Những bài cùng tác
giả
Khuynh
hướng ngày một độc lập hơn của Á châu, Âu châu và
châu Mỹ La Tinh đã là mối âu lo của giới hoạch định
chính sách Hoa Kỳ kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Viễn
ảnh một trật tự thế giới tam cực - Á châu, Âu châu,
Bắc Mỹ - ngày một rõ nét hình như đang đe dọa
"Thế kỷ và Biệt lệ của Hoa Kỳ", nhất là hiện nay
siêu cường duy nhất đang lún sâu vào vũng lầy Trung
Đông và khủng hoảng tài chánh.
Á CHÂU
NGÀY MỘT ĐỘC LẬP
Đối với
Hoa Thịnh Đốn, sự kiện hội nhập khu vực ở Á châu và
Âu châu và quan hệ ngày một thắt chặt giữa hai khối
là bằng chứng một thế giới đang dần dà thoát khỏi
tầm kiểm soát của Hoa Kỳ. Ngoài ra, năng lượng vẫn
luôn là một thách thức khắp thế giới.
Không
như Âu châu, Trung Quốc (TQ) ngày một ít nể nang Hoa
Thịnh Đốn, và là lý do đưa đến một tình trạng lưỡng
nan cho người Mỹ. Sau vài bước đối kháng, Hoa Kỳ lại
vấp phải trở ngại từ phía tập đoàn các đại công ty
lệ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu cũng như số
ngoại tệ dự trữ khổng lồ và ngày một gia tăng của
TQ.

Quốc vương
Saudi Arabia, Abdullah
Theo báo
Wall Street Journal, cuộc viếng thăm Bắc Kinh
của quốc vương Saudi Arabia, Abdullah, tháng
1-2006, đã mở đầu thời kỳ hợp tác ngày một chặt chẽ
giữa hai xứ trong địa hạt dầu khí, hơi đốt và đầu
tư.
Từ lâu,
Iran đã bán dầu khí cho TQ, và TQ đã cung cấp cho
Iran vũ khí cần thiết để phòng ngừa ý đồ của Hoa Kỳ.
Ấn Độ
cũng có nhiều lựa chọn. Ấn có thể trở thành một
khách hàng của Mỹ , hoặc gia nhập khối Á châu đang
hình thành, độc lập hơn, và có nhiều quan hệ với các
xứ giàu năng lượng Trung Đông.
Siddarth
Varadarjan,
phó biên tập báo Hindu, nhận xét: nếu thế
kỷ 21 là thế kỷ của Á châu, thế thụ động của Á Châu
trong địa hạt năng lượng phải chấm dứt.
Hợp tác
Trung-Ấn giữ vai trò then chốt. Theo Varadarjan,
thỏa ước tháng 1-2006, ký ở Bắc Kinh, đã mở đường
cho Ấn Độ và TQ hợp tác không những về kỹ thuật mà
cả trong việc thăm dò và sản xuất dầu khí, một diễn
biến rất có thể làm thay đổi thế quân bình căn bản
về dầu khí và hơi đốt thiên nhiên trên thế giới.
Một sáng
kiến đang manh nha khác của khối BRIC - gồm
Brazil, Russia, India và China - là khả năng
thiết lập một thị trường dầu khí Á châu, dựa trên
đồng Euro như ngọai tệ dự trữ, với tác động đáng kể
lên hệ thống tài chánh và cán cân quyền lực toàn
cầu.
Vì vậy,
không ai ngạc nhiên, trong bối cảnh đó, T T George
W. Bush đã quyết định viếng thăm Ấn Độ, cố giữ Ấn
trong quỹ đạo ảnh hưởng, qua thỏa ước hợp tác nguyên
tử và nhiều hứa hẹn cám dỗ khác.
HỢP TÁC
NGUYÊN TỬ ẤN-MỸ
Ngày
18-12-2006, sau khi được đa số trong Quốc Hội ủng
hộ, T T Bush đã ký ban hành Luật Hợp Tác Năng
Lượng Nguyên Tử Hòa Bình Ấn-Mỹ.
Điểm
then chốt của đạo luật là cho phép Ấn Độ khai triển
vũ khí hạt nhân bên ngoài giới hạn Thỏa Ước Cấm
Phổ Biến Nguyên Tử (Nuclear Non-Proliferation
Treaty - NPT). Luật mới cũng dành cho Ấn Độ sự hỗ
trợ trong các chương trình nguyên tử và nhiều tưởng
thưởng khác.
Theo
phúc trình của chuyên gia vũ khí hạt nhân Gary
Milhollin, như thường lệ, sáng kiến của Bush
mang tính đơn phương, chẳng cần bận tâm tới các đòi
hỏi thông báo và phối hợp với các định chế quốc tế
được thiết lập nhằm chận đứng sự lan tràn vũ khí
nguyên tử và các hệ thống phóng tải: Nhóm Cung
Cấp Nguyên Tử (Nuclear Suppliers Group), và
Chế Độ Kiểm Soát Kỹ Thuật Tên Lửa (Missile
Technology Control Regime).
Thỏa Ước
Mỹ-Ấn vi phạm nguyên tắc chính yếu của cả hai định
chế: tính trung lập của thành viên (country
neutral). Như vậy, theo Milhollin, Hoa thịnh Đốn đã
gián tiếp mời mọc các thành viên khác hành động
tương tự, có lẽ bằng cách đơn phương thỏa hiệp với
Iran hay Pakistan hay một xứ nào khác tùy ý. Sáng
kiến mới của Hoa Thịnh Đốn, trong thực tế, đã làm
suy yếu các biện pháp ngăn ngừa chiến tranh nguyên
tử, và do đó, rất có thể khiến một vụ nổ
hạt nhân sớm xẩy ra làm tiêu hủy một thành phố của
Mỹ.
Như
nguyên ngoại trưởng Rice đã thú nhận, lý do là làm
dễ dàng việc xuất khẩu của các công ty Mỹ. Sản phẩm
chính là phi cơ quân sự.
Thông điệp là đối với Hoa Kỳ, kiếm tiền - hay nói rõ
hơn, lợi nhuận của các đại công ty Hoa Kỳ - còn
quan trọng hơn cả nhu cầu kiểm soát xuất khẩu.
Sau đó
ít lâu, theo tin tức báo chí, TQ và Ấn Độ cũng đã ký
kết nhiều thỏa ước tương tự, cho phép Ấn tiếp cận
các kỹ thuật cao về hạt nhân, trước đây bị từ chối.
Một viên chức Ấn tiết lộ, thỏa ước giúp Ấn Độ giữ
được khoảng cách đồng đều giữa Mỹ và TQ. Ngược lại,
dưới mắt người TQ, thỏa ước giúp phát triển sự hợp
tác Nga-Trung-Ấn như một đối trọng với thế bá quyền
toàn cầu của Hoa Kỳ.
 
Thủ Tướng Ấn Manmohan Singh,
Michael Krepon
Cùng
lúc, Thủ Tướng Ấn Manmohan Singh tuyên bố
trước Nghị Viện "không có việc cho phép các thanh
tra Mỹ lục soát các cơ sở nguyên tử của chúng ta",
và Bộ Trưởng Ngoại Giao Pranab Mukerjee còn
nói thêm "chúng ta không cho phép bất cứ sự dòm
ngó hoặc can thiệp nào từ bên ngoài vào chương trình
chiến lược",
ý muốn nói, khai triển và thử nghiệm các vũ khí hạt
nhân.
Tính
nghiêm trọng của các động thái vừa nói còn được nhấn
mạnh bởi Michael Krepon, đồng sáng lập viên
Trung Tâm Henry J. Stimson, và chuyên gia
hàng đầu giảm thiểu tai họa hạt nhân. Krepon viết,
ngày nay Hoa Kỳ đã cho phép Ấn Độ tự do hành động
ngoài vòng kiểm soát hạt nhân, nhiều xứ khác cũng sẽ
sẵn sàng lợi dụng quyền nầy.
Hành
động đơn phương của Hoa Kỳ trong việc không áp dụng
các quy luật toàn cầu trong địa hạt mua bán nguyên
tử là một việc làm chưa có tiền lệ. Nếu các xứ có
tiềm năng thủ lợi trong Nhóm Các Nhà Cung Cấp Hạt
Nhân - năm xứ hội viên thường trực của Hội Đồng
Bảo An LHQ - noi gương Hoa Kỳ và đặt lợi nhuận
trên cả nhu cầu cấm phổ biến hạt nhân, NPT một lần
nữa sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Krepon kết luận,
nói một cách ngắn gọn, khi kiểm soát xuất khẩu
không còn hữu hiệu, NPT cũng cùng số phận. Các quan
chức cấp cao trong chính quyền Bush xem thỏa ước
Mỹ-Ấn như một phân bộ quan trọng trong di sản của họ.
Thật không may, rất có thể họ đúng".
Bắc Hàn và Thỏa Ước Cấm
Phổ Biến Nguyên Tử (Nuclear Non-Proliferation
Treaty - NPT)
Trong
khi Hoa Kỳ đang tìm cách áp đặt một trật tự và chính
quyền mới ở Iraq phù hợp với quyền lợi của mình, một
cuộc khủng hoảng khác bùng nổ ở Bắc Triều Tiên.

Trong
"trục ma quỷ" của Bush, Bắc Hàn là thành viên
nguy hiểm nhất. Lý do: Bắc Hàn có đủ phương tiện
tự vệ, vì vậy, không đáp ứng tiêu chí đầu tiên
để trở thành mục tiêu chính đáng của Mỹ. Bắc Hàn đã
thí nghiệm bom nguyên tử và hỏa tiễn tầm trung thành
công, và có thể cả hỏa tiễn tầm xa trong một tương
lai rất gần.
Bắc Hàn,
do đó, đã gây nhiều âu lo cho các nhà hoạch định
chiến lược Mỹ.
Tháng
10-2002, Hoa Kỳ lên án Bắc Triều Tiên đã bí mật khởi
đầu chương trình làm giàu uranium, vi phạm thỏa ước
1994. Từ đó, chiến lược nguyên tử đã khiến nhiều nhà
quan sát nhớ lại kinh nghiệm Khủng Hoảng Tên Lữa
Cuba năm 1962. Hoa Thịnh Đốn đã dạy cho thế giới
một bài học ghê tởm: muốn tự vệ đối với Mỹ,
phương cách tốt nhất cho một quốc gia là bắt chước
Bắc Hàn và phải có đủ sức đưa ra một đe dọa quân sự
khả tín.
Bắc Hàn
cũng không đáp ứng tiêu chí thứ hai để trở thành mục
tiêu của Mỹ: Bắc Hàn là nước nghèo khổ nhất thế
giới.
Nhưng
Bắc Hàn, với vị trí chiến lược quan trọng, có thể bị
Hoa Kỳ tấn công nếu các răn đe quân sự của Bắc Hàn
có thể bị khống chế. Bắc Hàn nằm trong vùng Đông Bắc
Á, một vùng đang thách thức mộng bá chủ toàn cầu của
Hoa Thịnh Đốn.
Suốt
trong hơn 30 năm qua, ba trung tâm kinh tế toàn cầu
đang dần dà trỗi dậy: Âu châu, Bắc Á, và Hoa Kỳ,
trong hình thức một thế giới tam cực mới.
Trên
bình diện quân sự, Hoa Kỳ giữ một vị trí riêng biệt
duy nhất. Nhưng trên nhiều phương diện khác, cả ba
trung tâm đang cạnh tranh quyền lực mặc dù vẫn duy
trì nhiều quan hệ chồng chéo, đan xen phức tạp, và
cùng chia sẻ nhiều quyền lợi của giới nhà giàu.
Một
nghiên cứu của Nhóm Đặc Nhiệm Chính Sách Triều
Tiên của Hoa Kỳ, dưới sự hướng dẫn của Selig
S. Harrison trong những năm đầu thập kỷ 2000s và
do Trung Tâm Chính Sách Quốc Tế ở Hoa Thịnh Đốn
và Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Á ở Chicago tài trợ,
đã phân tích các vấn đề vùng Đông Bắc Á và thế giới
đang phải đối diện.
Tính đến
2007, Đông Bắc Á là khu vực kinh tế năng động nhất
thế giới, chiếm trên 30% GDP toàn cầu so với 19% của
Mỹ, và trên 50% số ngoại tệ dự trữ toàn cầu. Quan hệ
thương mãi giữa Âu châu và Hoa Kỳ với vùng Ðông Bắc
Á nhiều hơn là giữa hai châu lục với nhau.
Đông Bắc
Á bao trùm ba cường quốc kỹ nghệ: Nhật Bản, Nam Hàn,
và TQ - hiện đã là siêu cường số hai trên thế giới.
Siberia giàu tài nguyên thiên nhiên, kể cả dầu khí.
Mậu dịch trong vùng ngày một gia tăng, cũng như quan
hệ thương mãi với các quốc gia Đông Nam Á - khối
ASEAN+3: Nam Hàn, Nhật Bản và TQ.
Các
tuyến dẫn dầu nối liền các trung tâm tài nguyên, như
Siberia, đến các trung tâm kỹ nghệ. Một số tuyến dẫn
dầu chạy xuyên qua Bắc Hàn đến Nam Hàn, và tuyến
Đường Sắt Xuyên-Siberian có thể nối dài theo trục
tuyến dẫn dầu.
Phản ứng
của Hoa Thịnh Đốn trước sự kiện hội nhập Đông Bắc Á
còn mập mờ. Hoa Kỳ e ngại các khu vực hội nhập như
Âu châu hay Đông Bắc Á có thể theo đuổi một đường
lối độc lập hơn, và trở thành - như thường được gọi
trong thời chiến tranh lạnh - "lực lượng thứ ba".
Nhóm
Đặc Nhiệm Chính Sách Triều Tiên của Hoa Kỳ
khuyến cáo Hoa Thịnh Đốn nên tìm một giải pháp ngoại
giao cho cuộc khủng hoảng Bắc Hàn - một tiến trình
bắt đầu một cách ngập ngừng từ thời Clinton - bảo
đảm an ninh cho một Bắc Hàn phi nguyên tử, cổ súy
hòa giải giữa Nam-Bắc Hàn, và thu hút Bắc Hàn vào
một liên minh kinh tế với các xứ láng giềng. Những
tác động hỗ tương như vậy có thể đẩy nhanh các cải
cách kinh tế ở Bắc Hàn, sớm đưa đến tản quyền kinh
tế, mở màn cho quá trình cởi mở chính trị và giảm
thiểu các vi phạm nhân quyền.
Những
chính sách trên dễ thích ứng với sự đồng thuận trong
khu vực. Nhóm đặc nhiệm lập luận, chính sách thay
thế đối nghịch, theo chiến lược chiến tranh phòng
ngừa Bush-Rumsfeld, rất dễ dẫn đến một cuộc chiến
không ai mong muốn giữa khu vực Đông Bắc Á và Hoa
Kỳ.
Một
chính sách ôn hòa hơn có thể khuyến khích Đông Bắc
Á, cũng như Âu châu, theo đuổi một đường lối độc lập
hơn, một đường lối, tuy vậy, khiến Hoa Kỳ khó lòng
duy trì một trật tự thế giới trong đó các nước khác
phải tôn trọng chỗ đứng của riêng mình.
Lệ thuộc
năng lượng là yếu tố giữ vị trí trung tâm trong các
tác động hỗ tương vừa nói. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, các
nhà hoạch định Mỹ luôn tìm cách kiểm soát tài nguyên
dầu khí Trung Đông như một đòn bẩy để kiểm soát thế
giới. Ý thức được cùng những sự kiện thực tế, Âu
châu và các cường quốc Á châu đang lên cũng tìm kiếm
tài nguyên riêng cho mình - theo lối nói của George
Kennan - độc lập với quyền phủ quyết của Mỹ đang
kiểm soát các nguồn cung cấp năng lượng và các đường
vận chuyển hàng hải. Phần lớn các xung đột về
Trung Đông và Trung Á đã phản ảnh các ưu tư vừa nói.
Từ lâu,
Hoa Kỳ luôn phản ứng mạnh mẽ đối với các thách thức
tương đối thành công của vài quốc gia trong thế giới
thứ ba. Cuba là một thí dụ điển hình. Thực vậy, Cuba
luôn tìm kiếm một đường lối phát triển độc lập, dành
ưu tiên cho nhu cầu quốc nội, hơn là giới đầu tư
nước ngoài và các nhà hoạch định Mỹ.
Hơn bao
giờ hết, đối với Hoa Thịnh Đốn, âu lo chính ngày nay
còn luôn liên quan đến trung tâm công kỹ nghệ của
các đại cường, khi thế tam cực của trật tự kinh tế
thế giới đang lộ diện dưới nhiều hình thức mới.
Cuộc xâm
lăng Iraq là một hành động điển hình, chứng minh cho
thế giới chính quyền Bush đang quyết tâm theo đuổi
chủ thuyết tùy tiện dùng vũ lực để khẳng định bá
quyền của mình và không chấp nhận bất cứ thách thức
tiềm tàng nào và từ đâu đến.
Bạo lực
là khí cụ kiểm soát hữu hiệu, như lịch sử đã nhiều
lần minh chứng. Nhưng bá quyền cũng luôn đưa đến
những vấn nạn tiến thối lưỡng nan.
Quyết
định của T T Obama về Bắc Hàn bắt nguồn từ sự tái
thẩm định mục tiêu thầm kín của Bắc Hàn, hoàn toàn
khác với các tổng thống trước đây. Tiến trình thương
thảo không mấy nghiêm chỉnh trong suốt 16 năm qua -
đánh dấu bởi hai lần khủng hoảng 1994 và 2003 - đều
cơ sở trên giả thuyết: Bắc Hàn rồi ra cũng từ bỏ
chương trình nguyên tử của họ.
Sự tái
thẩm định của chính quyền Obama đã đi đến kết luận
trái ngược: Bắc Hàn không có ý định từ bỏ chương
trình nguyên tử phòng ngừa để đổi lấy thực phẩm,
nhiên liệu, và các bảo đảm an ninh. Các phụ tá
của Obama cho biết, trong khi sẵn sàng cùng các quốc
gia láng giềng trong khu vực thảo luận với Bắc Hàn
hoặc trực tiếp thương thuyết tay đôi, tân tổng thống
sẽ không chấp nhận giải pháp tháo gỡ từng bước các
cơ sở hạt nhân của Bắc Hàn. Họ tiết lộ: có nhiều
cách bất khả phản hồi để đạt mục tiêu, nhưng
không cho biết chi tiết.
Trong
thực tế, Bắc Hàn đã rút lại lời hứa tháo gỡ các cơ
sở hạt nhân như đã thỏa thuận trong những ngày cuối
nhiệm kỳ của Bush.
Trong
những tuần lể trước và sau cuộc thí nghiệm nguyên tử
lần thứ hai 25-5-2009, Bắc Hàn đã nhiều lần phủ nhận
là đã cam kết từ bỏ vũ khí nguyên tử, và tuyên bố sẽ
không bao giờ khuất phục trước các đòi hỏi của Hoa
Kỳ và đồng minh, hay LHQ. Bắc Hàn còn cho biết, cùng
với số plutonium hiện hữu, sẽ tái biến chế số nhiên
liêu hạt nhân phế thải tồn kho thành plutonium, đủ
để sản xuất từ 6 đến 8 bom hạt nhân.
Việc
loan báo mới đã làm gia tăng lo ngại bước kế tiếp
của Bắc hàn - bán các kỹ thuật hạt nhân và tên lữa,
một trong số ít xuất khẩu đem lại nhiều lợi nhuận.
Kết quả:
ngay trong năm đầu của nhiệm kỳ, Obama đã chuẩn bị
một số biện pháp chống lại Bắc Hàn theo chiều hướng
của Bush, Cheney, và phái Tân bảo thủ trước đây.
Theo lời
các phụ tá, đường lối mới sẽ khai thác các quyết
nghị của Hội Đồng Bảo An LHQ nhằm đóng cửa các công
ty con của Bắc Hàn sản xuất tên lữa ở TQ, Nam Á, và
Trung Đông, những khách hàng lớn của Bắc Triều Tiên.
Theo
Thomas Graham, nguyên đặc phái viên Hoa Kỳ phụ
trách các vấn đề kiểm soát và tài giảm vũ khí cũng
như cấm phổ biến hạt nhân, NPT chưa bao giờ suy yếu
hơn hoặc đối diện với một tương lai bất định hơn.
Graham cảnh cáo: nếu NPT thất bại, "một thế giới
sống trong ác mộng nguyên tử"
rất có thể trở thành sự thật.
Cũng như
nhiều nhà phân tích khác, Graham công nhận đe dọa
chính đối với NPT là chính sách của Mỹ, mặc dù các
cường quốc nguyên tử khác cũng có phần trách nhiệm.
Điều VI
của Thỏa Ước quy định, các cường quốc nguyên tử cam
kết sẽ tích cực tìm cách loại bỏ vũ khí nguyên tử.
Trong thực tế, chẳng có quốc gia nào làm tròn trọng
trách. Chính quyền Bush còn trắng trợn hơn, tuyên bố
Hoa Kỳ không chấp nhận điều VI - nòng cốt của NPT,
và hiện đang tìm cách khai triển các vũ khí nguyên
tử mới.
Điều nầy
phù hợp với lập trường xấc láo của Bolton:
"Khi Hoa Kỳ lãnh đạo, LHQ sẽ phải nghe theo. Khi
quyền lợi của chúng tôi đòi hỏi, chúng tôi sẽ làm
như thế. Khi không phù hợp với quyền lợi của chúng
tôi, chúng tôi sẽ không làm".
John
Bolton đã một lần được bổ nhiệm làm đại sứ Hoa Kỳ
bên cạnh LHQ, một sự nhục mạ có tính toán đối với Âu
châu và thế giới.
Viết
trên International Affairs, tạp chí của Viện
Nghiên Cứu Các Vấn Đề Quốc Tế Hoàng Gia Anh, số
tháng 1-2005, Michael McGuire, một chuyên
gia của NATO, đã cảnh báo: trong các chính sách hiện
nay, "một cuộc chiến nguyên tử là một điều không
thể tránh. So với hiện tượng hâm nóng toàn cầu, phí
tổn loại bỏ các vũ khí nguyên tử rất bé nhỏ. Nhưng
kết quả tai họa của chiến tranh nguyên tử toàn cầu
vượt xa hậu quả của hiện tượng thay đổi khí hậu tiệm
tiến, bởi lẽ tác động tức thì và không thể tiết giảm
của nó. Điều éo le là chúng ta có khả năng loại bỏ
hiểm họa chiến tranh nguyên tử toàn cầu, nhưng không
thể tránh khỏi hiện tượng hâm nóng toàn cầu".
Nhà nước
khủng bố và các hình thức đe dọa và sử dụng bạo lực
đã đưa thế giới đến bờ thảm họa nguyên tử. Liệu LHQ
có đủ khôn ngoan đáp ứng lời kêu gọi của Bertrand
Russell và Albert Einstein 50 năm trước đây:
"Đây là vấn đề chúng tôi trình bày với quý vị, trần
trụi, đáng gờm và không thể tránh: Liệu chúng ta sẽ
đưa nhân loại đến diệt vong, hoặc liệu nhân loại sẽ
từ bỏ chiến tranh?".
QUỐC GIA
NGOÀI VÒNG PHÁP LUẬT
Ngày
25-5-2009, Bắc Hàn thử nghiệm bom nguyên tử lần thứ
hai dưới lòng đất, hai năm rưởi sau lần đầu. Obama
nhanh chóng tố cáo cuộc thử nghiệm "như một đe
dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và ổn định của thế
giới".
Ông còn nói thêm "hành động của Bắc Hàn đã diễn
ra ngay trước mặt các quyết nghị của LHQ và cần được
quốc tế cô lập hóa sâu xa hơn".
Gần bốn
tháng trước, Obama chẳng có gì để nói khi vào ngày 2
hoặc 3-02-2009, một tai nạn giữa hai tiềm thủy đỉnh
nguyên tử - một của Anh, một của Pháp - có trang bị
tên lữa hạt nhân, đã xẩy ra giữa Đại Tây Dương. Khác
với Bắc Hàn đã thông báo cuộc thử nghiệm ngay sau
đó với thế giới, Anh và Pháp chẳng nước nào hé môi.
Hoa kỳ cũng thế. Ngày 16-02-2009, báo Sun ở
Anh, do Murdoch sở hữu, tiết lộ tai nạn đụng tàu.
Lúc đó, và chỉ lúc đó, một quan chức Anh quốc dấu
tên mới cho biết "khả năng ngăn ngừa của tiềm
thủy đỉnh Vanguard vẫn nguyên vẹn, và an toàn nguyên
tử cũng không bị hề hấn".
Sứ mạng của cả hai tiềm thủy đỉnh - ngăn ngừa ai và
ngăn ngừa những gì - chẳng được tiết lộ..
Bộ Quốc
phòng Pháp, trong một tuyên bố vắn tắt ngày
6-02-2009, chỉ tiết lộ tiềm thủy đỉnh Le
Triomphant đã chạm phải "một vật chìm (có lẽ
một container)" trên đường tuần tiểu trở về, gây
hư hại cho phía mũi của vòm chứa sonar dò vật cản.
Người Pháp không xác nhận ngày xẩy ra tai nạn và
cũng chẳng nhắc gì đến tiềm thủy đỉnh của Anh. Tàu
Vanguard cũng chạy được về bến cảng xuất phát
, hư hại khá nhiều. Tàu Le Triomphant cũng
được một tàu chiến hộ tống về căn cứ ở bờ biễn phía
Tây nước Pháp. Không ai có thể tin bất cứ điều gì do
chính phủ Anh hoặc Pháp tường trình.
Sau khi
trở thành tổng thống, Sarkozy đã đọc bài diễn văn
đầu tiên về quốc phòng nhân dịp hạ thủy tiềm thủy
đỉnh mới Le Terrible với lời đe dọa đối với Iran. Kỷ
niệm 10 năm làm thủ tướng, Blair cũng đã thông báo
một số tiềm thủy đỉnh mới trang bị tên lữa Trident,
đặc biệt nhắc đích danh Bắc Hàn.
Tại
Cairo, Obama nhiệt thành tuyên bố: "Không một
quốc gia nào có thể chọn lựa xứ nào có quyền sở hữu
vũ khí nguyên tử" cùng lúc cảnh cáo Iran "khi
nói đến vũ khí nguyên tử , chúng tôi đã đi đến điểm
quyết định".
Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng úp mở khi lên kênh
truyền hình ABC mập mờ thảo luận về "hậu quả và
cái giá phải trả"
nếu Iran phát triển vũ khí hạt nhân, và giả
thuyết một cuộc tấn công của Mỹ, ngay cả "một
cuộc tấn công phủ đầu" (a first strike).
Trong
khi đó, họ vẫn gọi Bắc Hàn là một "quốc gia ngoài
vòng pháp luật" (a rogue nation)!
ĐẢO
CHÁNH QUÂN SỰ Ở HONDURAS
Ngay từ
thời T T Ronald Reagan, Hoa Kỳ đã duy trì ở Honduras
một phái bộ ngoại giao lớn thứ hai ở châu Mỹ La Tinh
và một cơ sở CIA lớn nhất toàn cầu - mặc dù Honduras
không phải là trung tâm quyền lực thế giới. Lý do
rất dễ hiểu: Tòa Đại Sứ và CIA không những có trách
nhiệm bảo vệ quyền lợi của người Mỹ ở Honduras, mà
còn duy trì và bành trướng ảnh hưởng của Hoa Kỳ
trong toàn khu vực Trung và Nam Mỹ.
Trách
nhiệm nầy giờ đây vô cùng quan trọng với cuộc đảo
chánh quân sự ở Honduras hôm 28-6-2009.
Ngày
29-6-2009, phóng viên Elisabeth Malkin tường
thuật trên báo The New York Times, T T
Honduras, Manuel Zelaya, cánh tả và liên minh
với T T Venezuela, Hugo Chavez, đã bị quân
đội lật đổ hôm chủ nhật (28-6-2009), sau nhiều tháng
căng thẳng do vận động chuẩn bị trưng cầu dân ý về
việc bải bỏ hạn chế nhiệm kỳ tổng thống duy nhất 4
năm.
Chiều
chủ nhật, Quốc Hội Honduras bỏ phiếu chọn chủ tịch
quốc hội, Roberto Micheletti, thay thế Zelaya
trong chức vụ tổng thống.
 
Jose
Miguel Insulza, Bertrand
Russell (nhà toán học kiêm triết gia)
Jose
Miguel Insulza,
tổng thư ký Tổ Chức Các Quốc Gia Châu Mỹ -
(Organization
of American States
OAS) - ra
tuyên bố kêu gọi phục hồi chức vụ T T Zelaya và nhấn
mạnh sẽ không thừa nhận bất cứ chính quyền nào khác.

Manuel Zelaya
T T
Obama cho biết ông rất lo ngại và kêu gọi các quan
chức Honduras tôn trọng các chuẩn mực dân chủ,
luật pháp và các nguyên tắc trong Hiến Chương Dân
Chủ Liên Mỹ (Inter-American Democratic Charter).
Ngày
30-6-2009, trong khi chính phủ mới của Honduras bác
bỏ lời kêu gọi của thế giới phục hồi T T Zelaya và
đụng độ với hàng nghìn người biểu tình phản đối, T T
Obama cực lực lên án việc truất phế tổng thống
Honduras như một cuộc đảo chánh phi pháp.
Obama tuyên bố: "Chúng tôi không muốn trở lại một
quá khứ đen tối. Chúng tôi luôn hậu thuẫn dân chủ".
Thế giới
đều biết Hoa Kỳ đã từng ủng hộ các phe nhóm chính
trị cạnh tranh và đạo diễn nhiều cuộc đảo chánh
trong khu vực.
Hoa kỳ
cũng đang duy trì những liên hệ mật thiết với giới
quân sự Honduras và giúp huấn luyện lực lượng quân
sự của xứ nầy. Các quan chức trong chính phủ Obama
thú nhận, trước ngày đảo chánh người Mỹ đã biết
giới quân sự đang thảo luận phương cách truất phế
tổng thống, bắt giữ ông ta, và dựa vào thế lực nào
để làm việc đó, nhưng không nghe nói đến đảo chánh.
Trong
khi đó, OAS lên án nặng nề hành động truất phế T
T Zelaya, và ra tối hậu thư cho chính phủ mới:
Trừ phi Zelaya được phục hồi chức vụ trong vòng
72 tiếng đồng hồ, tư cách thành viên của Honduras sẽ
bị OAS đình chỉ.
Ngày
2-7-2009, các quan chức trong chính quyền Obama cho
biết, mặc dù có những quan hệ rộng rãi với quân đội
và chính quyền Honduras, Hoa Kỳ ủng hộ OAS tìm
một giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Theo họ,
trong thế kỷ 21 những cuộc đảo chánh kiểu nầy không
thể kéo dài. Đối với một xứ như Honduras, thật là
một điều khó khăn giữ vững lập trường trước sự bác
bỏ mạnh mẽ của thế giới, nhất là của toàn khu vực
và các đối tác thương mãi quan trọng.

Ngân
Hàng Thế Giới tuyên bố sẽ ngưng số 270 triệu mỹ kim
đã được chấp thuận cho Honduras, một trong những xứ
nghèo khó trong vùng, và hoãn thi hành bất cứ dự án
mới nào cho đến khi cuộc khủng hoảng được giải
quyết. Ngân Hàng Phát Triển Liên Mỹ cũng đã đình chỉ
mọi chương trình ở Honduras.
Gọi sự
lật đổ Zelaya là một cuộc đảo chánh lỗi thời,
Insulza, Tổng Thư Ký OAS cho biết: "Chúng ta
cần nói rõ những cuộc đảo chánh quân sự sẽ không
được chấp nhận. Chúng tôi nghĩ chúng ta đang sống
trong kỹ nguyên khi các cuộc đảo chánh quân sự không
thể xẩy ra ở bán cầu nầy". OAS xem đây là "một
sự sửa đổi bất hợp hiến trật tự dân chủ".
Tuy
nhiên, một quan chức chính quyền Hoa Kỳ cho biết,
trưng cầu dân ý là một ý tưởng xấu. Nước Mỹ,
hiện cung cấp hàng triệu USD viện trợ cho Honduras,
là quốc gia châu Mỹ duy nhất không rút đại sứ khỏi
Honduras và tỏ ra ngần ngại áp dụng các biện pháp
chế tài.
Lập
trường bất nhất của Hoa Kỳ trong vụ đảo chánh xem ra
không mấy hợp lý. Thái độ lúng túng phản ảnh tình
huống trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Trong
nội bộ chính quyền Mỹ, hình như tay trái - T T
Obama - không hay biết tay phải - guồng máy
quân-sự-kỹ-nghệ - đang làm gì.
Cũng như
trong vụ biến động hậu bầu cử hồi đầu tháng ở Iran,
vụ đảo chánh ở Honduras chắc sẽ đem lại cho các quốc
gia Á, Phi,Trung Đông, và Tây Bán Cầu nhiều bài học
quý giá trong những tháng năm sắp tới.
TRÍ THỨC
VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
Hai vấn
đề cần được phân tích trong phạm trù nầy: trách
nhiệm của giới trí thức và văn hóa của đế quốc.
Cụm từ
trách nhiệm của trí thức xóa mờ ranh giới giữa hai
từ: "phải" và "là".
Từ
"phải" hàm chứa, trách nhiệm của trí thức cũng giống
trách nhiệm của bất cứ một người phải chăng nào
khác, mặc dù nặng nề và thanh cao hơn: đặc quyền
đem lại cơ hội, cơ hội đem lại trách nhiệm tinh thần.
Theo Hans Morgenthau (1970 - thời kỳ tư tưởng
đã có khuynh hướng chỉ trích), người sáng lập ra lý
thuyết quan hệ quốc tế, chúng ta thường lên án trí
thức trong các chế độ độc tài luôn "ngoan ngoản
phục tùng nhà cầm quyền".
Ở đây,
Morgenthau không ám chỉ các chính ủy trong các
chế độ thù nghịch. Ông muốn nói đến các vị
trí thức tồi tệ phương Tây, vì lẽ họ không thể tự
bào chữa với lý do sợ hải, mà vì thái độ hèn nhát,
qụy lụy trước quyền lực. Morgenthau đang mô tả
cái "gì" (what "is"), và không mô tả cái
"phải là" (what "ought" to be).
Khi lịch
sử trí thức được viết bởi trí thức, cố nhiên trí
thức được phác họa như những kẻ chính trực luôn can
trường bảo vệ lẽ phải và công lý, bảo vệ những giá
trị cao cả, và đối đầu với quyền lực và ác quỷ. Thực
tế thường đem lại một hình ảnh rất khác.
Những
tín điều nền tảng của quyền lực nhà nước luôn mang
tính cao quí, khả tín, mặc dù đôi khi sai lầm hay
thất bại đáng được lên án. Sự thật thông thường nầy
đã được T T John Adams nhắc lại cách đây hai
thế kỷ: "Người cầm quyền luôn nghĩ mình có một
tâm hồn vĩ đại và tầm nhìn rộng lớn những kẻ yếu hèn
không thể hiểu".
Đó chính là gốc rễ sâu xa của sự tàn bạo và tự
tôn thẩm thấu tinh thần đế quốc, và một chừng mức
nào đó, mọi cơ cấu quyền lực và trấn áp.
Sự sùng
kính "tâm hồn thanh cao của Nhà Nước" là lập
trường bình thường của giới thượng lưu trí thức,
luôn tin tưởng chỉ có họ mới là người xứng đáng cầm
cân nẩy mực, hay ít ra gần gũi quyền lực.
Theo một
nghiên cứu của Ủy Hội Tay Ba (Trilateral
Commission) gồm các học giả quốc tế đến từ Hoa
Kỳ, Âu châu và Nhật Bản, cách nhìn nầy phân biệt hai
hạng trí thức: "trí-thức-kỹ thuật- và-chính-
sách"
có tinh thần trách nhiệm, ôn hòa và xây dựng, và
"các trí- thức- giá- trị"
có khuynh hướng nghi ngờ dân chủ vì họ luôn coi
thường lãnh đạo, thách thức nhà cầm quyền, và vạch
mặt trái các định chế truyền thống. Họ nghiên cứu
cuộc khủng hoảng dân chủ trong thập kỷ 1960s khi
nhiều thành phần dân chúng thường khá thụ động và
thờ ơ - các nhóm quyền lợi đặc biệt
(special interests) - đang tìm cách tham gia
chính trị để tranh đấu cho những gì mình quan tâm.
Những
sáng kiến chệch hướng đó đã tạo ra điều mà nhóm
nghiên cứu gọi là "khủng hoảng dân chủ". Để
vượt qua khủng hoảng, các nhóm quyền lợi đặc biệt
phải trở về chức năng những nhà quan sát thụ động,
ngõ hầu các trí- thức- kỷ- thuật- và-chính- sách
có thể giữ đúng vai trò xây dựng của họ.
Các nhóm
quyền lợi đặc biệt chính là phụ nữ, thanh niên, phụ
lão, công nhân, nông dân, các sắc dân thiểu số hoặc
đa số - nói chung là quần chúng. Nhóm quyền lợi
đặc biệt duy nhất không được nhắc tới trong nghiên
cứu là nhóm đại công ty. Nhưng đây là điều dễ
hiểu. Nhóm nầy đại diện cho "quyền lợi quốc gia",
và dĩ nhiên người cầm quyền nhà nước phải bảo vệ
quyền lợi quốc gia!
Phản ứng
trước trào lưu đem lại hình thức dân chủ và văn minh
nguy hiểm nầy đã định hình kỷ nguyên đương đại.
Muốn
hiểu rõ những gì sẽ xẩy ra trong tương lai, chúng ta
cần phải quán triệt những nguyên tắc từ lâu làm nền
tảng cho các quyết định và hành động của giới lãnh
đạo quốc gia hùng mạnh nhất thế giới hiện nay -
Hoa Kỳ.
Mặc dù
chỉ là một trong ba trung tâm quyền lực lớn nhất
trong phạm vi kinh tế và trong nhiều lãnh vực khác,
nước Mỹ vượt hẵn bất cứ đại cường nào trong lịch sử
với sức mạnh quân sự áp đảo và gia tăng nhanh chóng.
Hoa Kỳ còn có thể dựa vào hậu thuẫn của Âu châu và
Nhật, hai nền kinh tế kỹ nghệ lớn thứ hai.
Hoa Kỳ
đã xây dựng một chủ thuyết rõ ràng - cơ sở của chính
sách đối ngoại đang ngự trị báo chí Tây phương và
hầu hết các cơ quan nghiên cứu, ngay cả các giới phê
bình chính sách. Nguyên tắc căn bản là thuyết
biệt lệ Hoa Kỳ, theo đó, khác với các đại cường
xưa và nay, Hoa Kỳ theo đuổi "một mục tiêu hướng
thượng: "phát huy bình đẳng trong tự do ở Mỹ" và
khắp thế giới, vì "diễn đàn trong đó Hoa Kỳ phải bảo
vệ và phát huy lý tưởng đã trở thành toàn cầu".
Trên đây
là tư tưởng của Hans Morgenthau dưới thời Kennedy
trước khi chiến tranh Việt Nam trở nên tàn khốc.
Nhiều
phần tử rất thông minh và chính trực đã hậu thuẫn
cho lập trường "biệt lệ". Chẳng hạn, John
Stuart Mill, trong một bài bình luận cổ điển:
"A Few Words on Non-Intervention" (Vài Lời về Bất
Can Thiệp), đã nêu câu hỏi: liệu nước Anh nên
can thiệp vào thế giới xấu xa hay chỉ nên tập trung
vào việc nội bộ để mặc bọn "man rợ" tự do
hoành hành. Kết luận tế nhị và phức tạp của Mill là
Anh Quốc nên can thiệp, mặc dù khi hành động như
vậy, Anh quốc sẽ bị lên án và nguyền rủa bởi người
Âu luôn "tìm kiếm những động lực thấp hèn", vì lẽ
người Âu không thể hiểu Anh quốc là quốc gia"tân
tiến khác thường trên thế giới", một cường quốc kỳ
diệu không tìm tư lợi mà luôn hành động vì lợi ích
của kẻ khác. Mặc dù phải gánh chịu mọi phí
tổn can thiệp một cách bất vụ lợi, nước Anh luôn san
sẻ lợi ích việc làm của mình đồng đều cho mọi người.
Chủ
nghĩa biệt lệ gần như phổ quát. Nguyên tắc hành động
đã được biểu lộ đầy đủ trong lịch sử: chính sách
chỉ phù hợp với lý tưởng diễn đạt nếu đồng thời cũng
phù hợp với quyền lợi. Từ "quyền lợi" ở
đây không có nghĩa là quyền lợi của người dân, của
quần chúng, mà là "quyền lợi quốc gia" hay
quyền lợi của các tập thể nắm quyền đang ngự trị xã
hội.
Trong
bài viết "Ai Ảnh Hưởng Đến Chính Sách Ngoại Giao
Hoa Kỳ?" (Who Influences U.S. Foreign Policy?),
đăng trong tạp chí American Political Science
Review, năm 2005, hai tác giã Lawrence Jacob
và Benjamin Page nhận định, ảnh hưởng chính
là các tập đoàn doanh nghiệp có phạm vi hoạt động
bao trùm thế giới (internationally oriented business
corporations), và giới chuyên viên với chút ít
ảnh hưởng, dĩ nhiên chỉ thứ yếu, vì chuyên viên
cũng chịu sự chi phối của giới doanh nghiệp. Ngược
lại, công luận tác động không đáng kể đến các quan
chức chính quyền.
Các
thành phần ảnh hưởng nhiều đến chính sách không nhất
thiết là những thành phần hiểu biết hay có khả năng
hơn người, ngoại trừ bảo vệ quyền lợi của chính họ."Tâm
hồn hướng thượng" của nhà nước trải rộng ra khỏi
biên giới quốc gia, tác động lên mọi lãnh vực của
đời sống, từ gia đình đến quốc tế. Tuy nhiên, mọi
tác nhân nắm quyền thống trị đều phải có khả năng
dễ kiểm tra, và không thể tự chính đáng hóa. Nếu
không vượt qua thử thách, guồng máy quyền lực phải
được gỡ bỏ. Đó là nguyên tắc hướng đạo của các phong
trào vô chính phủ tân thời , những phong trào dựa
nhiều trên các nguyên tắc của thuyết tự do cổ
điển (classical liberalism).
Một
trong những hướng phát triển lành mạnh nhất ở Âu
châu - dưới hình thức liên bang và tính lưu động
cao của Liên Hiệp Âu Châu - là khuynh hướng tản
quyền của nhà nước, với sự tái sinh của văn hóa cổ
truyền và ngôn ngữ cũng như trình độ tự trị cấp
vùng. Những chuyển biến nầy đã là nguồn cảm hứng
đằng sau viễn kiến một Âu châu tương lai với nhà
nước tản quyền chung cho toàn vùng.
Đem lại
một xã hội cân bằng thích hợp - giữa một bên là
quyền công dân và mục tiêu chung và bên kia là sự tự
trị cộng đồng với sắc thái văn hóa đa nguyên - không
phải là vấn đề đơn giản, và vấn đề kiểm soát dân chủ
các định chế cũng trải rộng đến các lãnh vực khác
của đời sống. Những vấn đề đó phải có ưu tiên cao
trong nghị trình của các nhóm không cùng tin tưởng ở
"tâm hồn hướng thượng của nhà nước", những
người tìm cách cứu thế giới khỏi các lực lượng phá
hoại đang đe dọa sự sống còn và cũng là những người
tin ở sự khả dĩ hiện thực hóa một xã hội văn minh
hơn.
THAY LỜI
KẾT LUẬN
 
Robert S. McNamara,
Lyndon Baines Johnson
Robert
S. McNamara, nguyên bộ trưởng quốc phòng đầy quyền
lực của Mỹ, đã từ trần ngày 6-7-2009, ở tuổi 93.
McNamara là một trí thức đặc biệt thông minh và
quyết đoán, là người đã đưa Hoa Kỳ vào vũng lầy
Việt Nam. Quốc Hội Mỹ cho phép tiến hành cuộc chiến
sau khi T T Johnson lấy cớ tàu chiến của Mỹ đã bị
thuyền tuần tiểu Bắc Việt tấn công ở Vịnh Bắc Việt
tháng 8-1964. Thực ra, cuộc tấn công không hề xẩy
ra. Phóng viên Tim Weiner báo The New York
Times nêu rõ "Tàu chiến của Mỹ đã bắn vào
bóng dáng của chính tàu dò vật cản của mình trong
đêm tối".
Dựa vào
phúc trình tình báo, McNamara xác quyết với Johnson
bằng cớ cuộc tấn công. Điều nầy khiến chúng ta nhớ
lại sự xác quyết bằng chứng Saddam Hussein có vũ khí
tiêu diệt hàng loạt sau biến cố 11-9 của chính quyền
George W. Bush.
Ngay từ
tháng 4-1964, Nghị Sĩ Dân Chủ Thượng Viện Wayne
Morse, bang Oregon, đã gọi chiến tranh Việt Nam
là Cuộc Chiến McNamara (McNamara's War).
McNamara không phản đối. Ông nói: "Tôi rất vui
khi được đồng hóa với cuộc chiến và sẽ làm mọi điều
có thể để chiến thắng".
Nửa
triệu lính Mỹ đã được McNamara gửi đến Việt Nam.
Cuộc chiến trở thành một ác mộng đối với McNamara.
Mọi điều ông làm, mọi phương tiện sử dụng - vũ khí,
quân đội ..., đã không thể chận đứng bước tiến của
quân Bắc Việt và đồng minh - Việt Cộng ở miền Nam.
Trước
khi rời Ngũ Giác Đài, McNamara đã hiểu rõ cuộc chiến
hoàn toàn thiếu chính nghĩa và vô vọng, nhưng ông đã
không chia sẻ sự thật với công chúng trong nhiều năm
sau. Mãi đến năm 1995, trong hồi ký, McNamara mới
công khai thú nhận cuộc chiến là sai lầm và sai
lầm ghê gớm (wrong, terribly wrong). Và ông đã
sống những năm tháng cuối đời ám ảnh bởi hậu quả phi
luân của cuộc chiến. Người ta thường bắt gặp ông thơ
thẩn trên đường lui tới văn phòng gần Tòa Bạch Ốc,
đầu cúi thấp, mắt đăm chiêu như đang nhìn một nơi xa
thẳm.
Thực
vậy, McNamara đã dành nhiều thập kỷ ngẫm nghĩ về
những bài học của cuộc chiến. Trong phim tài liệu
của Errol Morris năm 2003, The Fog of War: Eleven
Lessons from the Life of Robert S. McNamara (Sương
Mù Chiến Tranh: Mười Một Bài Học từ Đời Sống của
Robert S. McNamara), ông giải thích, bài học
quan trọng nhất là phải hiểu rõ đối thủ và "phải
đồng cảm với họ. Chúng ta phải gắng tự đặt mình vào
địa vị của họ và nhìn lại chính mình qua mắt của họ".
Theo
McNamara, thất bại của người Mỹ ở Việt Nam là đã
nhìn địch thủ qua lăng kính chiến tranh lạnh - một
domino nếu sụp đổ sẽ lôi kéo theo sự sụp đổ
của nhiều quốc gia Á châu khác.
Trong
phim, McNamara đã mô tả các đợt dội bom của Mỹ xuống
các thành phố Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến. Vào
thời điểm đó, McNamara chỉ giữ vai trò phân tích
thống kê cho Tướng Curtis E. LeMay trong
Không Lực của Lục Quân. McNamara nhớ lại,
"Chúng ta thiêu cháy 100.000 thường dân Nhật ở Tokyo
- đàn ông, đàn bà, trẻ con; tính chung, khoảng
900.000 thường dân thương vong. LeMay nói: Nếu chúng
ta thất trận, tất cả chúng ta chắc đã bị truy tố như
những tội phạm chiến tranh. Ông ta - và tôi nghĩ cả
tôi- đã ứng xử như những tên tội phạm chiến tranh".

TT Kennedy, các
tướng Curtis LeMay, Thomas Power
McNamara
tự hỏi: Điều gì làm chiến tranh vô luân nếu ta
thua và không vô luân nếu ta thắng?
Ông đã không thể tìm được câu trả lời.
Hơn
58.000 quân Mỹ tử trận và khoảng bốn triệu người
Việt thương vong trong cuộc chiến Việt Nam. Trên
4000 quân Mỹ đã bỏ mình ở Iraq cùng với nhiều trăm
nghìn người Iraq. Và chưa biết chính quyền Mỹ còn
tiếp tục gây thương vong cho bao nhiêu binh sĩ và
thường dân của nhiều phía trong cuộc chiến ở
Afghanistan và Pakistan đang tiếp diễn và ngày một
khốc liệt, một cuộc chiến hiện nay cũng chẳng còn
mấy ý nghĩa .
McNamara
cũng là tác giả của chủ thuyết chiến lược
bảo đảm tiêu diệt lẫn nhau (strategic doctrine
of mutually assured destruction), tin tưởng "nỗi
sợ bị tiêu diệt có thể giúp ngăn ngừa chiến tranh
nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Xô Viết"
- chủ thuyết đã đưa đến một sự gia tăng các kho vũ
khí nguyên tử của cả hai.
Tuy
nhiên, về già, McNamara đã thay đổi lập trường và
chống đối vũ khí nguyên tử. Trong một bài viết đăng
trong tạp chí Foreign Affairs số tháng 5 và 6
năm 2005, ông đã cảnh cáo: chính sách nguyên tử
của Hoa Kỳ là "phi luân, bất hợp pháp, không cần
thiết về quân sự, và tuyệt đối nguy hiểm. Chúng ta
phải hành động nhanh chóng nhằm hoàn toàn loại bỏ,
hay gần như loại bỏ, tất cả các vũ khí nguyên tử".
Nhà Nước
Hoa kỳ hướng thượng diệu kỳ
đang do các trí thức kiểu McNamara lãnh đạo,
trí-thức-kỹ-thuật-chính-sách hay trí-thức-giá trị?
© GS
Nguyễn Trường
Irvine,
California, USA
09-7-2009
|