Các hoạt động ngụy trang của
chính quyền không phải là điều
mới mẻ trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy
vậy, trong thập kỷ vừa qua, các
hoạt động loại nầy, trước đây
chỉ là một vũ khí phụ trong số
các trang thiết bị an ninh quốc
gia, nay đã trở thành phương
sách mũi nhọn trong quyền lực
Hoa Kỳ.
Phi cơ không
người lái, giám sát điện tử,
“hành quân tàng hình”
[1]với
các đơn vị như Bộ Tư Lệnh Hành
Quân Đặc Biệt Liên Ngành – JSOC,[2]
cũng như sử dụng những công ty
tư nhân, các đội quân đánh thuê,
và các nhóm khủng bố, ngày nay
đã trở thành những dụng cụ ngày
một phổ thông trong quan hệ đối
ngoại dần dà thay thế chiến
tranh quy ước và ngoại giao
truyền thống. Đã hẳn, những dụng
cụ nầy rất dễ trở thành các
phương tiện hoạt động phi pháp
hay ngoài vòng pháp luật, tạo
nhiều nguy cơ phản tác dụng đối
với Hoa Kỳ. Với những phương
tiện đó, Hoa Kỳ thường dễ biến
thái thành một cường quốc ngày
một bị xa lánh.
Quyền lực ngụy
trang ngay cả đã trở thành một
đề tài trong các cuộc vận động
tranh cử tổng thống. Newt
Gingrich chủ trương phải tăng
cường các hoạt động ngụy trang
bên trong Iran. T T Obama đã đáp
lại lời buộc tội chủ hòa và
thích thỏa hiệp của Mitt Romney
khi gợi ý với những người đối
lập nên
“hỏi thẳng bin
Laden”[3].
Obama thường
nói
“làn sóng chiến tranh đang lùi
bước,”[4]
nhưng câu đó chỉ đúng với chiến
tranh quy ước. Ở Afghanistan,
nơi chính quyền hy vọng cuộc
chiến quy ước sẽ chấm dứt vào
cuối năm 2013, Hoa kỳ đang có
nhiều kế hoạch quân sự dài hạn
với các lực lượng đặc biệt qua
các đơn vị như JSOC. Chưa rõ cấu
trúc pháp lý nào sẽ được thiết
kế làm cơ sở cho các hoạt động
ngụy trang vừa nói, ngoài một
nháy mắt hay gật đầu của T T
Hamid Karzai.
Mặc dù người
Iraq đã thành công buộc quân đội
Mỹ phải rút khỏi xứ sở của họ
vào cuối năm 2011, Hoa Thịnh Đốn
tuy vậy vẫn đang tìm cách duy
trì ảnh hưởng qua các hành động
ngụy trang. Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở
Baghdad đang hoạt động với
khoảng 16.000 nhân viên, phần
lớn là các nhà thầu dân sự.
Trong số nầy có 2.000 nhân viên
ngoại giao, và vài trăm nhân
viên tình báo.
Cũng nên nhớ
toàn bộ nhân viên ngoại giao của
Mỹ hiện vào khoảng dưới 14.000.
Chính quyền Obama đã quyết định
giảm bớt con số các nhà thầu, và
rút toàn bộ số nhân viên xuống
mức 8.000. Con số lực lượng ngụy
trang nầy không những có nhiệm
vụ đại diện quyền lợi của Hoa Kỳ
ở Iraq, mà phần lớn với nhiệm vụ
định hình quốc gia nầy và hoạt
động như Bộ Tư Lệnh miền Đông
vùng Trung Đông Nới Rộng.
Chẳng hạn,
theo báo Washington Post, các
binh sĩ ngụy trang của Hoa Kỳ sẽ
có nhiệm vụ ngăn chặn “ảnh
hưởng của Iran.” Vì lẽ các
đảng chính trị Shiite ở Iraq
đang giữ địa vị áp đảo trong
Nghị Viện và nội các, thường gần
gũi với Iran, nhiệm vụ vừa nói
có thể đòi hỏi phải can thiệp
vào chính trị nội bộ của Iraq.
Và cũng không
ai có thể đoan chắc CIA chỉ làm
nhiệm vụ tình báo hay gây ảnh
hưởng bên trong Iraq. Các cơ sở
ngụy trang của Mỹ luôn bắt cóc
những ai người Mỹ xem như nguy
hiểm và gửi họ đến các
“trung tâm
đen để tra tấn”[5],
thường qua các chính quyền địa
phương để giữ bàn tay của Mỹ
luôn trong sạch. Như lệ thường
với các hoạt động ngụy trang,
các công ty tư nhân luôn được
vận dụng để thực hiện các chương
trình di chuyển, hay
rendition programs, ngoài
khuôn khổ luật pháp quốc gia và
quốc tế , và coi thường các âu
lo nhạy cảm của các xứ đồng
minh của chính Hoa Kỳ.
Người Mỹ có
thể ứng xử như thế nào ở Iraq có
thể được ngoại suy từ cách ứng
xử của chính họ gần đây trong
các xứ đồng minh khác bên ngoài
Iraq. Tháng 11-2009, một tòa án
Ý đã tuyên án khiếm diện 23 phạm
nhân, phần lớn là các viên chức
CIA, đã bắt cóc một người họ cho
là nhân viên tín cẩn của Al
Qaeda, Abu Omar, trên đường phố
Milan và chuyển đến Ai Cập dưới
thời Hosni Mubarak để thẩm vấn.
Obama cũng đã minh thị tiếp tục
cách ứng xử nầy như một
“dụng cụ chống khủng bố”,
mặc dù đã công khai tuyên bố đã
chấm dứt các hành động tra tấn.
Iraq rất có thể phải tiếp tục
giữ vai trò một sân khấu cho các
màn trình diễn ngụy trang nói
trên.
Các chế tài
khe khắt đơn phương của chính
quyền Obama đối với Iran và các
nổ lực loại trừ xứ nầy khỏi hệ
thống ngân hàng của thế giới
cũng mang thuộc tính một quyền
lực ngụy trang. Với mục đích làm
thui chột khả năng xuất khẩu
dầu, các biện pháp vừa kể cũng
đang gây nhiều khó khăn trở ngại
cho việc nhập khẩu thực phẩm như
lúa mì của Iran. Mặc dù Hoa
Thịnh Đốn phủ nhận những hoạt
động ngụy trang ở Iran, người ta
vẫn tin chính quyền Mỹ và đồng
minh Do Thái hiện đang tiến
hành các hoạt động như thế.
Theo nhiều
nguồn tin quân sự và tình báo Mỹ
dấu tên, qua phỏng vấn của
phóng viên Seymour Hersh của
báo The New Yorker, Hoa Kỳ đã
huấn luyện các thành viên của
MEK[6],
đặt căn cứ ở Camp Ashrab,
nhằm thực hiện các công tác tình
báo ngụy trang, tương tự như
những gì Saddam Hussein đã từng
làm, mặc dù bất cứ một trợ giúp
nào cho tổ chức cũng trực tiếp
mâu thuẩn với hành động của Bộ
Ngoại Giao liệt kê MEK vào danh
sách các tổ chức khủng bố.
MEK bị nghi
ngờ đã dính líu vào hàng loạt
các vụ ám sát các khoa học gia
nguyên tử của Iran, nhưng theo
tiết lộ của giới tình báo Hoa
Kỳ, chính tổ chức Mossad của Do
Thái, không phải CIA, là tòng
phạm. Thực vậy, phân biệt các
hoạt động ngụy trang của Hoa Kỳ
khỏi những hành động của đối tác
đàn em — như đã được tiết lộ bởi
tình báo Hoa Kỳ khi than phiền
nhân viên Mossad đã nhân danh
CIA tuyển mộ các thành viên của
nhóm khủng bố Jundullah trong
vùng Baluchistan thuộc Iran,
trong các hoạt động ngụy trang
chống lại Iran — là một việc làm
khó khăn. Jundullah, một nhóm
Sunni, đã nhiều lần cài bom các
giáo đường Shiite trong khu vực
Zahedan và nhiều nơi khác trong
miền Đông Nam Iran.
Chẳng cần phải
nói, các áp lực công khai hoặc
ngụy trang của Obama đối với
Iran có thể dễ dàng, ngay cả vô
tình, khơi mào một cuộc chiến.
 
Sự tiết lộ hơn
5 triệu điện thư, lấy trộm từ hệ
thống vi tính của công ty tình
báo tư Stratfor, cho thấy công
ty nầy không chỉ làm việc phân
tích. Stratfor đã làm công việc
giám sát và hoạt động tình báo
cho các công ty bảo trợ. Chẳng
hạn, Dow Chemical đã mướn
Stratfor theo dõi và kiểm tra
hành động của nhóm người phản
kháng tai nạn thoát tán hơi độc
năm 1984 ở Bhopal, Ấn Độ, gây
trên 3.500 tử vong. WikiLeaks
quả quyết Stratfor tượng trưng
cho
cánh cửa quay vòng[7] nối
kết và trao đổi thông tin giữa
các xí nghiệp tình báo tư và các
cơ quan chính quyền Hoa Kỳ.
Việc sử dụng
ngày một nhiều các nhà thầu an
ninh dân sự, chính yếu là các
lính đánh thuê, là một điều
nhức nhối đối với người Mỹ. Hàng
chục nghìn nhà thầu, trước đây
được triển khai ở Iraq, là tối
thiết cho việc người Mỹ chiếm
đóng xứ nầy, nhưng đồng thời
cũng đã đem lại nhiều điều bất
lợi nghiêm trọng. Thiếu hiểu
biết tập tục và văn hóa của dân
bản địa, tự kiêu, thiếu phối trí
với giới quân sự Mỹ và với cảnh
sát và quân đội địa phương, đã
đem lại nhiều thất bại, như vụ
nổ súng năm 2007 ở Quảng Trường
Nisour, Baghdad, nơi các nhân
viên công ty Blackwater đã giết
chết 17 thường dân Iraq. Cuối
cùng, chính quyền Iraq đã trục
xuất Blackwater, ngay cả trước
khi trục xuất quân lực Mỹ, đã
mang các nhà thầu vào xứ sở của
họ.

Những hậu quả
bất lợi của chính sách dùng lính
đánh thuê cũng đã được phơi bày
qua vụ Raymond Davis ở Lahore,
Pakistan. Ngày 27-1-2011, Davis,
một nhà thầu CIA, dừng xe vì đèn
đỏ khi hai người Pakistan chạy
xe gắn máy cũng vừa tới dừng bên
cạnh. Davis, sau đó lập luận:
một trong hai có vũ khí nên
hoảng sợ và nổ súng giết cả hai.
Tên lái xe sống sót sau loạt
súng đầu, nhưng khi tìm cách
chạy trốn, Davis lại nổ súng hai
lần vào lưng. Thay vì thoát
thân, Davis đã dùng thì giờ lục
soát, chụp hình hai xác chết rồi
gọi Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ
“yêu cầu được
ứng cứu”[8].
Các
sĩ quan CIA ngụy trang ngồi xe
SUV đến hiện trường, hy vọng sẽ
giúp Davis khỏi lọt vào tay nhà
cầm quyền Pakistan đang hú còi
chạy tới. Trong lúc vội vã, xe
CIA lại gây tai nạn giết chết
một người đi xe gắn máy khác và
không hoàn thành sứ mạng. Davis
bị câu lưu. Điện thoại cầm tay
của Davis đã cung cấp căn cước
của lối 45 thành viên của mạng
lưới ngụy trang ở Pakistan, tất
cả đều bị câu lưu sau đó.
Tai nạn đã đưa
đến một chuổi biểu tình liên
tiếp và gây phẩn uất trong quần
chúng. Davis bị nhốt và truy tố
về tội giết hai thường dân
Pakistan, nhưng vẫn được trả tự
do chỉ mấy tháng sau đó, khi một
vương quốc dầu lửa trong vùng
Vịnh Ba Tư được biết đã thay Hoa
Kỳ trả vài triệu cho gia đình
các nạn nhân (theo luật Hồi
Giáo, gia đình các nạn nhân có
thể tha thứ cho tên sát nhân
khi đã được trả một số tiền
thỏa đáng). Đã hẳn, đó là một
thất bại giao tế nhân sự đối với
Hoa Thịnh Đốn; nhưng sự kiện gây
căm phẩn là một công chức Hoa Kỳ
đã bắn chết hai người Pakistan
một cách vô tội vạ, và một trong
hai nạn nhận còn bị bắn sau
lưng.
Các cuộc tấn
công của phi cơ
không người lái hay “drone”,
vào các cá nhân hay các nhóm
trong vòng đai các bộ lạc ở miền
Tây Bắc Pakistan, cũng như ở
Yemen, cũng là những trường hợp
điển hình trong các cuộc chiến
ngụy trang toàn cầu của Hoa
Thịnh Đốn. Hoa Kỳ hiện sở hữu
7.000 phi cơ không người lái,
triển khai trong sáu quốc gia.
Cả CIA lẫn quân lực Mỹ đều sử
dụng drone.
Thay vì chỉ là
vũ khí phụ trong cuộc chiến quy
ước, các cuộc tấn công của phi
cơ không người lái thường diễn
ra ngay trong các xứ không có
chiến tranh và không có cả
Thỏa
Ước về Quy Chế Quân Lực[9].
Các drone đang hoạt
động ngoài khuôn khổ hiến pháp,
coi thường quá trình tư pháp
luật định hay habeas corpus,
làm mọi người nhớ lại các tập
tục tiền-hiện-đại của đế chế
Anh, như đơn thuần tuyên bố đặt
các dân tộc ra ngoài vòng luật
pháp, ra lệnh tước quyền các cá
nhân xâm phạm đến hoàng gia, và
xét xử trong các phòng bí mật
Star Chamber…
Mặc dù T T
Obama đã có lời cải chính, Văn
Phòng Báo Chí chuyên về Điều Tra
– BIJ, có trụ sở ở Anh – đã khám
phá không những nhiều thường dân
đã bị sát hại trong các cuộc tấn
công bởi drone ở Bắc
Pakistan, mà ngay cả các người
đến hiện trường giúp các người
bị thương cũng bị bắn chết ngay
tại chỗ. BIJ ước lượng Hoa Kỳ đã
sát hại khoảng 3.000 nạn nhân
trong 319 vụ tấn công bởi phi cơ
không người lái, 600 trong số đó
là những người bàng quan và 174
là trẻ con. Khoảng 84% các cuộc
tấn công như thế đã xẩy ra sau
khi Obama đã nhận chức tổng
thống.
Hơn nữa, các
cuộc hành quân bằng phi cơ không
người lái luôn mang tính tối
mật. Khi được hỏi về các cuộc
tấn công của loại phi cơ nầy,
Hillary Clinton từ chối xác nhận
hay cải chính. Các cuộc hành
quân của phi cơ không người lái
cũng không thể đem ra thảo luận
công khai giữa Quốc Hội hay
tường trình với chi tiết bởi các
cơ quan truyền thông Hoa Kỳ. Vì
vậy, hoạt động của loại phi cơ
nầy không thể là đề tài trong
các cuộc thảo luận chính trị
trong nước, ngoại trừ một cách
trừu tượng. Các ủy ban tình báo
Quốc Hội có được tường trình,
nhưng nguyên tắc phân quyền đã
không thể được áp dụng trong địa
hạt bí mật và mập mờ như thế. Và
các lãnh đạo các ủy ban đã phàn
nàn thông tin cung cấp cho họ
thiếu thích đáng. Quốc hội cũng
không thể được triệu tập để nghe
tường trình, vì các cuộc tấn
công của drone không bao giờ
được công khai xác nhận. Các
cuộc hành quân mật là địa hạt
của thượng đế, luôn đứng trên
luật pháp.
Các công điện
của Bộ Ngoại Giao, do WikiLeaks
công bố, tiết lộ Thủ Tướng
Pakistan Yousaf Raza Gilani và
nguyên Tổng Thống Ali Abdullah
Saleh đã bí mật cho phép các
cuộc tấn công bằng phi cơ không
người lái, cam kết sẽ gánh chịu
mọi phê bình hoặc căm hận của
quần chúng. Tuy nhiên, đàm đạo
với một lãnh tụ, sau đó luôn
công khai phủ nhận, không thể là
một hiệp ước. Chủ thuyết pháp lý
quốc tế duy nhất được Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc công nhận
được sử dụng để biện minh các
cuộc tấn công của drone
là quyền tự vệ của Hoa Kỳ
trước nguy cơ bị tấn công.
Nhưng làm sao chứng minh được
bất cứ nạn nhân nào trong các vụ
tấn công của drone đều
đã tấn công hay ở trong vị thế
tấn công Hoa Kỳ. Tất cả các biện
minh pháp lý khác đều không đứng
vững.
Chủ thuyết
“truy
kích nóng”[10]
không áp dụng được ở Yemen hay
Somalia, và cũng thường không áp
dụng được ngay cả ở Pakistan.
Quá trình pháp lý duy nhất để
biện minh các vụ sát hại từ
không trung là một thẩm định
tình báo, có thể căn cứ trên
những nguồn tin không đáng tin
cậy và không hề được thẩm phán
đủ thẩm quyền chung thẩm. Những
nạn-nhân-mục-tiêu thường được
gán cho nhãn hiệu trực thuộc Al
Qaeda, Taliban hay vài nhóm
tương tự, và vì vậy, đều được
đặt dưới quy chế
“Cho Phép Sử Dụng Quân Lực của
Quốc Hội ngày 14-9-2001 –
AUMF”,[11]
bởi tổng thống, đối với những ai
đứng sau biến cố 11/9 và những
người chứa chấp bảo trợ. AUMF có
lẽ có thể được áp dụng chính
đáng cho trường hợp Ayman
al-Zawahiri thuộc Al Qaeda, luôn
âm mưu chống đối Hoa Kỳ. Nhưng
một thế hệ các chiến binh Hồi
Giáo mới còn quá trẻ để có thể
dính líu trong biến cố 11/9 và
có thể có ý nghĩ khác về chiến
lược tai họa nầy.
Vả chăng, Al
Qaeda là một “từ mập mờ”
đã được Hoa Thịnh Đốn gán cho
các nhóm chính trị cực đoan địa
phương – như Partisans of
Sharia, các chiến binh Yemen đã
chiếm thị xã Zinjiba, hay các
ủng hộ viên Á Rập hải ngoại ở
Pakistan trong mạng lưới Haqqani
của các chiến binh Pashtun,
nguyên đồng minh của Hoa Kỳ
trong cuộc chiến chống Xô Viết ở
Afghanistan trước đây.
Liệu AUMF sẽ
được khai triển trong thế giới
Hồi Giáo bao lâu để biện minh
các chiến thuật cowboy
từ không trung? Không hề có sự
nhất trí cũng như tinh thần tôn
trọng luật pháp . Tội phạm do
liên hệ và thiếu vắng quá trình
pháp lý luật định luôn là dấu ấn
của chính quyền ngụy trang.
Tháng 9-2011,
chính quyền Obama đã dùng
drone ám sát một công dân
Hoa Kỳ ở Yemen, A
các Ủy Hội Quân Sự sau đó chỉ
cho phép các tòa án đó xét xử
người nước ngoài – cho nên khó
lòng xem bằng cách nào quyền
được xét xử của Awlaki có thể
đơn thuần bị hủy bỏ[12].
Hai
tuần lễ sau khi bị giết, con
trai 16 tuổi của y, cũng là công
dân Hoa Kỳ, và cũng không thể là
một đe dọa đối với một siêu
cường, cũng đã bị drone
sát hại.
Ngược lại, Hoa
Kỳ và đồng minh đã lạc quan tin
tưởng về một gương mặt như
Abdel Hakim Belhadj, hiện
nay giữ trách nhiệm an ninh ở
Tripoli, người đã từng tham
chiến ở Afghanistan chống lại
Liên Bang Xô Viết và về sau bị
giam giữ ở
“các địa điểm đen
Hoa Kỳ.”[13]
Sau ngày được phóng thích,
Belhadj đã tái xuất hiện trong
vai trò lãnh đạo các nhóm nổi
dậy ở Libya trong năm 2011.
Trường hợp suy diễn gián tiếp
đối với y có thể dễ dàng cho
phép drone sát hại,
ngay cả theo luật lệ hiện hành,
nhưng hắn ta lại được phục hồi
nhờ vai trò thù nghịch đối với
Muammar el-Qaddafi.
Trong số những
nguy cơ lớn nhất đối với các
công dân Hoa Kỳ từ quyền lực
ngụy trang của Hoa Thịnh Đốn là
“phản tác dụng,” một từ
ám chỉ một cuộc hành quân ngụy
trang đã gây tác động trái ngược
đối với chính kẻ khởi động.
Có thể nói
chính quyền Reagan đã đánh dấu
một điểm ngoặt trong lịch sử say
đắm với quyền lực ngụy trang của
Mỹ. Reagan đã mạnh tay gây áp
lực với quốc vương Fahd, Saudi
Arabia, buộc cung cấp tài chánh
giúp phong trào Contras hữu phái
ở Nicaragua. Chính Reagan cũng
đã huy động các tài nguyên riêng
giúp Contras qua việc bán khí
giới bất hợp pháp cho Iran có
tên trên danh sách các quốc gia
khủng bố cần được phân biệt đối
xử. Hoa Thịnh Đốn cũng đã chung
sức giúp hàng tỉ mỹ kim khí giới
và viện trợ cho phong trào thánh
chiến cực đoan ở Afghanistan
(Reagan đã từng gọi là
“freedom fighters” hay các
chiến sĩ tranh đấu cho tự do,
tương tự như các nhà lập quốc
của Hoa Kỳ), nơi các quân tình
nguyện Á Rập cuối cùng cũng đã
đổi lốt trở thành Al Qaeda. Về
sau các thành viên trong phong
trào đã sử dụng những kỷ năng
học được từ các đồng nghiệp
Afghanistan do CIA đào tạo trong
các cuộc chiến ở Trung Đông
chống lại các đồng minh của Mỹ,
và trong biến cố 11/9. Hai nhóm
đồng minh nhận được nhiều viện
trợ từ chính quyền Reagan đã trở
thành những kẻ thù nguy hiểm
nhất của Mỹ ở Afghanistan sau
năm 2002: Mạng lưới Haqqani
và Hizb-i-Islami. Tóm lại,
phản tác dụng luôn đi kèm với
các hoạt động ngụy trang.
Việc sử dụng
lính đánh giặc thuê và các đơn
vị đặc biệt của chính quyền Hoa
Kỳ đang xói mòn kỷ luật, tính
hợp pháp, và dây chuyền chỉ huy
kiên định. Các đội quân chính
quy có thể khai triển và rồi
giãi ngũ, nhưng những mạng lưới
tương tự Al Qaeda, một khi được
thiết lập, thường khó lòng giải
thể, và thường biến thái trở
thành thù nghịch chống lại đồng
minh trước đây. Tình báo đen và
các vận dụng quân sự không được
người dân giám sát rất dễ thoát
ra ngoài vòng luật pháp.
Chính quyền
ngụy trang của Reagan là một tai
họa, nhưng vẫn không là gì đáng
kể so với quyền lực ngụy trang
của Obama. Người Mỹ sẽ phải
chuẩn bị đối phó với các phản
tác dụng trong tương lai nếu
tình hình cứ tiếp tục diễn tiến
như hiện nay – chưa nói gì đến
đã xói mòn các quyền tự do dân
sự bên trong Hoa Kỳ.
Giám sát điện
tử không được tòa án cho phép
trước và quân sự hóa lực lượng
cảnh sát là hai trường hợp rõ
ràng trước mắt. Hơn nữa, những
phương thức hành động liên kết
với chính quyền ngụy trang sẽ
làm dân Mỹ thêm âu lo và mất tin
tưởng vào Hoa Thịnh Đốn, và giảm
thiểu sự hợp tác quốc tế Hoa Kỳ
cũng như tất cả các quốc gia
khác đều cần đến.
Nói một cách
khác, chính quyền ngụy trang đội
lốt một phương cách để duy trì
một Hoa Kỳ hùng mạnh, nếu không
được kiềm hãm, rất dễ làm suy
yếu các hoạt động ngoại giao
truyền thống của Hoa Kỳ.
Nguyễn Trường
Irvine,
California, USA
28-4-2012
[1]
…stealth engagements …
[2]
…Joint Special
Operations Command –
JSOC….
[4]
…tide of war receding…
[5]
…black sites for
torture…
[6]
…MEK: Mojahedin-e Khalq
or People’s Jihadis…
[8]
…calling for an
extraction team…
[9]
…Status of Forces
Agreement – SFA…
[11]
…under the mandate of
the September 14, 2001,
Congressional
Authorization for the
Use of Military Force —
AUMF.
[12]
…But since the Supreme
Court had already ruled,
in Hamdan v. Rumsfeld,
that the AUMF could not
authorize military
tribunals for Guantanamo
detainees that
sidestepped civil due
process – and since the
subsequent Military
Commissions Act of 2006
allows such tribunals
only for aliens – it is
hard to see how Awlaki’s
right to a trial could
be summarily abrogated.
[13]
…was later held in US
black sites.
|