Những bài cùng tác giả
hay
Thế giới đa cực đang dần ló dạng
Cuộc chiến chiếm Iraq của Hoa kỳ vào ngày 20 tháng 3
năm 2003 đã đánh dấu một bước ngoặc trong lịch sử
chính trị thế giới. Đó là sự kiện quan trọng nhất
kể từ khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ vào năm 1991. Với
sự tan rã của Liên Bang Xô Viết, Hoa Kỳ nghiểm nhiên
trở thành siêu cường duy nhất với tham vọng thiết
lập một trật tự thế giới mới đúng theo quyền lợi của
chính mình. Kỷ nguyên mới khởi đầu với tác phẩm Chung Cuộc của Lịch Sử và Ngườì Cuối Cùng
của Francis Fukuyama, xuất bản vào năm 1992, dọn
đường cho sự ra đời của nhóm The Project For The New
American Century (PNAC) năm 1997.
Cuộc tiến chiếm Iraq đã đưa đến hậu quả làm bùng
phát các lực ly tâm ở Trung Đông và nhiều nơi khác
trên thế giới cũng như một lối rẻ trong trật tự thế
giới mới do Hoa kỳ thiết lập. Thay vì củng cố địa
vị bá chủ của Hoa kỳ ở Trung đông, cuộc chiến có
chiều hướng trở thành một khúc dạo đầu trong quá
trình tuột dốc của siêu cường duy nhất không những ở
Trung Đông mà còn ở nhiều nơi khác trên thế giới,
ngược hẳn với viễn kiến của các vị trí thức trong
nhóm PNAC. Trái với ước đoán của các lực lượng chiếm
đóng, phái Hồi giáo đa số Shia đã trỗi dậy như một
lực lượng đang lên có ý hướng xích gần lại với Iran
- một thành viên trong “trục ma quỷ” luôn bị
Tổng thống Bush đe dọa trừng phạt.
I: HOA KỲ VÀ SỰ CHIẾM ĐÓNG IRAQ
Như đã nói ở trên, với sự sụp đổ của Liên Bang Xô
Viết, Hoa Kỳ đột nhiên được đẩy lên địa vị siêu
cường duy nhất, vô địch về quân sự lẫn kinh tế, áp
đảo trên bình diện ngoại giao và truyền thông quốc
tế. Thế kỷ trước mặt rõ ràng là “thế kỷ của Hoa Kỳ”
(American Century), và phần còn lại của thế giới bên
ngoài phải rập khuôn theo hình ảnh của siêu cường
duy nhất. Tuy vậy, chưa đến cuối thập kỷ đầu của thế
kỷ 21, chúng ta cũng đã được chứng kiến thấp thoáng
bóng dáng một thế giới đa cực lúc một rõ nét hơn.
Một số quốc gia lớn nhỏ đang lăm le thách thức địa
vị bá chủ của siêu cường duy nhất trên nhiều phương
diện. Nga và Trung quốc đứng hàng đầu, với
Venezuela và Iran cấp khu vực ở Nam Mỹ và Trung
Đông. Lúc riêng rẽ, khi phối
hợp, các xứ nầy đã ít nhiều thành công trong mục
tiêu xói mòn , nếu chưa trực diện đối đầu hay thách
thức , bá quyền của siêu cường duy nhất.
Do đâu và bằng cách nào thế giới đã có thể chuyển
biến nhanh như thế ?
Đã hẳn thảm kịch Iraq của Bush là yếu tố quyết định
trực tiếp --một mô thức cổ điển của một đế quốc,
hăng say và kiêu hãnh, giàn trải quá mỏng quyền lực
của chính mình. Nhiều người, ở Hoa kỳ cũng như ở
nhiều nơi khác trên thế giới , đã thở phào nhẹ nhõm
khi thảm kịch Iraq đã phơi bày rõ rệt giới hạn quyền
lực của bộ máy quân sự tối tân và có sức hủy diệt
khủng khiếp bậc nhất thế giới. Trong một bài bình
luận, Brent Scowcroft, cố vấn an ninh của hai đời
tổng thống, đã phải thú nhận : Ở Iraq, “chúng ta đã
bị cầm chân bởi những đối thủ chưa phải là một nhà
nước thù địch có tổ chức”.
Thực vậy, kế hoạch xâm lăng Iraq và thảm họa chiếm
đóng sau đó cũng như chiến dịch quân sự tồi tệ ở
Afghanistan đã đánh mất uy tín của Hoa Kỳ. Những
điều xấu xa, bỉ ổi trong những trại tù Abu Ghraib ở
Iraq và Guantanamo ở Cuba, cùng với những vụ tàn sát
dân thuờng ở Haditha được báo chí phơi bày rộng rãi
trên khắp thế giới, đã bôi tro trát trấu lên hình
ảnh đạo đức của Hoa kỳ.
Trong một cuộc thăm dò dư luận gần đây ở Thổ Nhĩ Kỳ,
một xứ có chính quyền thế tục và là thành viên của
Liên Phòng Bắc Đai Tây Dương (NATO), số người có
thiện cảm (favorable view) với Hoa kỳ đã giảm xuống
còn 9%, so với 52% cách đây 5 năm.
Một cuộc thăm dò khác ở Baghdad của báo The
Spectator tháng 7 năm 2003 , 4 tháng sau khi cuộc
chiến bắt đầu, đã cho thấy : 23% dân Baghdad tin mục
tiêu là để “giải phóng Iraq khỏi chế độ độc tài",
46% “để chiếm dầu khí” , trên 20% “để giúp Israel”,
và 6% “để tìm kiếm và phá hủy các vũ khí có sức hủy
diệt hàng loạt”.
Ngoài ra, còn có một số nguyên do khác - không liên
quan gì đến các cuộc phiêu lưu của Hoa Thịnh Đốn -
có thể giúp giải thích sự chuyển biến nhanh chóng
trong tình hình chính trị thế giới vừa nói.
Trước hết, tưởng cần phải nói đến thị trường dầu khí
: tài nguyên dầu khí luôn có hạn, số cầu ngày một
gia tăng ; quyền lực và ảnh huởng của các quốc gia
giàu trữ lượng ngày một lớn mạnh. Nhịp tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng của các quốc gia khổng lồ như
Trung Quốc, Ấn Độ. Trung Quốc đã trở thành một
trung tâm kỷ nghệ chế biến hàng đầu của thế giới.
Một nguyên do không kém quan trọng khác: độc quyền
song phương của Anh quốc và Hoa kỳ trong địa hạt
truyền thông đại chúng đã chấm dứt.
II: NHIỀU KÊNH TRUYỀN HÌNH--NHIỀU QUAN ĐIỂM
Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, trên toàn
thế giới, chỉ có BBC và CNN là có phóng viên ở
Baghdad. Vì vậy, khán thính giả bất cứ ở đâu cũng
chỉ có thể theo dõi cuộc chiến qua lăng kính của hai
công ty vừa nói. Mười hai năm sau, năm 2003, khi
chính quyền Bush, với sự hỗ trợ của thủ tướng Anh
Tony Blair, tiến chiếm Iraq, công ty truyền thông Al
Jazeera Arabic (tiếng ÁRập) mới ra đời và độc quyền
song phương CNN-BBC bị bẻ gãy. Al Jazeera Arabic
truyền tải những tin tức, hình ảnh cuộc chiến trái
ngược với Ngũ Giác Đài. Lần đầu tiên trong lịch sử,
thế giới đồng thời được chứng kiến những tường thuật
các trận chiến đang tiếp diễn từ hai nguồn tin với
quan điểm, góc cạnh khác nhau. Al Jazeera Arabic
cung cấp những hình ảnh, tin tức với trình độ xác
tín và trung thực cao. Do đó, nhiều đài truyền hình
bên ngoài thế giới Árập - ở Âu châu, Á châu, Phi
châu, châu Mỹ La tinh - luôn chiếu nhiều trích đoạn
phim (clips) của Al Jazeera Arabic.
Mặc dù trên lý thuyết, sự trưởng thành của truyền
hình cáp quang toàn cầu đã báo hiệu sự cáo chung của
địa vị độc quyền song phương Anh-Mỹ trên diễn đàn
truyền thông 24 giờ mỗi ngày, trong thực tế, sự mong
đợi vẫn chưa thành sự thật vì phí tổn thu thập và
biên tập hình ảnh cũng như tin tức truyền hình quá
cao. Phải đợi đến năm 2006 khi kênh truyền hình Al
Jazeera English (tiếng Anh) ra đời do sự tài trợ của
chính quyền Qatar - một xứ có nhiều tài nguyên dầu
khí và theo đuổi chính sách giúp thiết lập một kênh
truyền thông toàn cầu theo nhản quan Hồi giáo - độc
quyền song phương Anh quốc-Hoa kỳ mới thực sự bị phá
vỡ.
Chẳng bao lâu sau, kênh phát hình song ngữ Anh-Pháp
France 24 đi vào hoạt động, dĩ nhiên từ quan điểm
của Pháp, nối tiếp bởi English-language Press TV từ
góc cạnh Iran. Kế đến, Nga với Russia Today cũng
phát hình toàn cầu bằng Anh ngữ, 24 giờ mỗi ngày.
Cùng lúc, với sự cổ súy của Tổng thống Venezuela,
Hugo Chavez, kênh truyền hình Telesur từ Caracas bắt
đầu cạnh tranh với CNN cung cấp dịch vụ truyền thông
cho khán thính giả Mỹ La tinh bằng tiếng Tây Ban
Nha.
Đã hẳn là nguồn tài trợ cho các kênh truyền hình
Qatar, Russia và Venezuela đã đến từ số thu nhập từ
tài nguyên dầu khí của các xứ sở quan - một yếu tố
xói mòn bá quyền Hoa kỳ không những trong địa hạt
phát hình mà cả trong thực tế đời thường.
III : LIÊN BANG NGA, SIÊU CƯỜNG NĂNG LƯỢNG
Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Vladimir Putin, Liên
Bang Nga đã phục hồi và ra khỏi tình trạng hỗn loạn
kinh tế, hậu quả của sự tan rã của Liên Bang Xô Viết
năm 1991. Sau khi tái quốc hữu hóa kỷ nghệ dầu khí,
Putin bắt đầu dùng ảnh hưởng kinh tế để đẩy mạnh
quyền lợi quốc tế của Nga trên mặt
trận ngoại giao.
Năm 2005, Nga đã qua mặt Hoa kỳ, trở thành nước sản
xuất dầu khí lớn thứ hai trên thế giới. Thu nhập
hàng ngày lên tới 679 triệu mỹ kim. Cho đến nay,
riêng ở Âu châu, các nước lệ thuộc vào nguồn cung
cấp dầu khí từ Nga gồm Hung Gia Lợi, Ba Lan, Đức, và
cả Anh quốc.
Liên Bang Nga cũng là xứ sản xuất hơi đốt thiên
nhiên (natural gas) lớn nhất hoàn cầu. 3/5 con số
nầy được xuất khẩu qua 27 xứ thành viên Liên Hiệp Âu
Châu (EU). Bulgaria, Estonia, Finland và Slovakia
nhập khẩu 100% hơi đốt từ Nga; Turkey, 66%; Poland,
58%; Germany, 41%; và Pháp, 25%. Gazprom, công ty
hơi đốt lớn nhất hoàn vũ, cũng đã có sự hiện diện
trong 16 xứ thành viên EU. Năm 2006, ngoại tệ dự trữ
của Điện Cẩm Linh đã lên đến 315 tỉ mỹ kim, so với
12 tỉ vào năm 1999. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi trước ngày họp hội nghị thượng đỉnh khối
G8 vào tháng 7 năm 2006 ở St Petersberg, Putin đã
gạt bỏ hiến chương về năng lượng (energy charter) do
các nhà lãnh đạo Tây phương đề xuất.
Ngoại tệ dự trữ ngày một gia tăng, hỏa tiễn liên lục
địa nhiều và hiện đại, liên minh ngày một khắng khít
với một Trung Quốc phồn vinh - tập trận chung tháng
8 năm 2005 ngay trên bán đảo Shandong, Trung Quốc -
đã tạo một thế đứng giúp Putin tương tác bình đẳng
với Tổng Thống George W. Bush và không phải dè dặt
khi đánh giá các phương sách của Hoa Kỳ.
Trong hội nghị xuyên Đại Tây Dương thứ 43 về chính
sách an ninh, tháng 2 năm 2007 ở Munich, Putin thẳng
thắn tuyên bố : “Hoa kỳ là quốc gia đã vượt quá thẩm
quyền của mình trên nhiều phương diện. Điều nầy đã
thể hiện rõ nét trong các chính sách kinh tế, chính
trị, văn hóa, giáo dục áp đặt lên các quốc gia khác
… Đây là điều thật sự nguy hiểm”.
Lên án ý niệm “thế giới đơn cực”, ông nói tiếp: “Dù
nguời ta có tô điểm từ nầy ra sao đi nữa , cuối cùng
cụm từ nầy cũng chỉ mô phỏng một tình huống trong đó
chỉ có một trung tâm uy quyền, một trung tâm quyền
lực, một trung tâm giữ quyền quyết định… Đó là một
thế giới với một chủ nhân ông, một đấng tối thuợng.
Và đây là điều rất tai hại”.
Đối với các nhà lãnh đạo Á, Phi, Nam Mỹ, những lời
phát biểu của Putin nghe thật bùi tai.
Khỏi cần phải nói, nhiều giới trong vùng Vịnh giàu
nhiên liệu dầu khí, nhất là các nhà nghiên cứu và
hoạch định chính sách, rất quan tâm đến quan hệ đang
đổi thay giữa Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn. Bình
luận về chuyến viếng thăm Saudi Arabia và Qatar (các
đồng minh kỳ cựu của Hoa Kỳ) của Tổng Thống Putin
tiếp theo sau hội nghị Munich, Abdel Aziz Sagar, chủ
tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Vùng Vịnh, đã viết trong
nhật báo The Peninsula ở Doha: Liên Bang Nga và các
xứ Á Rập vùng Vịnh, có một thời là những xứ thuộc
những khối ý thức hệ đối nghịch, nay đã tìm được một
nghị trình chung về dầu khí, chống khủng bố,và mua
bán vũ khí. “Mục tiêu thay đổi nầy đã đạt được trong
bối cảnh các xứ vùng Vịnh hiện đang mong muốn duy
trì tất cả các chọn lựa địa chính trị rộng mở, duyệt
xét lại lợi ích của Hoa Kỳ trong vai trò quốc gia
bảo đảm an ninh duy nhất, và tìm kiếm một cơ chế an
ninh tập thể có sự tham gia của nhiều tay chơi quốc
tế".
Vào tháng 4 năm 2007, Điện Cẩm Linh đã công bố một
tài liệu quan trọng về chính sách đối ngoại: “Huyền
thoại về thế giới đơn cực đã vĩnh viễn sụp đổ ở
Iraq. Một nước Nga hùng mạnh và tự tin hơn đã trở
thành một thành tố của những đổi thay mang tính tích
cực trên thế giới”
Quan hệ ngày một căng thẳng giữa Điện Cẩm Linh và
Hoa Thịnh Đốn đã phản ảnh trung thực công luận ở
Nga. Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận truớc
ngày họp hội nghị thuợng đỉnh khối G8 năm 2006, 58%
dân Nga xem Hoa Kỳ như một quốc gia “không thân
thiện” (unfriendly country). Cảm nghĩ đó đã trở
thành một xu thế. Chẳng hạn, tháng 7 năm 2007, một
tuớng lãnh Nga đã nhận định khi trò chuyện với nhật
báo Komsolskya Pravada -tờ báo lưu hành rộng rải
nhất ở Nga- là chiến tranh với Hoa Kỳ là “điều có
thể xẩy ra” (a possibility) trong vòng 10 đến 15 năm
tới.
IV: CHAVEZ -MỘT THÁCH THỨC
Tổng Thống Venezuela, Hugo Chavez, đồng tình với
những cảm nghĩ đó. Trong chuyến viếng thăm Điện Cẩm
Linh vào tháng 6 năm 2007, Chavez đã thúc dục người
Nga trở về với tư tuởng Vladimir Lenin, nhất là với
chủ nghĩa chống đế quốc (anti-imperialism). Ông nói
“nguời Mỹ không muốn một nước Nga tiếp tục lớn mạnh.
Nhưng nước Nga đã trỗi dậy trở lại như một trung tâm
quyền lực, và chúng tôi, nhân dân thế giới, cần một
nước Nga ngày một hùng mạnh hơn".
Chavez đã hoàn tất các cuộc thương thảo một thỏa ước
trị giá một tỉ mỹ kim, mua 5 tàu ngầm diesel để bảo
vệ thềm lục địa chứa nhiều trữ lượng dầu khí và vô
hiệu hóa sự khả dĩ cấm vận Hoa Kỳ có thể áp đặt
trong tương lai. Vào thời điểm đó, Venezuela đã là
nước mua vũ khí của Nga lớn thứ hai. (Algeria đứng
đầu bảng, một chỉ dấu khác của tính đa cực ngày một
gia tăng trong sinh hoạt chính trị thế giới).
Venezuela còn là nước đầu tiên được cấp giấy phép
sản xuất loại súng cá nhân nổi tiếng AK-47.
Bằng cách phân bổ một phần số thu nhập từ dầu khí để
giúp dân nghèo Venezuela, Chavez đã thành công trong
việc củng cố và tăng cường hậu thuẫn chính trị cho
mình. Điều đáng buồn cho Tòa Bạch Ốc và Bush là
Chavez đã đánh bại đối thủ chính trị duy nhất,
Manuel Rosales, trong kỳ bầu cử Tổng Thống tháng 12
năm 2006 với 61% tổng số phiếu. Chính quyền Bush
càng mất mặt hơn khi cùng thời điểm Venezuela đã cấp
ngoại viện cho các xứ nghèo Mỹ La tinh nhiều hơn cả
Hoa Kỳ.
Sau khi tái đắc cử, Chavez càng dốc lòng theo đuổi
mộng ước thiết lập một liên minh chống đế quốc không
những ở Nam Mỹ mà cả trên toàn cầu. Ông cũng tăng
cường quan hệ không những với các xứ Mỹ La Tinh như
Argentina , Bolivia, Cuba, Ecuador, Nicaragua, mà cả
với Iran và Belarus.
Vào thời điểm Chavez đến Tehran sau khi rời Moscow,
vào tháng 6 năm 2007, 180 hiệp ước chính trị và kinh
tế ký với Iran cũng đã đem lại kết quả cụ thể. Xe
hơi và máy cày do Iran thiết kế đã tuần tự tung ra
thị trường từ các nhà máy Venezuela. Ở Tehran,
Chavez tuyên bố “Sự hợp tác giữa các quốc gia độc
lập như Iran và Venezuela có một vai trò hữu hiệu
trong việc đánh bại các chính sách đế quốc và bảo vệ
các quốc gia”.
Bị sa lầy ở Iraq và phải đương đầu với các đợt tăng
phi mã trong giá dầu, chính quyền Bush không còn
nhiều lựa chọn trong các phương sách đối phó với các
xứ có nhiều tài nguyên dầu khí đang lên. Trước những
thách thức mang tính nhạo báng của Chavez, phản ứng
từ phía Hoa Kỳ không còn mấy hiệu lực. Lý do là vì
Hoa Kỳ quá lệ thuộc vào các nguồn cung cấp dầu khí
từ bên ngoài - 60% tổng nhu cầu tiêu thụ. Và
Venezuela là nước cung cấp lớn hạng tư của Hoa Kỳ,
chỉ sau Canada, Mexico, và Saudi Arabia; và vài nhà
máy lọc dầu của Hoa Kỳ cũng đã được thiết kế chỉ để
lọc loại dầu nặng từ Venezuela.
Trong sách lược của Chavez nhằm bào mòn ảnh hưởng
của siêu cường duy nhất, Trung Quốc giữ một vai trò
quan trọng. Tháng 8 năm 2006, trong dịp công du đến
Bắc Kinh, lần thứ ba trong vòng 7 năm, Chavez loan
báo sẽ tăng gấp ba số lượng dầu xuất khẩu qua Trung
Quốc - 500.000 thùng (barrels) mỗi ngày liên tiếp
trong ba năm - một sự gia tăng có lợi cho cả đôi
bên. Chavez muốn mở rộng thị trường xuất khẩu ra
nhiều nước để giảm bớt tầm quan trọng của thị trường
Hoa Kỳ trong khi Trung Quốc đang tìm kiếm càng nhiều
nguồn cung cấp càng tốt để khỏi quá lệ thuộc vào
vùng Trung Đông là nơi ảnh hưởng của Hoa Kỳ còn khá
mạnh.
Chavez tuyên bố “sự hỗ trợ của Trung Quốc rất quan
trọng [đối với chúng tôi] về phương diện chính trị
và đạo đức”. Bên cạnh dự án lọc dầu liên doanh,
Trung Quốc còn đồng ý xây cất 13 giàn khoan (oil
drilling platforms), cung cấp 18 tàu chở dầu
(tankers), và hợp tác với công ty quốc doanh
Petroleos de Venezuela S.A. (PdVSA) tìm dầu trong
vịnh Orinoco.
V: TRUNG QUỐC TRÊN ĐÀ THĂNG TIẾN
Công ty quốc doanh Petro China phát triển nhanh đến
độ, vào giữa năm 2007, đã chiếm vị trí số 2 (chỉ
đứng sau Exxon Mobil theo giá trị thị trường) trong
số những đại công ty năng lượng. Thực ra, tính đến
năm 2007, Trung Quốc đã có đến 3 công ty lọt vào
danh sách 10 công ty có giá trị lớn nhất thế giới.
Hoa Kỳ đứng hạng nhất với 5 công ty. Ngạch số ngoại
tệ dự trữ trên một nghìn tỉ mỹ kim của Trung Quốc đã
vượt quá số dự trữ của xứ mặt trời mọc. Với GDP tăng
nhanh vượt qua Đức quốc, nền kinh tế Trung Quốc đã
vươn lên hàng thứ ba trên thế giới.
Trên bình diện ngoại giao, năm 1996, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc đã ghi thêm một bước tiến mới khi
đứng ra bảo trợ Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (Shanghai
Cooperation Organization hay SCO) gồm bốn quốc gia
lân cận cùng chung ít nhiều biên giới: Nga và ba
cộng hòa thuộc khối Xô Viết trước đây - Kazakhstan ,
Kyrgyzstan , và Tajikistan. SCO khởi đầu như một tổ
chức hợp tác chống buôn lậu nha phiến và tệ nạn
khủng bố. Về sau, SCO kết nạp thêm Uzbekystan mặc dù
xứ nầy không ít nhiều chung biên giới với Trung
Quốc. Năm 2003, SCO mở rộng phạm vi hoạt động bằng
cách ghi thêm vào hiến chương của tổ chức mục tiêu
hợp tác kinh tế cấp khu vực. Từ đó, SCO thu nhận
thêm Pakistan, India, Mongolia (đều là những xứ có
chung biên giới với Trung Quốc), và Iran (không
chung biên giới) với tư cách quan sát viên. Riêng
đơn xin gia nhập với tư cách quan sát viên của Hoa
Kỳ lại bị từ chối - một thất bại phương hại cho uy
tín của siêu cường duy nhất (trước đó đã được hưởng
quy chế quan sát viên bên cạnh tổ chức ASEAN).
Vào đầu tháng 8 năm 2007, một ngày trước hội nghị
thượng đỉnh SCO ở Bishkek, thủ đô của Kyrgyzstan,
cuộc tập trận chung đầu tiên của tổ chức mang mật
hiệu Sứ Mệnh Hòa Bình 2007 (Peace Mission 2007) đã
diễn ra ở vùng núi Ural, Chelyabinsk, thuộc Nga.
Ednan Karabayev, bộ trưởng ngoại giao Kyrgystan đã
tuyên bố: “SCO được thiết lập với chủ đích đem lại
an ninh cho thế giới".
Nhận đăng cai China-Africa Forum (Hội Thọaị Trung
Quốc-Phi châu) ở Bắc Kinh vào cuối năm 2006, với sự
tham dự của lãnh đạo 48 trong số 53 quốc gia Phi
châu, Trung Quốc đã bỏ xa Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua
ngoại giao ở một châu lục giàu nhiên liệu và nhiều
tài nguyên khác. Để đổi lấy dầu hỏa, quặng sắt,
đồng, và bông vải, Trung Quốc cung cấp hàng hóa với
giá rẻ cho dân Phi châu, và giúp các xứ Phi châu xây
hoặc nâng cấp các xa lộ, đường hỏa xa, hải cảng, đập
thủy điện, hệ thống viễn thông, và trường học.
Wang Hongyi, một chuyên viên về Phi châu thuộc Viện
Nghiên cứu Quốc Tế của Trung Quốc, nhận xét: “Trung
Quốc không thể chấp nhận phương cách Tây phương áp
đặt các giá trị và hệ thống chính trị của mình lên
các xứ khác. Chúng tôi tập trung vào sự phát triển
có lợi chung”.
Nhằm giảm thiểu phí vận chuyển dầu từ Phi châu và
Trung Đông, Trung Quốc đã bắt đầu xây đường ống dẫn
dầu từ vịnh Bengal lên đến Vân Nam xuyên qua
Myanmar, nhờ vậy, rút ngắn được lộ trình các tàu chở
dầu. Điều nầy đã ảnh huởng tiêu cực đến chiến dịch
cô lập Myanmar của Hoa Thịnh Đốn. (Trước đó, Sudan,
bị Hoa Thịnh Đốn tẩy chay, cũng đã trở thành nguồn
cung cấp nhiên liệu quan trọng từ Phi châu cho Trung
Quốc). Ngoài ra, các công ty dầu Trung Quốc cũng
cạnh tranh quyết liệt với các đối tác Tây phương để
giành giật trữ lượng dầu lửa ở Kazakhstan và
Uzbekistan.
Theo nhà bình luận William Mellor thuộc hãng thông
tấn Bloomberg News, “ngoại giao dầu khí đang đưa
Trung Quốc vào con đường đối đầu với Hoa Kỳ và Tây
Âu hiện đã áp đặt nhiều biện pháp chế tài lên vài xứ
đang giao thương với Trung Quốc”. Phía Trung Quốc
cũng cùng cảm nghĩ. Jin Riguang, cố vấn dầu khí đồng
thời là thành viên của Ủy Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị
Trung Quốc, cũng nhận xét: “Tôi thấy Trung Quốc và
Hoa Kỳ sẽ xung đột vì nhiên liệu trong những năm sắp
tới”.
Công nghệ hóa và hiện đại hóa ở Trung Quốc cũng đã
đưa đến việc canh tân guồng máy quân sự của xứ nầy.
Cuộc thử nghiệm hỏa tiễn chống vệ tinh đầu tiên đã
thành công khi phá hủy một vệ tinh thời tiết đã
ngừng hoạt động tháng 1 năm 2007 - một bằng chứng
hùng hồn của tiến độ hiện đại hóa nhanh chóng trong
địa hạt kỹ thuật và công nghệ của Trung Quốc. Hoa
Thịnh Đốn đã rất quan ngại khi ghi nhận tầm cở gia
tăng 18% trong ngân sách quốc phòng 2007 của Trung
Quốc. Bàn về sự gia tăng quân phí dành cho hỏa tiễn,
chiến tranh điện tử, và các trang bị tối tân khác,
Liao Xilong, chỉ huy trưởng quân tiếp vận Quân Đội
Giải Phóng Nhân Dân, nhận định: “Thế giới ngày nay
không còn hòa bình và để bảo vệ an ninh quốc gia, ổn
định và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta phải gia tăng
đúng mức ngân sách hiện đại hóa quân đội”.
Ngân sách quốc phòng 45 tỉ mỹ kim của Trung Quốc chỉ
là một phân số bé nhỏ , chưa đến 10% ngân sách 459
tỉ của Ngũ Giác Đài. Tuy nhiên , một báo cáo của
Ngũ Giác Đài trong tháng 5 năm 2007 có ghi nhận“sự
trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc như một cường
quốc kinh tế cấp vùng với mộng ước toàn cầu”. Ngũ
Giác Đài còn đi xa hơn khi kết luận Trung Quốc đang
có kế hoạch mở rộng phạm vi hoạt động quân sự từ eo
biển Đài Loan ra toàn vùng Á châu-Thái Bình Dương để
lâm thời đối phó với mọi xung đột về lãnh thổ hay
tài nguyên khả dĩ xẩy ra trong tương lai.
VI: THAY LỜI KẾT LUẬN
Những thách thức lẻ tẻ nhưng liên tục nói trên đối
với địa vị bá chủ của Hoa Kỳ trên toàn cầu bắt nguồn
không chỉ từ những toan tính giành giựt tài nguyên
thiên nhiên, nhất là dầu khí và hơi đốt, mà còn từ
sự xung đột ngày một gay gắt do các dị biệt về giá
trị, về hệ ý thức, về dân chủ, nhân quyền, như các
nhà hoạch định chính sách phương Tây quan niệm và áp
đặt.
Những dị biệt trong cảm nhận về bản sắc quốc gia, đế
quốc, và lịch sử, cũng là những đề tài luôn gây
tranh cải.
Điều đáng ghi nhận là các quan chức Nga, đang
vui mừng
về sự trỗi dậy nhanh chóng của một nước Nga
hậu-XôViết, thường rất thích thú nhắc lại kỷ nguyên
cách mạng tiền-Bolshevik khi theo họ nước Nga dưới
thời Nga hoàng đã là một đại cường. Các nhà lãnh đạo
Trung Quốc cũng hãnh diện không kém về quá khứ đế
quốc lâu dài độc nhất vô nhị của họ trên thế giới.
Với cái nhìn theo góc độ toàn cầu và chiều dài lịch
sử, ý niệm biệt lệ Hoa Kỳ (American Exceptionalism)
- một ý niệm đã thúc đẩy nhóm Tân Bảo Thủ phát động
The Project For the New American Century và đã được
chính quyền George W. Bush vồ vập - cũng chẳng có gì
mới mẻ. Các siêu cuờng trước đây đã từng kinh qua và
cũng đã từng trải nghiệm sự mất mát khi phải nhường
địa vị bá chủ cho các cường quốc khác đang lên.
Thời nay, không một siêu cường nào có thể duy trì
địa vị bá chủ của mình quá vài ba thế hệ. Và dù một
số lãnh đạo vẫn còn tự cho mình là biệt lệ, thì Hoa
kỳ, rõ ràng đã vượt quá đỉnh điểm, chẳng còn có cơ
may nào để trở thành biệt lệ trong hiện tình lịch
sử.
Thực vậy, lướt qua báo chí hàng ngày, chúng ta luôn
gặp một vài cọng rơm trước gió phản ảnh sự suy giảm,
hao mòn trong quyền lực Hoa Kỳ. Tổng Thống của siêu
cường duy nhất cùng các quan chức ngoại giao và
tướng lãnh không ngừng tố cáo Iran như bàn tay quỷ
sứ bên sau thảm họa của Hoa Kỳ ở Iraq và
Afghanistan.
Trong bối cảnh đó, hãy tưởng tượng, khi vừa đến Hoa
Thịnh Đốn cách đây mấy tuần lễ, Tổng Thống
Afghanistan, Hamid Karzai, đã nhanh nhẩu mô phỏng
Iran như "một người giúp đỡ và một giải pháp" (a
helper and a solution) cho xứ sở của ông, ngay khi
Tổng Thống Bush lại nhấn mạnh trước sự hiện diện của
ông: “Tôi sẽ rất thận trọng khi nói ảnh hưởng của
Iran ở Afghanistan có phải là một lực lượng mang
tính tích cực hay không”. Gần như cùng lúc, Thủ
Tướng Iraq, Nouri al-Maliki, đang viếng thăm Iran,
đã hẳn với mục đích tìm kiếm hậu thuẫn để đề phòng
trường hợp Koa Kỳ trở mặt với chính phủ ông. Maliki
bắt tay Tổng Thống Iran Mahmoud Ahmadinejad, hội
kiến với lãnh tụ tối cao Ayatollah Ali Khomeini, và
kêu gọi hợp tác. Để đáp lại, Tổng Thống Bush chỉ
biết đưa ra một lời đe dọa mơ hồ: “ Tôi sẽ phải nói
chuyện riêng với ông bạn của tôi, ngài Thủ Tướng,
bởi lẽ tôi không tin [người Iran] có ý xây dựng….
Thông điệp của tôi cho ông là khi chúng tôi bắt được
ông đang chơi trò không xây dựng, ông sẽ phải trả
giá [cho việc làm của mình]”. (Sau đó, người phát
ngôn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia đã phải đính chính,
nhấn mạnh sự đe dọa chỉ nhắm vào Iran, không phải
Maliki). Tiếp đó, như để xát muối vào vết thương,
chỉ một tuần sau khi hội kiến với Bush ở Hoa Thịnh
Đốn, Karzai lại tiếp Ahmadinejad và một phái đoàn
quan chức cao cấp Iran chính thức viếng thăm Kabul,
như “một thách thức công khai đối với Hoa Thịnh Đốn”. Trở về Tehran, mấy hôm sau, Ahmadinejad lại tuyên
bố, lần nầy còn táo bạo hơn, là quyền lực Hoa Kỳ ở
Iraq đang suy sụp một cách nhanh chóng, để lộ một
khoảng trống to lớn , và Iran đang sẵn sàng để lấp
vào khoảng trống đó.
Điều gì xẩy ra đã khiến vị Tổng Thống kiêu căng của
siêu cường duy nhất phải chịu mất mặt như thế?
Karzai và Maliki là hai vị Tổng Thống do Hoa kỳ dựng
lên và che chở, không mấy quyền hành và ngày một suy
yếu - Maliki lãnh đạo một chính quyền hỗn độn, pham
vi hoạt động không vượt quá khu Green Zone ở Baghdad
trong khi Karzai, được mệnh danh là thị trưởng của
thủ đô Kabul, đứng đầu một chính phủ kiểm soát một
vài khu vực khiêm tốn nhưng cũng chỉ trên danh
nghĩa. Trong một tình huống khác, cả hai chỉ đáng
được xem như hai “bung xung” hay “bù nhìn” của Hoa
Kỳ, giờ đây lại dám bạo gan đi tìm hậu thuẫn từ một
cường quốc cấp khu vực, tệ hơn nữa, một thành viên
trong “trục ma quỷ” mà Bush đang phải dùng tất cả
vốn liếng còn rơi rớt lại của hai nhiệm kỳ tổng
thống để cá cược răn đe.
Trong khi đó, tiếp theo cuộc tập trận Nga-TrungQuốc
lần đầu trong tháng 8 năm 2007 trên lãnh thổ Nga với
sự chứng kiến của Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng Thống
Vladimir Putin, từ Kazakhstan (một Cộng hòa Trung Á
-thành viên của Liên Bang Xô Viết trước đây), Putin
loan báo “sẽ tái tục các chuyến bay tuần tiểu đường
dài thường lệ bị gián đoạn do sự tan rã của Liên
Bang Xô Viết trước đây"- cũng không phải chỉ riêng
trên không phận Liên Bang Nga. Các phi cơ tuần tiểu
nầy được trang bị vũ khí nguyên tử và “có thể tấn
công các mục tiêu nằm sâu trong lục địa Hoa Kỳ“. Có
thể hiểu đây là phương cách Tổng Thống Putin - rất
bất bình trước quyết định thiết lập hệ thống lá chắn
chống hỏa tiễn của Hoa Kỳ ở Ba Lan và Cộng Hòa Czech
– đã sử dụng biểu tượng quân sự nầy để tái khẳng
định uy quyền một đại cường của Liên Bang Nga - một
uy quyền Nga đã thành đạt trong những năm gần đây
nhờ ở trữ lượng dầu khí khổng lồ của chính mình.
Trước sự kiện nầy, một viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa
Kỳ chỉ có thể phản ứng: “Nếu Nga cảm thấy muốn đem
một số phi cơ cũ từ các nhà kho phế liệu ra cho bay
trở lại , thì đó là quyết định của riêng họ“.
Cùng lúc, bên kia nửa vòng địa cầu, chính quyền
Venezuela của Hugo Chavez đang chuẩn bị công bố một
thỏa ước mới với Liên Bang Nga của Vladimir Putin.
Sau khi đã mua phi cơ phản lực, trực thăng, và
toàn bộ vài nhà máy sản xuất vũ khí tấn công
Kalashnikov của Nga (trước sự cấm vận vũ khí của Hoa
Kỳ), Venezuela giờ đây còn mua thêm 5.000 súng bắn
tỉa kỹ thuật cao Dragunov. Một lần nữa, giọng điệu
phiền trách từ Hoa thịnh Đốn không còn đồng vọng quá
chối tai.
Nói ngắn gọn, trong khi tất cả nỗ lực của chính
quyền Bush đang bị vòng xoáy lỗ đen Iraq hút trọn,
thế giới bên ngoài hình như đang được yên ả xây đắp
uy quyền của mình hầu bào mòn thế lực toàn cầu của
siêu cường duy nhất.
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USA
07-9-2007
_________________________________
Tài liệu tham khảo :
Sách :
(1) Blood of the Earth: The Battle for the World’s
Vanishing Oil Resources , Philip Hiro, Nation Books
, New York , 2007.
(2) Secrets and Lies : Operation “Iraqi Freedom” and
After , Philip Hiro , Nation Books , New York ,
2004.
(3) Iraq : In the Eye of the Storm , Philip Hiro ,
Nation Books , New York , 2002.
(4) The Rise of Islamist Terrorism and Global
Response , Philip Hiro , Nation Books , New York ,
2002
Tạp Chí :
The Economist
The Nation
================
We are being wrestled to
a draw by opponents who are not even an organized
state adversary.
One country, the United States , has overstepped
its national boundries in every way. This is
visible in the economic, political, cultural, and
educational policies it imposes on other
countries…This is very dangerous.
[4]
However one might embellish this term, at the end
of the day it describes a scenario in which there
is one center of authority , one center of force ,
one center of decision-making… It is a world in
which there is one master , one sovereign . And
this is pernicious.
The
myth about the unipolar world fell apart once and
for all in Iraq. A strong , more self-confident
Russia has become an integral part of positive
changes in the world.
The
cooperation of independent countries like Iran and
Venezuela has an effective role in defeating the
policies of imperialism and saving nations.
The SCO is destined to play a vital role in
ensuring international security.
The western approach of imposing its values and
political system on other countries is not
acceptable to China . We focus on mutual
development.
The
present day world is no longer peaceful and to
protect national security , stability and
territorial integrity we must suitably increase
spending on military modernization.
If Russia feels as though they want to take some
of these old aircraft out of mothballs and get
them flying again, that’s their decision.
|