhiều chính
quyền đã được thay thế và chính quyền mới phản ảnh
quyền lợi người dân tốt hơn, WTO vẫn còn là một vật
cản chống lại mọi thay đổi.
Hàng
trăm triệu người ngày ngày phải tiếp tục gánh chịu
các hậu quả của chế độ nầy. Số người chịu đựng nghèo
khó cùng cực trong các xứ nghèo đã gia tăng từ khi
WTO được thành lập, cũng như nạn đói, với 2/3 các xứ
đang phát triển hiện nay phải nhập khẩu thêm lương
thực. Ở Hoa Kỳ, năm triệu công nhân trong kỹ nghệ
chế biến mất việc làm. Số người thất nghiệp cùng với
hiện tượng chuyển dịch ngày một gia tăng các ngành
dịch vụ cao cấp ra nước ngoài đã đẩy công xá hay
lương lao động ngày một xuống thấp hơn. Trong lúc
đó, nhiều gia đình Mỹ hiện đang tràn ngập với những
thức ăn và sản phẩm thiếu an toàn, nhiều thứ mang
nhãn hiệu các xí nghiệp Mỹ lợi dụng các đặc quyền
WTO dời cơ xưởng sản xuất qua các xứ phí lao động
thấp và các luật lệ về môi trường, chuẩn mực an toàn
và y tế còn lỏng lẻo.
WTO được
gọi là thỏa ước thương mãi. Nhưng trong thực tế, WTO
phải được hiểu như một cơ chế phân phối đầy quyền
lực, chuyển tải toàn bộ các chính sách tân tự do,
phần lớn không dính dáng gì đến mậu dịch, đem lại
nhiều quyền hạn cho tư bản và nhiều hạn chế ràng
buộc đối với khả năng của các chính quyền bảo đảm an
sinh cho người dân. Các quốc gia thành viên bị bó
buộc phải thích ứng các chính sách trong nhiều lãnh
vực - dịch vụ, đầu tư và phát triển, thực phẩm, tậu
mãi của chính quyền, sở hữu trí tuệ, môi sinh và an
toàn - với các hạn chế liệt kê trong 17 thỏa ước
WTO đang thực thi. Các chính sách đối nội vi phạm
những thỏa ước nầy sẽ bị thách thức trước các tòa án
WTO, với những chế tài thương mãi áp đặt cho đến khi
các quốc gia sở quan tuân thủ các phán quyết của
tòa. Gần 90% các vụ bị thách thức đều đi đến kết
luận đã vi phạm quy luật WTO. Chỉ cần một đe dọa
thách thức thường cũng đủ để buộc quốc gia đương sự
thay đổi chính sách. Chẳng hạn, gói kích cầu của TT
Obama hồi đầu năm 2009 - dự liệu tiền của giới chịu
thuế phải dành ưu tiên tạo công ăn việc làm cho dân
Mỹ - đã bị giảm bớt hiệu quả vì phải tuân thủ luật
WTO cấm chính sách tạo mãi của chính quyền dành ưu
tiên cho công nhân, hàng hóa và dịch vụ nội địa.
Thay đổi
chế độ lỗi thời trong hệ thống quản lý toàn cầu là
một thách thức lớn hiện nay để tránh những tác động
tai hại ngày một rõ ràng trong sự vận hành WTO.
Khủng hoảng tài chánh đã đưa đến những lời kêu gọi
tái quy định và giám sát sinh hoạt kinh tế ngay từ
những người chủ trương cởi bỏ cơ chế giám sát trước
đây. Tuy nhiên, cùng lúc khối các tập đoàn đại công
ty và những đồng minh trong chính quyền cũng đã tăng
cường nỗ lực thúc đẩy bành trướng WTO.
Trái với
các tường trình báo chí, tình trạng bế tắc hiện nay
của WTO không phải xuất phát từ sự tranh cãi mang
tính trọng thương liên quan đến mốt vài vấn đề đặc
biệt. Thực ra, hiện đang có một sự bất đồng trong
viễn kiến quản trị kinh tế toàn cầu trong tương lai.
Một khối tuy nhỏ nhưng vô cùng hùng hậu đang hậu
thuẫn hướng đi có sẵn trong khi đa số đòi hỏi thay
đổi quy luật hiện hữu. Tuy nhiên, không xứ nào muốn
gánh trách nhiệm chính thức chấm dứt vòng đàm phán
Doha.
Các nhà
thương thuyết Hoa Kỳ đã đến Geneva tham dự phiên họp
điều hành nội bộ cấp bộ trưởng (WTO housekeeping
ministeral) - đúng 10 năm sau "Trận Chiến Seattle ".
Nghị trình chính thức phiên họp không nhắc gì đến
vòng đàm phán Doha. Tuy nhiên, bên lề hội nghị,
trước và sau phiên họp tại tổng hành dinh WTO, các
cuộc thương thảo vẫn tiếp tục. Nghị trình, được soạn
thảo từ trước khủng hoảng kinh tế tài chánh, muốn áp
đặt chính sách cởi bỏ giám sát tài chánh triệt để
hơn, cắt giảm quyền kiểm soát chính sách năng lượng
và nhiều chính sách khác của các quốc gia thành
viên, cần thiết để đối phó với khủng hoảng thay đổi
khí hậu, và chống lại nỗ lực tăng cường quyền kiểm
soát của các đại công ty trong các ngành sản xuất
thực phẩm.
Lập
trường của chính quyền Obama là ủng hộ kết thúc vòng
đàm phán Doha, với chính sách cũ của Bush vẫn còn là
lập trường chính thức của Mỹ. Tuy nhiên, điều nầy
chỉ phản ảnh một tình trạng chểnh mảng vô tình hơn
là một chính sách được cân nhắc kỷ lưởng. Nghị trình
Doha Round 2001 của Bush, trong căn bản, xung đột
với các ưu tiên đối nội của chính quyền Obama - các
quy luật WTO hiện hữu phải được sửa đổi trước khi
Obama có thể thành đạt những mục tiêu quyết định sự
thành công của một tổng thống. Điều nầy đòi hỏi phải
loại bỏ những giới hạn của WTO để có thể dùng tiền
thuế tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ và kích thích
kinh tế, cũng như loại bỏ các đòi hỏi cởi bỏ giám
sát tài chánh hiện hữu xung đột với những dự án bản
lề hiện đã được đệ trình Quốc Hội nhằm ổn định kinh
tế. Qua nỗ lực nhấn mạnh những xung đột vừa nói, và
tổ chức phong trào đòi hỏi thay đổi, các nhà hoạt
động chủ trương "công bằng toàn cầu" có thể
tạo ra nhu cầu cấp thiết phải đảo ngược nghị trình
WTO.
Thực
vậy, trong thời gian vận động bầu cử 2008, Obama đã
cam kết nhiều cải cách ấn tượng, nhiều lần quả quyết
sẽ thay đổi quy luật vận hành kinh tế thế giới có
lợi cho người Mỹ nói chung - không chỉ riêng cho các
nhóm đặc quyền đặc lợi - kể cả các thay đổi quy chế
WTO. Các nỗ lực trước đó của đại diện thương mãi Ron
Kirk của Obama, nguyên đại diện vận động hành lang
cho kỹ nghệ nguyên tử, thúc đẩy Quốc Hội thông qua
những thỏa ước bành trướng NAFTA còn sót lại với
Colombia và Panama cũng đã thất bại bởi chính Obama,
vì Nhà Trắng đã nhận thức được những hậu quả chính
trị của việc làm điên rồ đó.
Nhưng
các nhóm quyền lợi đại công ty vẫn không ngừng gây
sức ép với Obama, đòi tiếp tục chính sách đã thất
bại. Biên tập các báo gắt gao lên án Obama là chủ
trương bảo vệ mậu dịch mỗi khi tổng thống tỏ ý nghi
ngờ hiện trạng (status quo). Hơn nữa, không viên
chức cao cấp nào trong chính quyền Obama chủ trương
cải cách. Lý do rất đơn giản: chính họ là những viên
chức thời Clinton đã cổ súy tự do thương mãi toàn
cầu, nay lại đang cầm đầu đội ngũ kinh tế trong
chính quyền mới.
Mặt
khác, trong Quốc Hội, một khối hùng mạnh đã bảo trợ
dự luật TRADE, dự luật kêu gọi tái thương thảo
WTO-NAFTA và CAFTA trong khi đang chuẩn bị đưa ra
một mô hình mới cho các thỏa ước thương mãi và quá
trình thương thảo mới - một dụng cụ chính đang xuất
hiện để thực thi thay đổi, do nhiều người đòi hỏi và
Obama đúc kết và trình bày mạch lạc. Đó cũng là một
dụng cụ hùng mạnh khả dĩ tăng cường đòi hỏi của hầu
hết các quốc gia thành viên WTO tranh đấu từ Hội
Nghị Seattle 1995, cũng như đang tập trung nỗ lực
cải thiện những quy luật tai hại hiện hữu.
Các nhà
hoạt động cho công lý toàn cầu trong nhiều quốc gia
trên khắp thế giới đang thường trực vận động nhằm
xây dựng những chính quyền thực sự đại diện cho
quyền lợi mỗi xứ, hậu thuẫn cho lý tưởng công bình
toàn cầu. Báo chí tường trình từ hội nghị cấp bộ
trưởng ở Geneva có thể so sánh số người xuống đường
ở Geneva với con số ở Seattle, thay vì tập trung
trên tình trạng bế tắc của kế hoạch bành trướng
WTO.
Các quan
chức tại hội nghị cấp bộ trưởng ở Geneva luôn đối
mặt với những nhắc nhở qua những cuộc xuống đường
của đông đảo nông dân ở Ấn Độ, các cuộc phản đối của
ngư dân ở Á châu, và các cuộc biểu tình của các
nghiệp đoàn trong nhiều thủ đô trên khắp thế giới.
Hơn 140 sự kiện kỷ niệm ngày xuống đường ở Seattle
kêu gọi WTO đổi hướng đã được tổ chức trên khắp
nước Mỹ. Một thập kỷ vận động đã chuyển đổi các động
cơ sinh hoạt chính trị ủng hộ phong trào tranh đấu
hậu Seattle đang tiếp diễn. Kể từ 2006, hơn 70 ứng
cử viên vào Quốc Hội đã đắc cử với nghị trình thay
thế mô hình NAFTA-WTO, thay thế những quan chức ủng
hộ hiện trạng.
Trong
khi dân Mỹ quyết chí theo đuổi công bình toàn cầu, T
T Obama bắt buộc phải lựa chọn. Hoặc đứng về phía đa
số dân Mỹ và thực thi những cam kết đưa ra trong
thời gian vận động bầu cử - thay đổi quy luật vận
hành kinh tế thế giới và quy chế WTO, để phục vụ đa
số thay vì một thiểu số. Hoặc đứng về phía Wall
Street và các elites toàn cầu để tiếp tục
duy trì status quo đã thất bại. Cả thế giới
đang chăm chú theo dõi mọi động thái của Hoa Thịnh
Đốn!
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USA
01-01-2010
|