Những bài cùng tác giả
Thịnh vượng tùy thuộc ở Trung Quốc (TQ), an ninh tùy
thuộc ở Hoa Kỳ. Thế giới, nhất là Á châu, sẽ phản
ứng như thế nào trong thế kỷ 21? Đã hẳn, trong suốt
thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới, TQ và Hoa Kỳ là
hai đại cường luôn cạnh tranh, nhưng không nhất
thiết phải đối nghịch.
Vào khoảng cuối năm 2003 và đầu năm 2004, cấp lãnh
đạo TQ đã dành thì giờ nghiên cứu lịch sử các đại
cường. Thử tưởng tượng họ đã ôn lại lịch sử chiến
tranh và tàn phá để tìm hiểu quá trình tranh giành
bá quyền giữa các đại cường kể từ thế kỷ 15. Và thử
tưởng tượng họ đang chuyển qua thực tế đang đối
diện: TQ sẽ lên nắm giữ vị trí một siêu cường mà
không một ai cần dùng tới vũ khí.
Bằng nhiều cách, TQ đã cố gắng trấn an một thế giới
đang khắc khoải âu lo, cũng như đã nhiều lần hứa hẹn
chỉ mong phát triển trong một thế giới hòa bình. TQ
đã tung ra nhiều tiền của để cấp viện và đầu tư,
giải quyết các tranh chấp biên giới với các xứ láng
giềng, và đã tiếp tay với các lực lượng gìn giữ hòa
bình và các tổ chức quốc tế. Ngày 23-11-2010, khi
Bắc Hàn pháo kích đảo Yeonpyeong thuộc Nam
Hàn, gây tử vong cho hai thủy quân lục chiến và hai
thường dân, TQ ít ra cũng đã cố gắng tạo một khung
cảnh khả dĩ kiềm chế đồng minh Bắc Hàn.
Tuy nhiên, TQ hiếu hòa đôi khi cũng nhường chỗ cho
một TQ hiếu chiến. Trong tháng 3-2010, khi Bắc hàn
đánh đắm tàu chiến Cheonan của Nam Hàn, gây
tử thương cho 46 thủy thủ, TQ đã không hề lên án.
Vài tháng sau, TQ lại xung đột với Nhật về vụ một số
ngư phủ TQ bị bắt vì xô xát với các tàu tuần tiểu
Nhật gần những hải đảo đang tranh chấp. TQ đã bắt
giữ một số thương gia Nhật và ngưng xuất khẩu quặng
đất quí hiếm thiết yếu cho kỹ nghệ Nhật. Và TQ cũng
đã tái khẳng định mạnh mẽ quyền sở hữu các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa cũng như chủ quyền đối với
toàn bộ Nam Hải.
Theo các lãnh đạo TQ, bài học lịch sử cho thấy quan
hệ quyết định hòa bình hay chiến tranh trên thế giới
thường liên hệ đến hai đại cường. Đôi khi, như giữa
Anh quốc và Hoa Kỳ, quan hệ khá thuận thảo; đôi khi,
như giữa Anh quốc và Đức, quan hệ thường đầy bất
trắc.
Cho đến nay, mọi việc đều tạm ổn giữa Hoa Kỳ và TQ.
Trong khi TQ chú tâm vào tăng trưởng kinh tế, Hoa Kỳ
lại bị cuốn hút vào cuộc chiến chống khủng bố, nhất
là vào hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan.
Tuy nhiên, hai quốc gia vẫn nghi ngờ lẫn nhau. TQ
nhìn Hoa Kỳ như siêu cường trên đà xuống dốc và
đang tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của chính mình.
Và Hoa Kỳ lo ngại không hiểu chủ nghĩa dân tộc ở TQ,
với sức mạnh quân sự và kinh tế mới được khám phá,
sẽ biểu hiện ra sao.
GÓC NHÌN BI QUAN
Theo các nhà bình luận bi quan, TQ và Hoa Kỳ nhất
thiết sẽ là hai quốc gia cạnh tranh. Viễn kiến
"xã hội tốt" của hai xứ rất khác nhau. Khi quyền
lực gia tăng, TQ sẽ quyết tâm theo đuổi đường lối và
cách ứng xử riêng trên thế giới. Ngược lại, Hoa Kỳ
sẽ không dễ dàng từ bỏ vị trí bá quyền của mình.
Rất có thể phe nầy đã nhận định đúng về tham vọng
của TQ. Tuy nhiên, TQ không nhất thiết phải là thù
nghịch. Khác với Liên Bang Xô Viết trước đây, TQ
không còn tìm cách xuất khẩu ý thức hệ của mình.
Không như các cường quốc Âu châu trong thế kỷ 19, TQ
cũng chẳng tìm kiếm thuộc địa.
Trong thực tế, TQ và Hoa Kỳ vẫn có nhiều điểm tương
đồng. Cả hai đều hưởng lợi từ toàn cầu hóa và từ
các thị trường tự do để mua nguyên liệu và tiêu thụ
các sản phẩm xuất khẩu. Cả hai đều muốn một thế giới
ổn định - không phổ biến vũ khí nguyên tử, và các
"quốc gia bất trị", như Bắc Hàn và Iran,
không có đất dụng võ. Cả hai đều có thể mất mát rất
nhiều nếu xẩy ra chiến tranh.
Cách hay nhất để biến TQ thành một quốc gia đối
nghịch là đối xử với TQ như một xứ đối nghịch. Điều
nguy hiểm là những tranh chấp và xung đột sẽ làm vẩn
đục quan hệ giữa TQ và Hoa Kỳ, tương tự như quan hệ
giữa Đức và Anh quốc đã sụp đổ trong các thập kỷ
trước Đệ Nhất Thế Chiến.
Điều nầy đang xẩy ra trong chính sách quốc phòng.
Cảm thấy bị đe dọa bởi hải quân Hoa Kỳ, TQ đã canh
tân các loại tên lửa, tàu ngầm , ra-đa, chiến tranh
vi tính, và các vũ khí chống vệ tinh.
Hiện nay, Hoa Kỳ đang vững tin. Tái thẩm định tiềm
lực quân sự của TQ gần đây, người Mỹ cảm nhận có thể
TQ đang là một đe dọa đối với Đài Loan, các căn cứ
quân sự và hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ gần hải phận
TQ. Chính vì vậy, hải quân Mỹ đã bắt đầu tăng cường
lực lượng trong vùng Thái Bình Dương.
Luôn mang mặc cảm bị đe dọa, TQ có thể sẽ có phản
ứng. Ngay cả khi cả Mỹ lẫn TQ đều không có ẩn ý gây
hấn - nếu chỉ muốn bảo đảm an ninh của riêng mình,
mỗi bên, tuy vậy, vẫn có thể xem đối phương như một
đe dọa lúc một gia tăng.
Theo một số nhà phân tích, giải pháp là Hoa Kỳ nên
tránh cạnh tranh quân sự. Tuy nhiên, một Hoa Kỳ tỏ
ra suy yếu sẽ luôn đưa đến một Đông Á triền miên bất
ổn; hệ thống mậu dịch hòa bình thiết yếu cho sự phồn
thịnh của Hoa Kỳ có thể bị đe dọa và xáo trộn. Vì
vậy, Hoa Kỳ cũng cần phải đủ hùng mạnh để duy trì an
ninh hàng hải và bảo vệ Đài Loan trước sự khả dĩ tấn
công của TQ.
CỘNG SINH VÀ KÌNH ĐỊCH
Lịch sử cho thấy các siêu cường có thể cộng sinh hòa
bình khi siêu cường đang lên tin tưởng có thể trỗi
dậy mà không bị ngăn chặn, và siêu cường đang ngự
trị tin trật tự thế giới hiện hữu sẽ không bị đe
dọa, ít ra trong căn bản. Vì vậy, tăng cường quân sự
cần đi đôi với xây dựng lòng tin .
Có nhiều phương cách xây dựng lòng tin ở Á châu.
Ngăn ngừa không để tranh chấp và hiểu lầm vượt khỏi
khả năng kiềm chế là một phương cách. Do đó, TQ cần
cởi mở và minh bạch hơn, nhất là trong chủ thuyết
quân sự - tư thế nguyên tử, hàng không mẫu hạm, và
chương trình tên lửa. Trong cùng chiều hướng, cả Hoa
Kỳ lẫn TQ cần thiết kế những quy luật chung chi phối
cách giải quyết những tranh chấp liên quan Bắc Hàn,
Đài Loan, thượng tầng không gian, chiến tranh vi
tính. Và Á châu nói chung cần những thỏa ước ngăn
ngừa các va chạm hàng hải rất dễ đưa đến những xung
đột quân sự.
Hoa Kỳ và TQ cần cố gắng thành đạt những thỏa ước
đa phương. Thay vì tình trạng hổn độn hiện nay với
nhiều diễn đàn cạnh tranh, Á châu nên có một diễn
đàn an ninh chung, chẳng hạn, Hội Nghị Thượng Đỉnh
Đông Á, nơi gặp gở để giải quyết những vấn đề cấp
khu vực. Các xứ Á châu cũng có thể hợp tác vun đắp
lòng tin về an ninh phi truyền thống, như y tế, bảo
vệ môi trường, chống cướp biển, và chống khủng bố,
mỗi khi bản chất mối đe dọa mang tính xuyên biên
giới nhiều lân bang.
Nếu Hoa Kỳ muốn ràng buộc TQ vào một trật tự cơ sở
trên quy luật, Hoa Kỳ tự mình cũng phải tuân thủ
cùng những quy luật do chính mình áp đặt. Mỗi lần
Hoa Kỳ vi phạm quy luật - chẳng hạn bảo vệ mậu dịch
- Hoa kỳ cũng làm gia tăng sự nghi ngờ của TQ,
phương hại đến chính nền trật tự Hoa Kỳ đang tìm
kiếm.
TQ và Hoa Kỳ có một điều thuận lợi trong lịch sử
những cặp đại cường: họ đã chứng kiến những gì sai
trái trong thế kỷ 20. Nay họ có nhiệm vụ phải bảo
đảm một thế kỷ 21 đổi khác, hài hòa hơn.
QUÁ TRÌNH TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ PHẢN ỨNG
Vào một ngày đẹp trời năm ngoái, trong phòng hội Đại
Học Bắc Kinh, một trong những nhà giáo Hoa Kỳ đã hỏi
Wang Jisi, hiệu trưởng Trường Nghiên Cứu Quốc Tế:
"Ai là kẻ thù của quí vị?" Sau một phút yên
lặng, Wang ngập ngừng trả lời:
"Phần đông người
TQ có lẽ sẽ nói Hoa Kỳ là kẻ thù".
Trong thực tế, Hoa Kỳ và TQ đã là hai đối tác khá ăn
ý kể từ ngày T T Richard Nixon và cố vấn an ninh
Henry Kissinger viếng thăm Bắc Kinh năm 1972. Thoạt
đầu, quan hệ đối tác được cơ sở trên lập trường
chung - "đối nghịch với Liên Bang Xô Viết",
một lập trường TQ và Hoa Kỳ cùng chia sẻ sau vụ xung
đột biên giới Trung-Xô năm 1969. Dưới sự lãnh đạo
của Mao, TQ thường uy hiếp các lân bang, nhưng lúc
đó ưu tiên trong chính sách đối ngoại đã thay đổi vì
hợp tác với Hoa Kỳ giờ đây quan trọng hơn. Dưới thời
Đặng Tiểu Bình, TQ thậm chí còn dè dặt chấp nhận
ngay cả sự kiện Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí cho Đài
Loan.
Sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, TQ vẫn tiếp tục
xem chính sách đối ngoại là thứ yếu và dành ưu tiên
cho phát triển kinh tế. Ưu tiên mới đòi hỏi cộng tác
với Hoa Kỳ, với mục đích tìm kiếm thị trường cho
hàng xuất khẩu, đầu tư, và chuyển giao công nghệ. Họ
Đặng đã tóm tắt chính sách mới trong khẩu hiệu nổi
tiếng: "bình tỉnh quan sát, ứng xử hài hòa, giữ
vững lập trường, che giấu khả năng, chờ thời, thực
hiện những gì có thể".
Khi thế giới bắt đầu âu lo trước sức mạnh đang lên
của TQ, một viên chức cao cấp đã tìm cách trấn an ,
cam kết trỗi dậy trong hòa bình, heping jueqi.
Và ngày nay, chủ tịch Hồ Cẩm Đào ưa sử dụng cụm từ
thế giới hài hòa - harmonious world, để gửi
đi cùng tín hiệu.
Qua thời gian, các lãnh tụ TQ đã
nỗ lực lèo lái quan
hệ với Hoa Kỳ vượt qua nhiều sóng gió không thể
tránh. Nói chung, họ đã khá thành công.
Ngày nay, cách ứng xử của TQ - gần đây nhất đối với
Nhật, Nam Hàn, và vùng Biển Nam Hải - đã bắt đầu
khiến các nhà quan sát phải âu lo. Người ta tự hỏi
tại sao cấp lãnh đạo TQ bất thần lại liều lĩnh thay
đổi một chính sách đã giúp đem lại trù phú, thịnh
vượng?
Có thể có hai nguyên nhân. Thứ nhất, chiến lược của
TQ đã bắt đầu thay đổi.Vài người TQ lập luận, ngày
nay TQ đã hùng mạnh và có đủ thế lực, TQ không còn
phải khúm núm trước Hoa Kỳ. Lý do thứ hai, xã hội TQ
đã bắt đầu thay đổi. Theo Richard Rigby, Đại Học
Quốc Gia Úc ở Canberra, trong một nhà nước độc đảng,
độc tài, cấp lãnh đạo cũng cần lắng nghe những ước
vọng và âu lo của người dân.
THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC - LÀM NHỮNG GÌ CÓ THỂ
Hãy bắt đầu với chiến lược thay đổi của TQ.
Lãnh đạo TQ rất nhạy bén và ý thức đầy đủ uy lực TQ
ngày một gia tăng và đà tuột dốc khó đảo ngược của
Hoa Kỳ, một ý thức ngày một rõ nét hơn với cuộc
khủng hoảng tài chánh phơi bày những nhược điểm của
Hoa Kỳ và Âu châu. Họ cũng hiểu rõ TQ cường thịnh
hơn nhiều người đã chờ đợi. Một nhà ngoại giao ở Bắc
Kinh nói: "Người TQ hiện đã nhận thức Tây phương
đang cần TQ nhiều hơn là TQ cần Tây phương".
Hai cuộc chiến khó khăn của Hoa Kỳ hiện nay càng làm
tăng thêm ấn tượng nầy. Theo Raffaello Pantucci, một
học giả ngoại quốc đang làm việc tại Hàn Lâm Viện
Khoa Học Xã Hội Thượng Hải, các nhà phân tích TQ rất
hoan hỹ kết luận: lực lượng NATO sẽ bị đánh bại ở
Afghanistan.
Một
học giả TQ
đã nói với
David Lampton,
Trường
Nghiên Cứu Quốc Tế Cao cấp ở Hoa Thịnh Đốn:
"Chúng tôi thường
che giấu uy lực
của
mình - phủ nhận uy lực của mình.Tuy
nhiên, lần
hồi điều nầy
lúc một
trở nên không thể
duy trì,
khi sức
mạnh của chúng tôi gia tăng".
Trong một
thời
gian khá dài sau đó, TQ còn nỗ
lực hơn để trấn an Hoa Kỳ và các lân bang trong khu
vực.
Nhưng
ngày nay, theo Yuan Peng, đang công tác tại Viện
Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại của TQ
ở Bắc Kinh,
"nhiều
học giả TQ gợi ý chính quyền
nên từ
bỏ ảo tưởng một đối tác với Hoa Kỳ và trực diện
với thực tế cạnh tranh chiến lược gay gắt không thể
tránh".
Ước muốn tự khẳng định chỉ là một cảm nhận tự nhiên.
Robert Kagan, một nhà bình luận chính sách ngoại
giao Hoa Kỳ, đã viết:
"Uy lực khiến các quốc gia
thay đổi. Chính uy lực làm gia tăng nhu cầu và ước
muốn, gia tăng ý thức quyền lợi, nhu cầu phải được
phục tùng cung kính. Quyền lực cũng đem lại nhiều
tham vọng hơn, giảm thiểu bao dung đối với các trở
lực, khó nhận 'không' như một câu trả lời".
TQ đã kiềm hảm những cám dỗ vừa nói khá thành công.
Tuy nhiên, với thời gian, TQ lúc một có thêm nhiều
lý do để phô trương quyền lực. Các công ty TQ lùng
sục thu góp các nguyên liệu, vật tư cần thiết trên
toàn cầu. TQ đang là khách hàng lớn nhất của Saudi
Arabia. TQ nhập khẩu khoảng phân nửa số dầu tiêu
thụ, khảng 2/3 vào năm 2015 và 4/5 vào năm 2030. Cố
nhiên, TQ rất quan tâm những gì đang xẩy ra trong
các xứ cung cấp năng lượng.
Theo trợ lý ngoại giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, điều
oái oăm là chiến lược thu tóm tài nguyên thiên nhiên
của TQ, cho đến nay, hoàn toàn lệ thuộc hệ thống
trật tự do Hoa Kỳ thiết kế - bảo đảm ổn định và tự
do lưu thông hàng hải. Nhưng đây cũng là lý do tại
sao TQ hiện đang vun đắp lực lượng hải quân để bảo
vệ các hàng hóa và nguyên liệu khỏi những biện pháp
cấm vận khả dĩ trong tương lai.
Điều nầy phản ảnh hiện trạng thiếu tin tưởng ở hệ
thống mậu dịch toàn cầu, một phần do mối e ngại Tây
phương, trong căn bản, đang có thái độ thù nghịch
đối với một TQ thịnh vượng trù phú, đúng như khẩu
hiệu: "Tây phương hóa, chia rẻ và làm suy yếu".
Jonathan Paris, chuyên gia an ninh có trụ sở ở
Luân Đôn, cho biết giới trẻ TQ đã vỡ mộng khi thấy
Tây phương lăng mạ TQ. Theo vài nhóm có thế lực,
những lời kêu gọi từ các nước ngoài - TQ nên giữ vai
trò một tay chơi trách nhiệm (responsible
stakeholder), trong thực tế, chỉ nhằm kiềm hãm
TQ, và TQ chỉ nên hợp tác nếu Tây phương chịu nhượng
bộ trong các vấn đề Đài Loan và Tây Tạng.
Vấn đề là liệu các cấp lãnh đạo TQ có đồng ý: nay
chính là thời điểm phải khẳng định quyền lực của
mình. Đỉnh cao chính trị TQ trên thế giới hiện
đã đến cận kề, đến độ các nhà phân tích không thể
dám chắc. Năm 2009, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố
TQ có thể tích cực đóng góp phần khiêm tốn của mình
vào các vấn đề thế giới. Trong dịp nghỉ hè hàng năm
ở khu nghỉ dưỡng Beidaihe, lãnh đạo TQ được biết đã
thảo luận: liệu TQ có nên dần dà lánh xa khẩu hiệu
"chờ thời và ẩn dấu" của cố lãnh tụ Đặng Tiểu
Bình. Một vài nhật báo uy tín của đảng cầm quyền, đủ
để phản ảnh tư duy của các nhà lãnh đạo, đã kết luận:
"chưa đến lúc". Tuy nhiên, đối với giới ngoại
giao, ngay cả lập trường vừa nói cũng đã đánh dấu
một chuyển dịch.Trong thập kỷ 1990, luận cứ là liệu
trong trường kỳ, lúc nào TQ mới có thể tương tác
được với Mỹ. Giờ đây, vấn đề chỉ còn là lúc nào TQ
mới nên gây sức ép.
Dù tư duy của cấp lãnh đạo ra sao chăng nữa, họ cũng
đang sinh hoạt trong một xã hội đổi thay nhanh
chóng. Trong chính sách ngoại giao ngày nay, họ đang
bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các tập đoàn đặc quyền,
kể cả các công ty tài nguyên, các định chế tài
chánh, các nhà cầm quyền địa phương, các tổ chức
nghiên cứu, báo chí, các nhà hoạt động trên mạng.
Linda Jakobson và Dean Knox, Viện Nghiên Cứu Hòa
Bình Thế Giới Stockholm - SIPRI,
cho biết, nhiều người trong các nhóm vừa kể cảm
nhận mạnh mẽ TQ không nên quá o bế thế giới bên
ngoài.
Sự quả quyết của các nhóm nầy một phần đã phản ảnh
tinh thần ái quốc và tự ái dân tộc đang được chính
quyền khuyến khích, nhằm tăng cường tính chính đáng
sau vụ đàn áp những người xuống đường trong biến cố
Thiên An Môn năm 1989. Trước hết là các buổi lễ chào
quốc kỳ hàng tuần với những bài diễn văn nẩy lửa ở
các trường học. Tiếp đến, các viện bảo tàng và di
tích lịch sử đã được chỉ định như những cơ sở giáo
dục cơ sở trên chủ thuyết ái quốc. Năm 1991, Giang
Trạch Dân, đang giữ chức vụ Tổng Bí Thư, đã viết:
chính sách giáo dục ái quốc
"thúc đẩy nhân dân
TQ, đặc biệt là giới trẻ, phát huy lòng tự hào, và
tự tin về xứ sở, và ngăn ngừa trào lưu tôn thờ Tây
phương".
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC BÙNG PHÁT
Thế hệ đầu tiên trải nghiệm sự bùng phát của chủ
nghĩa dân tộc nay cũng đã gần lứa tuổi 30, và tinh
thần dân tộc của họ có nhiều dấu hiệu thuần khiết và
phổ biến. Lord Patten, người đảm nhiệm đàm phán trao
trả Hồng Kông cho TQ, đã cho biết,
"đối với vấn
đề Tây Tạng và Đài Loan, không những các thành viên
chính phủ TQ tỏ ra căm giận mà ngay cả các nhân vật
bất đồng chính kiến cũng vậy".
Theo Hugh White, một cựu viên chức an ninh và quốc
phòng Úc, "đây là một dân tộc với một ý thức về
một quá khứ vĩ đại, một thời tủi nhục gần đây, những
thành tựu hiện tại và địa vị bá quyền trong tương
lai. Đó là một hổn hợp hùng mạnh".
Các cơ quan truyền thông TQ mang nhiều sắc thái
thương mãi cũng đã nhận thức: chủ nghĩa dân tộc
rất ăn khách. Theo Susan Shirk, một học giả và
nguyên Phó Trợ Lý Ngoại Giao Mỹ, độc giả thường rất
thích những câu chuyện ta thán Nhật, Đài Loan, và Mỹ
- và các viên chức kiểm duyệt thường hài lòng với
những phóng sự loại nầy. SIPRI cũng nhận thấy nhiều
tác giả có uy tín và ảnh hưởng trong đia hạt chính
sách đối ngoại thường gặp trên báo Global Times,
đều theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn.
Giới hoạt động trên mạng, những netizens, có
khuynh hướng tung tin TQ đang bị hiểu lầm, và nhìn
đâu cũng cảm thấy bị châm biếm và khinh thường. Năm
2008, trong thời gian có va chạm giữa Việt Nam và TQ
về Biển Đông, một trang mạng đã gợi ý nên cho VN một
bài học khác, đính kèm một kế hoạch xâm lăng để hổ
trợ. Điều nầy đã giúp tăng cường ý thức TQ là nạn
nhân. Một blogger và nhà báo, Fang Kechang, đã đưa
ra con tính, từ 1948, dân TQ chính thức đã bị nhục
mạ ít ra 140 lần - và sự nhục mạ trong kỷ nguyên cải
cách còn nhiều hơn cả dưới thời Mao.
Ở TQ, công luận không phải là nguồn áp lực duy nhất
đối với cấp lãnh đạo. Những phe phái bên trong giới
thượng lưu quyền lực - elite selectorate -
cũng có tiếng nói nặng ký. Những phe phái nầy cũng
hăng say thúc đẩy chính sách cơ sở trên chủ nghĩa
dân tộc. Đối ngoại, thuộc thẩm quyền bộ ngoại giao,
thường theo chủ trương ôn hòa. Bộ nầy thường bị nhạo
báng như một bộ nhu nhược, bán đứng xứ sở, và cần
được quần chúng gửi tặng calcium để
"tăng cường
xương sống"(to stiffen its spine).
Hiện nay vấn đề càng trở nên phức tạp. Các định chế
đối nội và các viên chức trung cấp cũng gia nhập ,
và còn có khuynh hướng dân tộc mạnh hơn cả các viên
chức ngoại giao cao cấp. Các nhà nghiên cứu thuộc
SIPRI nhận thấy, bộ an ninh quốc nội còn đặc biệt
giữ một vai trò lớn hơn trong chính sách đối ngoại.
Tại hội nghị thượng đỉnh về thay đổi khí hậu ở
Copenhagen, quyền hạn lại nằm trong tay Ủy Hội Phát
Triển và Cải Cách Quốc gia, một cơ quan chịu trách
nhiệm phát triển kinh tế. TQ đã bị thế giới bên
ngoài chỉ trích là đã theo đuổi đường lối cứng rắn,
ngược với khuyến cáo của bộ ngoại giao.
Ảnh hưởng của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân - PLA -
còn khó lý giải hơn. Một mặt, từ đại hội đảng 1992,
không một sĩ quan được chọn vào ủy ban thường vụ đầy
quyền lực của Chính Trị Bộ. Vào cuối thời Cách Mạng
Văn Hóa, hơn nửa số thành viên Bộ Chính Trị được
chọn từ PLA; ngày nay chỉ còn 2 trong số 24. Mặt
khác, các tác giả trong các định chế nghiên cứu của
PLA ngày một bộc trực và công khai hơn, sử dụng các
bài bình luận trên báo chí và xuất hiện trước truyền
hình để nói lên quan điểm của PLA.
Khác với quân đội nhà nghề Tây phương, PLA luôn lên
tiếng về các chính sách đối ngoại. Trong cuốn The
Party, Richard McGregor đã nêu rõ Đảng có khoảng
90.000 tổ - một trong 25 binh sĩ là đảng viên. Mặc
dù thăng thưởng hiện nay được căn cứ trên năng lực
và ý thức hệ, vai trò của PLA đã đem lại cho mình
tiếng nói trong chính sách an ninh. Không như Mao và
Đặng, lãnh đạo ngày nay không xuất thân từ hàng ngũ
quân nhân, do đó, họ rất cần sát cánh hơn với PLA.
Không có lý do để tin uy quyền của lãnh đạo đã lu
mờ. Nếu họ tin một chính sách nào đó có tầm quan
trọng thiết yếu đối với xứ sở hay Đảng, họ sẽ tự lấy
quyết định. Nhà cầm quyền vẫn có thể đàn áp một cuộc
biểu tình chống đối nào đó nếu thấy cần. Tuy nhiên,
chính trị tự nó không bao giờ trắng đen rõ rệt, ngay
cả ở TQ. Lập trường của chính quyền bao giờ cũng khi
mờ lúc tỏ, khó lòng minh định. Khi giới lãnh đạo chỉ
nghe một thông điệp đơn thuần từ báo chí, các
bloggers và các cố vấn riêng, họ luôn cảm nhận
cần phải lắng nghe. Khi công luận phân tán, họ
thường có thể tảng lờ không mấy ái ngại. James
Reilly, thuộc Đại Học Sydney, người đã chuyên nghiên
cứu chính sách TQ đối với Nhật, cho biết: áp lực
quần chúng thường mạnh nhất khi giới thượng lưu chia
rẽ.
Trong mọi trường hợp, nhà cầm quyền sẽ
theo dõi công
luận dù chỉ vì phản đối có thể trở thành một hình
thức âm thầm chống đối. Các cuộc biểu tình chống
Nhật ở Nam Hàn trong thập kỷ 1960 đã đem lại động
lực cho phong trào đòi hỏi dân chủ - cũng như các
cuộc xuống đường chống đối sinh viên Phi châu đã xẩy
ra trước biến động Thiên An Môn năm 1989. Theo Rana
Mitter, Đại Học Oxford, chính sách đối ngoại đã có
một lịch sử gây bất ổn định trong chính quyền TQ, và
người TQ thường quy trách các thất bại ở nước ngoài
là nguyên nhân đưa đến các yếu kém quốc nội. Họ
thích nói: "lộn xộn trong nước, tai họa ở nước
ngoài" - "disorder at home, calamity abroad".
Chủ nghĩa dân tộc có thể định khung một vấn đề
trước khi cấp lãnh đạo tìm cách đối phó. Chẳng hạn,
vào thời điểm có cuộc tranh chấp về các hải đảo
Senkaku/Diaoyu , bộ tuyên truyền, cùng với các nhà
bình luận báo chí và những tuyên bố của PLA, đã tạo
ra một bối cảnh cấp lãnh đạo khó lòng lùi bước mà
không tỏ ra nhu nhược.
Dynamic
nầy chẳng có gì mới mẻ. Nó đã từng làm rối rắm thêm
biến cố trên không giữa một chiến đấu cơ TQ và một
phi cơ trinh sát Mỹ năm 2001, một sự kiện PLA đã đổ
lỗi cho người Mỹ. Nhưng giờ đây, trong quá trình
diễn tiến thay đổi cấp lãnh đạo vào năm 2012, chỉ
một động thái yếu đuối cũng đủ phương hại đến cả sự
nghiệp.
Một thỏa hiệp cũng có thể bị xem như cử chỉ đầu
hàng. Điều nầy tạo ra nguy cơ cho bất cứ ai có chủ
trương ôn hòa hay thỏa hiệp. Nói chuyện với Lampton
về Đài Loan, một học giả TQ đã đặt vấn đề như sau:
"Giả thiết có hai lựa chọn và họ [cấp lãnh đạo]
chọn các biện pháp cứng rắn...và vị lãnh đạo không
giải quyết được [vấn đề], vị đó vẫn có đủ biện minh.
Nhưng nếu lựa chọn biện pháp quá mềm mỏng và thất
bại, lãnh đạo sẽ bị xem như có tội bởi các thế hệ
tương lai".
Trong trường kỳ, phạm vi hành động của lãnh đạo tùy
thuộc ở tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một TQ trù phú
là chỉ dấu TQ đủ mạnh để theo đuổi mục tiêu của mình
trên thế giới. Một TQ yếu đuối, với tăng trưởng kinh
tế khập khiểng và đảng cầm quyền cảm thấy bị sức ép
quốc nội, có thể đưa đến rắc rối ở hải ngoại. Trạng
huống nầy sẽ giới hạn phạm vi hành động của một TQ
ít khẳng định hơn.
Giả thiết các lãnh đạo muốn trung thành với những
huấn lệnh nguyên thủy 'chờ thời và che giấu"
của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, họ sẽ có ba điều
thuận lợi.
Trước hết, tinh thần dân tộc đã giữ một vai trò
thiết yếu trong hầu hết các tranh chấp lãnh thổ như
Đài Loan và các hải đảo trong biển Nam Hải. Theo
Jian Yang, Đại Học Auckland, New Zealand, tinh thần
dân tộc, vốn rất ít ảnh hưởng trong địa hạt kỹ thuật
như kinh tế, vẫn không kém nếu không muốn nói quan
trọng hơn, đối với cấp lãnh đạo TQ.
Thứ đến, TQ hiện chưa có một viễn kiến rõ ràng để
thay thế trật tự thế giới chi phối bởi Hoa Kỳ từ sau
Đệ Nhị Thế Chiến. Vì vậy, TQ không cần và cũng không
nên phát động những trận chiến ý thức hệ ở nước
ngoài.
Sau hết và quan trọng hơn cả, TQ và Hoa Kỳ đang cùng
chia sẻ một số mục tiêu. Cả hai đều ước muốn một nền
kinh tế thế giới lành mạnh, một Á châu ổn định, hòa
bình ở Trung Đông, các tuyến hàng hải an ninh, giới
hạn phổ biến vũ khí nguyên tử, một hệ thống mậu dịch
mở cửa... Cả hai có đủ lý do để vun quén một quan hệ
đủ hòa hoản ngỏ hầu có thể theo đuổi những mục tiêu
vừa kể.
TỰ KHẲNG ĐỊNH TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ
Kết quả khả dĩ nhất là một TQ khẳng định hơn, theo
đuổi và thành đạt nhiều mục tiêu đối ngoại hơn,
nhưng vẫn không khuấy động trật tự thế giới hiện hữu
trong căn bản. Đối với những vấn đề liên quan đến
lãnh thổ và biên giới nhạy cảm, TQ có thể không thỏa
hiệp hay nhân nhượng và ngày một bất hợp tác. Trong
nhiều địa hạt khác, giới lãnh đạo tương đối dễ thỏa
hiệp hơn, dĩ nhiên sẽ luôn đòi hỏi phần lợi như bất
cứ một đại cường toàn cầu nào khác.
Ở đây câu hỏi cần được đặt ra: khả năng hợp tác hòa
bình với một TQ khẳng định như thế nào? Trong mấy
thập kỷ qua, TQ đã rất cố gắng trấn an các quốc gia
láng giềng là họ không có gì phải âu lo trước sự
trỗi dậy của TQ. Vì vậy, sự tái khẳng định của TQ sẽ
càng khó khăn hơn, nhất là khi trộn lẫn với các
tranh chấp lãnh thổ nhạy cảm. Nói một cách khác, an
ninh Á châu sẽ được quyết định không những bởi
phương cách vận dụng sức mạnh mới của TQ mà còn bởi
phương cách phản ứng của các quốc gia trong khu
vực. Đây chính là ý tưởng bên sau Ý Niệm An Ninh
Mới - New Security Concept - hòa hoản hơn của
TQ. Các xứ khác sẽ thư giản nếu họ cảm thấy được
trấn an TQ sẽ không đem lại một đe dọa nào. Rất
không may, chiến dịch tấn công bằng sức quyến rũ và
thu hút đã không đem lại kết quả mong muốn.
Á CHÂU TRƯỚC SỰ TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC
Trong tác phẩm "The Rivals", tác giả Bill
Emmott, nguyên biên tập viên tạp chí The Economist,
đã ghi lại lời một viên chức ngoại giao cao cấp Ấn
Độ về đề tài Ấn Độ và TQ: "Điều quý vị phải hiểu
là cả hai nước chúng tôi đều nghĩ tương lai thuộc về
chúng tôi. Cả hai nước chúng tôi không thể đều đúng".
Các kinh tế gia và các nhà kinh doanh xem sự
trỗi dậy của TQ như một phước lành - mọi người đều được
hưởng lợi từ sự thịnh vượng của người khác. TQ đã
trở thành đối tác thương mãi chính của hầu hết các
xứ trong khu vực - ngay cả khi phương Tây vẫn là
nguồn cầu quan trọng. Khi ngày một giàu có hơn, TQ
sẽ trở thành thị trường cho phần còn lại của Á châu,
cũng như cả khu vực sẽ trở thành một thị trường rộng
lớn hơn cho TQ.
Trong thực tế, an ninh không bao giờ giản dị như
thế. Như kinh nghiệm của viên chức ngoại giao Ấn Độ
cho thấy, khi hai xứ không thực sự tin nhau, an
ninh của xứ nầy có thể gây bất an cho xứ kia.Trong
một lục địa rối reng như Á châu, các quốc gia thường
trông cậy vào Hoa Kỳ để bảo đảm an ninh trước một TQ
ngày một hùng mạnh - lấy nước xa để chế ngự lửa
gần.
Dĩ nhiên, các xứ Á châu luôn muốn có cả bà con xa
lẫn láng giềng gần [và tốt]: đề kháng quyền lực
nhưng tăng cường giao thương với TQ; dựa vào Mỹ để
được an ninh, nhưng phát triển quan hệ kinh tế chính
trị với TQ. Điều nầy rất khó thể hiện trong thực tế,
và nếu quan hệ Mỹ-Hoa không diễn tiến tốt đẹp trong
những thập kỷ tới, Á châu sẽ bị lôi kéo, giằng xé
giữa hai cực. Và các nước nhỏ vẫn có thể làm tăng
tình trạng căng thẳng giữa hai cường quốc khổng lồ.
Điều đó có thể gây bức xúc cho TQ, trong nhiều năm
gần đây, đã tận lực trấn an các lân bang qua việc
làm đứng đắn, cũng như ve vuốt các xứ nầy với chính
sách trỗi dậy mang tính hòa bình. Chẳng hạn, TQ đã
nhân nhượng trong nỗ lực giải quyết các tranh chấp
biên giới trên bộ. Taylor Fravel, thuộc Viện MIT, đã
kết luận: trong quá trình giải quyết 17 trong số 23
vụ tranh chấp lãnh thổ, TQ đã thường đồng ý chấp
nhận chưa đến phân nửa phần đất tranh chấp. TQ cũng
đã tỏ ra hào phóng trong ngoại giao kinh tế, ký kết
một loạt thỏa ước thương mãi tự do xuyên Á.Theo Marc
Lanteigne, Đại Học Victoria ở Wellington, New
Zealand, "trong vòng một thập kỷ, TQ đã chuyển
biến từ một xứ nghi ngờ mậu dịch ưu đải và tự do
thành một trong số quốc gia đề xuất nhiệt thành
nhất".
TQ đã gia nhập các nhóm đa quốc gia (ngay cả trong
Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải -Shanghai Co-operation
Organization - SCO, TQ đã giúp thành lập một nhóm).
TQ hiện đã là thành viên của 50 tổ chức liên chính
phủ và trên 1.000 NGO quốc tế. Chỉ kể các tổ
chức bắt đầu bằng chữ A, người ta cũng đã có thể tìm
thấy đại biểu TQ trong Diễn Đàn Khu Vực ASEAN,
ASEAN+3, Hội Nghị Các Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN và
APEC. Chính quyền các quốc gia Á châu hy vọng TQ
cũng sẽ chấp nhận các ràng buộc bởi các dây liên hệ
cấp khu vực vừa kể.
Tuy nhiên, nghĩ thế là đã đặt quá nhiều đức tin vào
các diễn đàn đa quốc gia. Chỉ trích các nhà ngoại
giao luôn tìm dịp nói về hòa bình có thể là thái độ
quá khắt khe, nhưng Á châu thực ra đã có quá nhiều
hội nghị cấp vùng. Chỉ trong năm 2007, Trung Tâm
Giao Hoán Quốc Tế Nhật - Japan Centre for
International Exchange - cũng đã ghi được 277
cuộc họp mặt về an ninh đa phương và liên chính phủ.
Nick Bisley, Đại Học La Trobe ở ÚC, người đã
nghiên cứu các tổ chức an ninh cấp vùng ở Á châu, đã
kết luận, sự dồi dào nầy trong thực tế chỉ là một
mặt nạ che giấu mọi ngờ vực, khi mỗi quốc gia Á châu
luôn tìm cách lựa chọn diễn đàn mình ưa thích. Các
hội nghị có thể rất hời hợt và các lãnh tụ có khuynh
hướng tránh né các quyết định mang tính thực tế và
ràng buộc. Xuất hiện quá nhiều trước ánh đèn truyền
thông sẽ không giúp ích gì nhiều. Gary Schmitt,
Viện Doanh Nghiệp Hoa Kỳ - American Enterprise
Institute, ở Hoa Thịnh Đốn, đã viết:
"Các
diễn đàn và thỏa ước khác nhau ở Á châu có vẻ giống
như một bảng liệt kê chó và mèo, hơn là một khung
hành động mạch lạc và khả tiên liệu về tương lai".
Mặc dù so với nhiều thế kỷ trước đây, TQ nay đã cải
thiện quan hệ với 14 xứ lân bang, nhưng vẫn chưa
thực sự tin tưởng bất cứ nước nào - và ngược lại.
Quan hệ với Nhật chưa bao giờ vượt khỏi ký ức một đế
quốc xâm lăng trước đây. Từ 1949, TQ đã va chạm với
Nga, lâm chiến với Liên Hiệp Quốc ở Cao Ly, với Ấn
Độ, và với Việt Nam.
TRANH CHẤP HÀNG HẢI
Thêm vào đó, không như trong các tranh chấp biên
giới trên đất liền, TQ đã lớn tiếng đòi chủ quyền
vùng biển Nam Hải, có lẽ vì tiềm năng hải và khoáng
sản lớn lao. Trong khoảng 36 năm qua, TQ đã xung đột
về quần đảo Hoàng Sa với Việt Nam (1974); về Trường
Sa với Việt Nam (1988) và Philippines (1994); với
Nam Hàn về Socotra Rock (2006); và với Nhật về
Okinotori Islands (2004) và Senkaku/Diaoyu Islands
(2010).
Trong bối cảnh các xứ lân bang bị chi phối bởi nhiều
cường quốc có quyền lợi xung khắc, chính sách đối
ngoại của Bắc Kinh rất khó tránh nhiều mâu thuẩn và
nghịch lý. Khi Bắc Hàn đánh chìm tàu Cheonan,
TQ đã phải lựa chọn giữa an ninh và quan hệ ngày một
chặt chẽ hơn với Nam Hàn. Khi đứng về phía Bắc Hàn,
TQ đã gửi một tín hiệu tai hại đến Nam Hàn là họ
không muốn hay không thể kiểm soát đồng minh của
mình. Quan hệ của TQ với Ấn Độ đang trở nên rất phức
tạp bởi những gì đang xẩy ra trong những xứ láng
giềng. Chẳng những Ấn Độ nghi ngờ chính sách
Pakistan của TQ, Ấn Độ còn cạnh tranh với TQ ở Nepal
và Sri Lanka, những xứ Ấn Độ xem như thuộc phạm vi
ảnh hưởng của riêng mình.
Như vậy, các quốc gia Á châu đang đối phó với sức
mạnh ngày một gia tăng của TQ và những lỗi lầm bất
cập của các tổ chức đa quốc gia ra sao?
Cùng với đà tăng trưởng kinh tế và ngày môt giàu có
hơn, các xứ nầy dần dà, tuy không hấp tấp, tậu thêm
vũ khí. Trong bạch thư quốc phòng năm rồi, Úc đã tỏ
ra lo ngại trước một TQ hùng mạnh và đề xướng canh
tân và tăng gấp đôi số tiềm thủy đỉnh, cũng như
thiết kế một hệ thống tàu chiến tương lai tân tiến
và hữu hiệu hơn. Việt Nam đã đặt mua sáu tiềm thủy
đỉnh Kilo-class của Nga. Trước đó, Singapore đã mua
hai tiềm thủy đỉnh Archer-class của Thụy Điển, và
Malaysia và Ấn Độ đã mua 8 tiềm thủy đỉnh
Scorpene-class của Pháp.
Nhật cũng đã tăng cường võ trang toàn diện. Mặc dù
ngân sách quốc phòng chính thức của Nhật chỉ chiếm
1% GDP và trong vòng một thập kỷ vừa qua đã giảm bớt
khoảng 3% tính theo mệnh giá (in nominal terms),
khoảng 1% theo thực giá (in real terms), Nhật cũng
đã du di tài nguyên qua hải quân, hiện hùng mạnh hơn
hải quân TQ. Theo Richard Samuels, MIT, lực lượng
tuần duyên của Nhật , được tài trợ bên ngoài ngân
sách quốc phòng, hiện có một đội tàu chiến hùng hậu
và những quy luật tác chiến lỏng lẻo hơn lực lượng
tự vệ.
Bên cạnh chính sách tự vũ trang, các quốc gia Á châu
ngày một nhích lại gần hơn với Hoa Kỳ. Động thái nầy
đã phơi bày một cách khá ấn tượng tại diễn đàn khu
vực ASEAN ở Hà Nội trong tháng 7-2010. Trong một
nghị trình làm phật lòng TQ, các nước thành viên
ASEAN đã thay nhau than phiền TQ đã khẳng định mạnh
mẽ chủ quyền trong vùng biển Nam Hải. Những bản
tuyên bố đã đạt cao điểm với Hillary Clinton, bộ
trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, nhấn mạnh phương cách Hoa
Kỳ sẽ can thiệp để bảo đảm an ninh cho các tuyến
giao thông hàng hải trong hải phận quốc tế.
Nhiều tiến bộ song phương cũng đã được ghi nhận.
Tháng 8-2010, Việt Nam và Hoa Kỳ đã bắt đầu hợp tác
quân sự cấp cao, với một cuộc họp ở Hà Nội. Các quan
chức Việt Nam đã lên thăm hàng không mẫu hạm USS
George Washington đậu ngoài khơi Việt nam. Các tàu
hải quân Mỹ đã cập bến Việt Nam và Việt Nam đã thỏa
thuận sửa chữa các tàu chỉ huy Sealift của Mỹ. Không
ai tin chỉ cách đây 35 năm hai quốc gia đã ở trong
tình trạng chiến tranh.
HOA KỲ - ĐIỂM TỰA AN NINH
Tuy nhiên, liên kết với Hoa Kỳ để tìm kiếm an ninh
cũng là một việc khá rắc rối. Đôi khi các quốc gia Á
châu cũng phải đối đầu với các trở ngại đối nội.
Dưới thời George W. Bush, Ấn Độ và Hoa Kỳ đã xây
dựng một quan hệ thân hữu khá chặt chẽ với thỏa ước
hợp tác nguyên tử. Tuy nhiên, ngay cả trình độ thân
thiện đó cũng đã khơi dậy sự chống đối từ phe tả của
Ấn Độ. Một thỏa ước quốc phòng trọn vẹn với Hoa Kỳ
để ngăn bờ TQ hình như không được cứu xét hiện nay.
Ấn Độ cũng chẳng mấy vui thích vai trò một đàn em và
cũng đang hãnh diện với địa vị một quốc gia phi liên
kết.
Ấn Độ cũng không muốn hoàn toàn gạt bỏ TQ - một nước
cạnh tranh, nhưng đồng thời cũng là một đồng minh
trong nhiều địa hạt, như thay đổi khí hậu và các vấn
đề kinh tế toàn cầu. Vả chăng, như Rahul
Roy-Chaudhury thuộc IISS nêu rõ, các chính trị
gia Ấn không gần gũi với phe quân đội. Không có một
hội đồng an ninh quốc gia hữu hiệu để hậu thuẩn, hải
quân phải mất nhiêu thời gian để thuyết phục chính
quyền: TQ có thể trở thành một đe dọa. Các ngành
quân lực có thể hoạch định những chiến dịch ấn
tượng. Tuy nhiên, trong một tác phẩm mới về canh tân
quân sự, Stephen Cohen và Sunil Dasgupta
lập luận: có nạn ganh tị giữa các binh chủng, tiếp
liệu kém, và từ ngày độc lập nghi kỵ vẫn còn lây lất
trong việc phối trí quân đội hiện còn phản ảnh dấu
ấn của thời thực dân Anh quốc.
Riêng phần mình, Nam Hàn , một đồng minh lâu ngày
của Mỹ, đã chuyển hướng từ an ninh qua kinh tế và
ngược trở lại. Dưới thời Tổng Thống Roh Moo-hyun,
Nam Hàn đã tách khỏi Hoa Kỳ, trong nỗ lực chứng
tỏ vai trò một cường quốc Á châu độc lập với liên hệ
kinh tế ngày một chặt chẽ hơn với TQ. Năm 2007, Roh
đã đạt được sự đồng tình của Mỹ là kể từ 2012 Nam
Hàn một lần nữa sẽ có bộ chỉ huy quân lực riêng
trong trường hợp có chiến tranh. Roh cũng đã trợ
giúp Bắc Hàn sau khi Hoa Kỳ cắt viện trợ năng lượng.
Tuy nhiên, người kế nhiệm, Lee My-ung-bak,
một lần nữa lại liên kết với chính sách an ninh của
Mỹ. Lee đã trì hoản việc chuyển giao quyền tư lệnh
thời chiến đến năm 2015, và lựa chọn một chính sách
cứng rắn hơn đối với Bắc Hàn.
Ở Nhật, các cánh phái khác nhau cũng cho thấy tất cả
những khuynh hướng vừa nói và hơn thế nữa. Một số
trong Đảng Dân Chủ cầm quyền đã tìm cách
nhích lại gần hơn với TQ. Một số khác trong Đảng
Dân Chủ Tự Do, ngày nay là đảng đối lập sau
nhiều thập kỷ cầm quyền, bất bình trước sự hiện diện
của 36.000 binh sĩ Mỹ trong các căn cứ rải rác khắp
Nhật Bản. Một nhóm khác chủ hòa nhiệt thành đến độ
người Mỹ tự hỏi không biết người Nhật trong thực tế
có sẵn sàng đáp ứng lời yêu cầu của Mỹ khi cần. Và
những nhóm khác còn nghi ngờ khả năng: Nhật luôn có
thể trông cậy vào người Mỹ. Đối với nhiều người
Nhật, vụ tranh chấp các hải đảo Sankaku/Diaoyu chứng
tỏ TQ có thể trở thành một đối thủ gai góc, nhức
nhối đến mức độ nào. Sau vụ lính tuần dương Nhật bắt
giữ các ngư phủ người Hoa, TQ đã hủy bỏ các hội
nghị, cản trở thương mãi, và ngưng xuất khẩu khoáng
sản đất quí hiếm đến Nhật. Các viên chức ngoại giao
Nhật rất hài lòng khi ngoại trưởng Hillary Clinton
lên tiếng ủng hộ Nhật. Samuels ở MIT nghĩ,
Hoa kỳ cần phải trấn an Nhật , đồng minh thiết yếu
nhất ở Á châu. Nếu Nhật tỏ ra nghi ngờ, Hoa Kỳ sẽ
thấy tất cả các liên minh Á châu của mình phải chịu
ảnh hưởng tai hại.
Nhưng TQ lại có cách tính toán khác. Những
nỗ lực
vun quén quan hệ với các quốc gia láng giềng chỉ đem
lại những kết quả pha trộn. Những quan hệ kinh tế đã
tạo được ít nhiều thiện chí, nhưng đa số các quốc
gia trong vùng hình như luôn sẵn sàng nghiêng về
phía Hoa Kỳ mỗi khi gặp rắc rối. Trước lập trường
khẳng định ngày một gia tăng của TQ, điều đó có thể
dễ dàng trở thành một nguồn bất mãn, làm trầm trọng
thêm sự thiếu tin tưởng hổ tương giữa các siêu
cường. Trong mọi trường hợp, Hoa Kỳ và TQ có khuynh
hướng cạnh tranh giành giựt lòng trung thành của các
quốc gia trong vùng. Điều nầy rõ ràng có thể làm vẩn
đục thêm nếu không muốn nói đầu độc mối quan hệ quan
trọng bậc nhất hiện nay - quan hệ Mỹ-Hoa.
SỰ TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ NGOẠI GIAO HOA KỲ
Trong một bài bình luận gần đây, Hugh White, một
viên chức an ninh và quốc phòng Úc trước đây, đã
nhắc lại những mẫu chuyện trao đổi với các đối tác
Mỹ: "Tôi lần lượt chất vấn họ: 'Quý vị có nghĩ
Hoa Kỳ nên ứng xử bình đẳng với TQ nếu quyền lực của
TQ tăng lên ngang hàng với Hoa Kỳ?' Câu trả lời luôn
là không. Tôi lại hỏi 'Quý vị có chờ đợi TQ sẽ bằng
lòng với bất cứ gì ít hơn là bình đẳng?' Câu trả lời
cũng luôn là không. Kế đó tôi hỏi tiếp ' Như vậy,
bằng cách nào quý vị chờ đợi Hoa Kỳ và TQ hợp tác
với nhau?' Tôi cũng luôn nhận được một cái nhún vai
thay câu trả lời".
Cái nhún vai nói lên những khó khăn của Hoa Kỳ trong
việc thiết kế chính sách đối với TQ. Hoa Kỳ muốn TQ
trở thành một thị trường trù phú cho sản phẩm xuất
khẩu của mình. Hoa kỳ cũng muốn TQ trở thành một đại
cường tích cực, và trách nhiệm trong sinh hoạt thế
giới. Tuy nhiên, cùng lúc Hoa kỳ cũng cảm thấy bị đe
dọa bởi sức mạnh kinh tế, kỹ nghệ, ngoại giao và
quân sự ngày một gia tăng của TQ. Khi Hoa Kỳ không
vừa lòng với một lập trường nào đó của TQ, Hoa Kỳ
thường lớn tiếng chỉ trích và thổi phồng câu chuyện.
Một hổn hợp đối tác và tranh giành là một công thức
đưa đến hỗn loạn.
Môt phương cách giải quyết những căng thẳng vừa nói
là nên đặt an ninh lên hàng đầu. Hoa kỳ có thể theo
đuổi mục tiêu ngăn chặn TQ ngay bây giờ trước khi TQ
giàu mạnh hơn. Người Mỹ đã thắng trong chiến tranh
lạnh bằng cách cô lập hóa kinh tế và dồn quân lực Xô
Viết vào thế bế tắc.
Tuy nhiên áp dụng cùng phương pháp lần nầy là một ý
tưởng sai lầm. Trước hết, cái giá phải trả quá đắt.
Thứ đến, người Mỹ có thể bị thương tổn không kém TQ.
Kinh tế hai quốc gia đang đan xen và TQ là chủ nợ
lớn nhất của Mỹ. Trong chiến tranh, vì cần thiết,
các quốc gia thường không mấy ngần ngại khi công
trái gia tăng. Nếu một tổng thống Mỹ tìm cách xóa nợ
trong thời bình, vì lựa chọn, tổng thống sẽ phải đối
đầu với bất đồng nội bộ và sỉ nhục ở hải ngoại.
BIỆN PHÁP CHẾ NGỰ VÀ NGUY CƠ
Trong mọi trường hợp, chính sách ngăn chặn có thể
phản tác dụng, trừ phi để chống lại một TQ rõ ràng
thù nghịch.
Ngoại trừ trường hợp Hoa Kỳ có thể thuyết phục phần
lớn thế giới hợp tác, TQ vẫn có thể tiếp cận hầu hết
các thị trường. Một Hoa Kỳ hiếu chiến có thể có nguy
cơ đánh mất các đồng minh Á châu chính mình muốn bảo
vệ. Joseph Nye, trường Kennedy thuộc Harvard, đã đưa
ra luận cứ: cách hay nhất để biến TQ thành một kẻ
thù là ứng xử với TQ như một xứ thù nghịch.
Một ngày nào đó Hoa Kỳ có thể cảm thấy mình không có
lựa chọn nào khác ngoài việc tập trung vào vấn đề
an ninh. Đó chính là điều TQ đang lo ngại. Ngược
lại, chỉ lo tập trung vào kinh tế và bỏ quên an ninh
là điều hoàn toàn sai quấy. Hoa Kỳ có nhiều quyền
lợi thiết thân ở Á châu. Hoa Kỳ muốn ngăn ngừa phổ
biến nguyên tử ở bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản. Hoa
Kỳ có đồng minh cần bảo vệ và các đe dọa cần khống
chế. Hoa Kỳ cần tiếp cận các tuyến đường hàng hải và
các thị trường rộng mở. Hoa Kỳ là siêu cường ưu việt
của thế giới. Hoa Kỳ không thể từ bỏ Á châu mà không
mất ảnh hưởng ở mọi nơi khác.
Vì vậy, trong suốt 15 năm qua, Hoa Kỳ đã quay trở
lại chính sách lưỡng diện đối với TQ - two-tract
China policy.
Barack Obama đã dõi theo diện thứ nhất trong chuyến
viếng thăm TQ trong tháng 11-2009. Tổng Thống đã nói
trước sinh viên trường Đại Học Fudan ở Thượng Hải:
"Hoa Kỳ nhấn mạnh chúng tôi không tìm cách chặn
đường đi lên của TQ. Ngược lại, chúng tôi chào đón
TQ như một thành viên hùng mạnh, phú cường và thành
công của cộng đồng các quốc gia".
Điều nầy có nghĩa, như Obama sau đó đã giải bày với
Hồ Cẩm Đào,
"kinh tế ngày một tăng trưởng của TQ
đi kèm với trách nhiệm ngày một gia tăng".
Chính sách 'can dự' -engagement - được hổ trợ
bởi diện thứ hai, có thể được mô tả như 'rào
giậu' -hedging. Hoa Kỳ phải có khả năng triển
khai đủ lực lượng để ngăn chặn TQ. Nếu các tổng
thống không đủ sốt sắng để mô tả rõ ràng, đề đốc
Robert Willard, Tư Lệnh Thái Bình Dương, đã làm rõ
trước Quốc Hội hồi đầu năm 2010:
"Cho đến
khi...chúng ta thấy rõ ý định của TQ quả thật là ôn
hòa, điều thiết yếu là chúng ta phải duy trì các lực
lượng trong tư thế sẵn sàng; tiếp tục tăng cường cam
kết với các đồng minh và đối tác trong vùng; và đáp
ứng mỗi thách thức của TQ một cách chuyên nghiệp,
phù hợp với luật quốc tế".
Hoa Kỳ trước đây đã từng đối diện với một số tính
toán minh bạch, tuy rất đáng ngại, trong quan hệ
thực tế không mầu mè với Liên Bang Xô Viết. Ngược
lại, cách ứng xử lưỡng diện với TQ có vẻ ít huyền
hoặc, nhưng thập phần phức tạp hơn - hầu như bất khả
xử lý.
Trên nguyên tắc, chính sách lưỡng diện rất duy lý.
Can dự được thiết kế để tưởng thưởng việc làm
hay hạnh kiểm tốt, và rào giậu để ngăn ngừa
việc làm hay hạnh kiểm xấu. Tuy nhiên, trong thực
tế, rào giậu hàm chứa nguy cơ tiềm ẩn phương
hại đến can dự. Nói rõ hơn, sự hiện diện cùng
lúc của hai "diện" sẽ tác động như một lý do đặc
miễn để tránh tìm cách giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng ở Hoa Kỳ. Đối với vấn đề TQ, phe diều hâu và
phe bồ câu đều có thể ủng hộ cùng một chính sách,
bởi lẽ cả hai đều có thể tiếp tục tin rút cuộc phần
đúng sẽ về mình.
Trên phương diện chính trị, điều nầy rất thuận tiện
ở Hoa THịnh Đốn nhưng không thể là một chính sách lý
tưởng. Chính sách can dự thường được vận hành bởi
các chuyên gia về TQ thuộc bộ ngoại giao và chính
sách rào giậu sẽ do Ngũ Giác Đài thể hiện. Trên lý
thuyết, hai lối đi của chính sách cần được cân nhắc
và thể hiện theo chỉ dấu cách ứng xử của TQ mang
tính ôn hòa hay đe dọa. Ngay trong giả thiết tốt
nhất, bộ ngoại giao và bộ quốc phòng không luôn đồng
thuận. Thường khi chính sách lưỡng diện có thể được
vận hành như hai chính sách biệt lập.
HÃY NGHE TÔI NÓI - READ MY LIPS
Điều nầy rất quan trọng bởi lẽ những lời cởi mở đối
với TQ của Obama cũng mới chỉ là lời nói, và giới
lãnh đạo TQ cũng không phải là những người nhẹ dạ cả
tin. Dù thành thật đến bao nhiêu, và lời nói của bất
cứ tổng thống nào cũng thế: hứa hẹn ít khi đi đôi
với thực thi, tổng thống đến rồi đi. Hoa Kỳ gửi một
tín hiệu khi tái phối trí lực lượng hải quân ở Thái
Bình Dương và các đề đốc nói với Quốc Hội:
"Sự
quan tâm của TQ đối với một môi trường ḥòa bình và
ổn định khó lòng nhất trí với những khả năng quân sự
đang diễn tiến".
Những phán đoán trên khá xác đáng đối với an ninh
Hoa Kỳ, nhưng lại cản đường thông điệp Hoa Kỳ chào
đón sự trỗi dậy và không có ý định ngăn chặn TQ.
Rào giậu cũng không phải yếu tố phức tạp duy nhất
đối với chính sách can dự. Trong 15 năm qua, thương
mãi đã kéo Hoa Kỳ lại gần với TQ. Thực vậy, toàn cầu
hóa đã trở thành một phần quan trọng trong chính
sách can dự. Nhưng ngày nay, khi một trong 10 người
Mỹ không có việc làm, chính sách kinh tế đã nhuốm
mầu bảo vệ mậu dịch. Nếu TQ mất hậu thuẩn chính trị
trước các thế lực vận động hành lang của giới đại
doanh nghiệp Mỹ, một giới gần đây ngày một chống đối
TQ hơn, dĩ nhiên giọng điệu của Hoa Thịnh Đốn cũng
sẽ có thể dịch chuyển nhiều. Vì vậy, mậu dịch cũng
có thể bắt đầu làm gia tăng nổi âu lo của TQ:
Hoa
Kỳ cuối cùng cũng sẽ lựa chọn ngăn chặn sự trỗi dậy
của TQ.
Nghi ngờ thứ hai về chính sách TQ của Hoa Kỳ là có
thể nào người Mỹ sẽ tuân thủ những gì chính sách can
dự đòi hỏi? Chính sách nầy dựa trên hai ý niệm.
Trước hết, TQ có thể trỗi dậy hay phát triển thành
một đại cường đã toại nguyện - một đại cường
không cảm thấy cần phải lật ngược trật tự thế giới
thời hậu chiến do Mỹ thiết kế và duy trì. Thứ hai,
nếu TQ ít nhiều tuân thủ các chuẩn mực toàn cầu,
liệu Hoa Kỳ sẽ có thể chấp thuận thích nghi với các
quyền lợi của TQ?
Như vậy, chính sách can dự đòi hỏi TQ và Hoa Kỳ phải
tìm được một hổn hợp ổn định giữa sự tham dự của TQ
và sự thích nghi điều chỉnh của Hoa Kỳ.
Câu hỏi cần được đặt ra: TQ có tuân thủ các chuẩn
mực toàn cầu hay không? Trước đây, như Bill Clinton
đã từng nói: "về nhân quyền và tự do tôn giáo,
TQ vẫn còn ở về phía sai lầm của lịch sử".
Một số nhà phân tích Tây phương thích đưa ra những
lời cảnh báo về chiến lược lâu dài vòng vo. Tuy
nhiên, trong khuôn mẫu chủng tộc bất di bất dịch đó,
chính Hoa Kỳ, không phải TQ, đã xây dựng chính sách
của mình trên châm ngôn 'bất chiến tự nhiên
thành' của Tôn Tử -Sun Tzu.
Giá trị của TQ đã thay đổi hẳn từ thời Mao Trạch
Đông, khi khủng bố không may đã thành thông lệ. Như
Richard McGregor đã viết trong tác phẩm 'The
Party', khủng bố hiện nay rất ít khi được sử
dụng.TQ của Hồ Cẩm Đào cơ sở trên khuyến dụ và mua
chuộc thay vì đàn áp. Tuy vậy, TQ vẫn còn là một nhà
nước độc đảng và khủng bố vẫn còn thiết yếu cho sự
trường tồn. Khi Đảng cần được bảo vệ, khủng bố vẫn
còn được sử dụng không mảy may ái ngại.
Trong cùng chiều hướng, trên trường quốc tế, TQ
không còn yểm trợ các phong trào nổi dậy để chống
lại các lân bang hay dựa trên những lập trường không
khoan nhượng chỉ vì không muốn khoan nhượng. Mặc dù
vậy, phương Tây vẫn xem TQ như một đối tác khó tính.
Các nhà bình luận Hoa Kỳ, như Gary Schmitt thuộc
Viện Doanh Thương Hoa Kỳ (American Enterprise
Institute) ở Hoa Thịnh Đốn, luôn lên án "cách
tiếp cận siêu thị" - supermarket approach, của
TQ: TQ mua những gì phải mua, chọn những gì mình
muốn, và tảng lờ những gì không thích.
HY VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH
Người ta hy vọng trong tương lai TQ sẽ ngày một dân
chủ hơn và sẽ chu toàn trách nhiệm quốc tế của mình.
Tuy nhiên, theo Richard Armitage, thứ trưởng ngoại
giao dưới thời George W. Bush, hy vọng không phải
là một chính sách. Trong bối cảnh những vấn đề
khó khăn của các xứ dân chủ Tây phương và sự thành
công kinh tế và tương đối ổn định của TQ, theo
Richard Woolcott, đặc sứ của thủ tướng Úc, khả năng
chuyển biến thành một quốc gia dân chủ đa đảng của
TQ hình như không còn chắc chắn hay không thể
tránh. Trong hiện tình, Đảng Cộng Sản có vẻ hoàn
toàn nắm chặt quyền kiểm soát.
Vì vậy, giả thiết TQ vẫn là một nhà nước cộng sản,
độc đảng, độc tài với quyết tâm làm những gì mình
muốn, Hoa Kỳ có thể nào chấp nhận tự mình phải điều
chỉnh và thích nghi?
Một số các nhà tư tưởng Hoa Kỳ, như John Ikenberry ở
Đại Học Princeton, đưa ra luận cứ :
Hoa Kỳ đã tạo
dựng được một hệ thống cơ sở trên luật pháp có khả
năng thu hút các thành viên mới. Những định chế như
Liên Hiệp Quốc, G20, Thỏa Ước Cấm Phổ Biến Nguyên Tử
- NPT, và Tổ Chức Thương Mãi Thế Giới -WTO, ít ra
trên lý thuyết, có thể vận hành ngay cả khi không có
sự lãnh đạo của Mỹ. Trong viễn kiến nầy, nước Mỹ có
thể thu nhận TQ chừng nào TQ tự thích nghi vào trật
tự thế giới hiện hữu.
Viễn kiến nầy đã có quá nhiều thiếu sót. Đã hẳn,
khác với các cường quốc Âu châu trong thế kỷ 19, Hoa
Kỳ, trên nhiều phương diện, đã tỏ ra sẵn sàng tuân
thủ những quy luật hiện hữu. Đó là lý do vì sao khá
nhiều quốc gia đã chịu chấp nhận sống trong vòng ảnh
hưởng của Mỹ.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ siêu cường bá chủ sắp lên
nào khác, Hoa Kỳ vẫn ngang nhiên tảng lờ các quy
luật do chính mình áp đặt, mỗi khi
quyền lợi thiết thân của Hoa Kỳ đòi hỏi. Năm 2005,
China National Offshore Oil Company, đã trúng thầu
mua lại Unocal của Mỹ, đã bị ngăn chặn chỉ vì người
Mỹ phản đối. Khi người Mỹ cần và muốn ký thỏa ước
nguyên tử với Ấn Độ, Hoa Kỳ đã không hề do dự dẫm
lên NPT. Người Mỹ đã tham chiến ở Balkans trong thập
kỷ 1990 và một lần nữa xâm chiếm Iraq năm 2003 chẳng
quan tâm đến Hiến Chương LHQ. Nước Mỹ cũng có thể
gây chiến với Iran trên cùng một căn bản.
Tóm lại, các siêu cường luôn vi phạm quy luật hay
luật quốc tế khi cần và chẳng ai hay định chế nào
có thể ngăn chặn. Qua thời gian, lôgic đó
cũng có ngày TQ sẽ áp dụng. Và Hoa Kỳ phải quyết
định nhân nhượng, điều chỉnh, thích nghi, hay
phủ nhận quyền bá chủ của TQ.
Trong thực tế, thật khó lòng phán đoán tinh thần
trách nhiệm của siêu cường TQ. Theo quan điểm của
người Hoa, người Mỹ hình như luôn định nghĩa cách
ứng xử quốc tế có thể chấp nhận được như phải
tuân phục chính sách của Hoa Kỳ. Theo lời Yuan
Peng, thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại Trung
Quốc ở Bắc Kinh - China Institutes of Contemporary
International Relations,
"Hoa Kỳ phiền trách
không phải vì TQ nói 'Không' với trách nhiệm toàn
cầu hay phủ nhận vai trò của mình trong sinh hoạt
quốc tế, mà chính là vì TQ từ chối nói 'Vâng' với
bất cứ đòi hỏi nào của Mỹ".
Thích nghi, điều chỉnh, là điều dễ dàng khi có nghĩa
TQ làm những gì Hoa Kỳ muốn. Nhưng liệu Hoa Kỳ có
chịu để TQ làm những gì Hoa Kỳ không muốn? Màn đen
bao phủ chính sách can dự của Hoa Kỳ là TQ sẽ không
thay đổi đủ để thỏa mãn Hoa Kỳ và Hoa Kỳ sẽ không
nhân nhượng đủ để thỏa mãn TQ. Điều đó nghe khá trừu
tượng, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành sự
thật một cách phủ phàng, hoặc trên Bán Đảo Triều
Tiên hay trong Eo Biển Đài Loan.
VẤN NẠN TRIỀU TIÊN
Không ai biết Bắc Triều Tiên có thể trường tồn và
điều gì sẽ đến sau Kim Jong Il và Kim Jong Un. Nhưng
thử tưởng tượng trong chốc lát, khi Kim Jong Il quá
vãng, Bắc Triều Tiên rơi vào hỗn loạn, vô chính phủ,
hay tấn công như đã từng làm trong tháng 11-2010 gây
thương vong cho binh sĩ và thường dân Nam Hàn. Cuộc
khủng hoảng tiếp theo sẽ là một thử thách nghiêm
trọng đối với khả năng chung sống hòa bình giữa TQ
và Hoa Kỳ.
Mọi người sẽ âu lo về vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn.
Hoa Kỳ có thể muốn chiếm hữu, nhưng TQ không thích
sự hiện diện của quân đội Mỹ ở biên giới của mình.
TQ cũng không muốn Hoa Kỳ hay Nam Hàn khẳng định
quyền kiểm soát Bắc Triều Tiên, một đồng minh của TQ
và một vùng trái độn. Trong trường kỳ, TQ có thể chờ
đợi tái lập ảnh hưởng trên một Triều Tiên thống nhất
như bất cứ đại cường áp đảo nào khác trên lục địa Á
châu đã làm trong lịch sử.
Điều nầy sẽ nêu lên rất nhiều vấn đề. Liệu Hoa Kỳ có
thể tin và để mặc TQ tinh chế plutonium và uranium
đã được làm giàu? Liệu TQ có thể chấp nhận ý kiến
quân đội Nam Hàn tái lập trật tự ở phía Bắc? Liệu TQ
có cho phép hai miền Triều Tiên được thống nhất? Nếu
điều nầy xẩy ra, liệu Hoa Kỳ chung cuộc sẽ xem xét
khả năng triệt thoái quân đội ra khỏi bán đảo Triều
Tiên?
Điều đáng buồn và đáng lo là những vấn đề trên đây
đã rất ít được nghĩ đến. Người ta chỉ biết, TQ cho
đến nay vẫn không muốn đem ra thảo luận với Mỹ, bởi
lẽ họ không muốn tỏ ra thiếu lòng tin ở đồng minh
lâu ngày dù khó tiên liệu ở miền Bắc. Tuy nhiên,
nếu nay là thời điểm rất không tiện để bàn về Triều
Tiên, điều nầy sẽ thập phần khó khăn hơn trong khủng
hoảng.
Nếu hai nước Triều Tiên cùng chia sẻ một biên giới
trên bộ là điều rất đáng quan ngại, tuyến đường
xuyên qua Eo Biển Đài Loan cũng là tuyến đường biển
đầy bất trắc. Tái thống nhất với Đài Loan được TQ
đặc biệt quan tâm như một trách nhiệm tuyệt đối.
Người ta kể lại câu chuyện cách đây ít năm, biên tập
viên một nhật báo ở Thượng Hải đã ca tụng một cơ
xưởng mới sản xuất các sản phẩm bán dẫn trong thành
phố như công xưởng lớn nhất TQ. Vì bỏ quên Đài Loan,
ông ta đã phải tự kiểm điểm và chấp nhận bị bớt
lương.
Tuy nhiên, chẳng những không răn đe, TQ ngày nay còn
tưởng thưởng Đài Loan. Hàng trăm chuyến bay nối liền
lục địa TQ với Đài Loan mỗi tháng. Thỏa ước mậu dịch
tự do với Đài Loan được ký kết mùa hè năm ngoái bao
gồm nhiều biện pháp trợ giúp nông dân Đài Loan,
những người có khuynh hướng ủng hộ Đảng Dân Chủ Tiến
Bộ (Democratic Progressive Party -DPP) chủ trương
độc lập với lục địa. Gần đây, TQ còn ám chỉ một ngày
nào đó TQ cũng có thể đổi hướng tên lửa ra khỏi Đài
Loan.
Trong hiện tại, chính sách hình như đang mang lại
hiệu quả. DPP đã mất quyền lực. Cũng chẳng mấy quan
trọng khi đảng thay thế - Quốc Dân Đảng -Kuomintang,
là cựu thù của Đảng Cộng Sản TQ. Dưới quyền lãnh đạo
của Ma Ying-jeou, Đài Loan rất thực tế. Nhân dân Đài
Loan rõ ràng không muốn chọc giận TQ bằng cách đòi
hỏi độc lập, nhưng cũng chẳng muốn trao Đài Loan dân
chủ cho TQ, một nhà nước độc đảng, độc tài.
Điều nầy không thành vấn đề đối với người Mỹ. Hoa Kỳ
vẫn có thể tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, và vẫn
có thể giao hảo với một TQ duy nhất chừng nào thống
nhất chỉ có thể đến một cách hòa bình. Điều Hoa Kỳ
không thể chấp nhận là thống nhất bằng bạo lực. Một
cách nghiêm chỉnh, luật Quan Hệ với Đài Loan 1979
không buộc Hoa Kỳ phải bảo vệ Đài Loan. Tuy nhiên,
trừ phi Đài Loan khiêu khích TQ một cách lố bịch,
Hoa Kỳ có thể sẽ có rất ít lựa chọn ngoại trừ can
thiệp. Nếu Hoa Kỳ chỉ đứng nhìn, Hoa Kỳ có thể đánh
mất lòng tin của đồng minh trên khắp thế giới.
Đài Loan vẫn là một điểm nóng. Nền dân chủ Đài Loan
có thể dẫn đến ước muốn độc lập; chủ thuyết dân tộc
của TQ có thể đòi hỏi phải tái thống nhất khẩn cấp
hơn; và Hoa Kỳ có thể e ngại tỏ ra yếu đuối.
Ngay cả giờ đây, khi các bên còn giữ quan hệ bình
thường, đảo quốc vẫn là một thử thách đối với sự tự
chế của TQ và Hoa Kỳ. Hoa Kỳ cần phải minh bạch tỏ
rõ là sẽ không để bị lôi cuốn: Đài Loan không thể
tìm kiếm độc lập một cách liều lĩnh dựa trên giả
thiết Hoa Kỳ sẽ bảo vệ họ.
TQ cũng cần phải hiểu cưởng chế có thể đánh mất uy
tín đối với phần còn lại của thế giới. Hoa Kỳ không
chờ đợi TQ sẽ từ bỏ các mục tiêu, cũng không chờ đợi
TQ luôn thỏa mãn các yêu sách của mình bên trong hệ
thống.
Các nhà làm chính sách thường chế nhiễu các nhà
ngoại giao là luôn theo đuổi các thỏa hiệp tương
nhượng và các sự-thật-nửa-vời. Tuy nhiên,
sứ mệnh cao cả của ngoại giao là tìm kiếm thuốc giải
độc cho mọi tranh chấp đầu độc địa chính trị. Kể từ
thế kỷ 19, họ chưa bao giờ có sứ mệnh lớn lao:
quản lý quan hệ giữa TQ và Hoa Kỳ. Trong chính
quyền Obama, sứ mệnh vừa nói đã được dành một tên
gọi: trấn an chiến lược -strategic reassurance.
KẾT LUẬN
Chờ thời và che giấu uy lực là khôn ngoan, nhất là
đối với các nước nhược tiểu đang mong muốn ngày một
hùng cường. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ muốn lợi dụng
cơ hội quyền lực mới đem lại. Thời khắc đó đã đến
với TQ hay chưa? Sức mạnh quân sự của TQ trên toàn
cầu chưa thể đối đầu với lực lượng Mỹ. Nhưng PLA
đang bắt đầu phủ nhận vai trò bá chủ của Hoa Kỳ
trong suốt 65 năm qua trong vùng Tây Thái Bình
Dương.Thúc đẩy bởi chủ thuyết dân tộc, cuộc thảo
luận hiện đang diễn ra bên trong giới lãnh đạo TQ:
họ đang cứu xét lúc nào mới đúng thời cơ để vùng
dậy. Điều nầy sẽ ảnh hưởng đến giới lãnh đạo TQ, mặc
dù các dấu hiệu cho thấy hiện họ đang muốn dành ưu
tiên cho tăng trưởng kinh tế và các vấn đề quốc nội
.
Thế giới bên ngoài nghi ngờ TQ và âu lo không biết
TQ sẽ là loại đại cường nào.Các quốc gia Á châu đang
phân vân nên hướng về TQ để phát triển hay về Hoa Kỳ
để tìm kiếm an ninh. Nếu TQ hăng say khẳng định
quyền lực mới của mình, họ rất có thể sẽ gặp phải sự
chống đối mãnh liệt.
Hoa Kỳ cũng lúc một cảm thấy dễ bị tổn thương. Quân
lực Hoa Kỳ đã nhận diện được mối đe dọa trong vùng
Thái Bình Dương. Ngoại giao kinh tế đã chuyển mình
mang tính hung hăng gây hấn và khó thể tiên đoán.
Điều nầy cho thấy chính sách của Hoa Kỳ về TQ ngày
càng bối rối giữa thích nghi can dự và rào giậu đắp
đê.
Chúng ta đang chứng kiến một hổn hợp các lực lượng
cực kỳ nguy hiểm. Sau một thập kỷ Hoa Kỳ đã bị chia
trí bởi khủng bố và TQ bị thu hút bởi tăng trưởng
kinh tế, quan hệ đối ngoại của TQ giờ đây có lẽ sẽ
trở nên lúc một khó khăn hơn. Nguy cơ đã thực sự
hiển hiện trong vòng mấy tháng cuối năm 2010 qua một
loạt tranh chấp, với Nhật về vài hải đảo, về vụ đánh
chìm tàu chiến Cheonan, và đòi chủ quyền các quần
đảo trong vùng Nam Hải.
Đã hẳn những sự kiện riêng rẽ đó không thể là những
yếu tố quyết định quan hệ của TQ đối với thế giới
bên ngoài. Tuy nhiên, mỗi một sự kiện đang khoác lên
một ý nghĩa lớn lao, bởi lẽ nổi lo âu của thế giới
bên ngoài, nhất là các quốc gia Á châu: TQ sẽ ngày
một có nhiều tham vọng; và vì sự nghi ngờ từ phía
TQ: Hoa Kỳ sẽ quyết tâm ngăn chặn sự trỗi dậy của
TQ. Mỗi một sự kiện sẽ được xem như một thử thách
những gì có thể sẽ xẩy ra.
Giải pháp sẽ là tìm cách tối thiểu hóa sự nghi kỵ
lẫn nhau giữa TQ và Hoa Kỳ. Điều nầy quả thật khó
khăn nhưng không phải vô vọng. TQ không đi tìm thuộc
địa mới và cũng không tìm cách xuất khẩu ý thức hệ.
TQ còn chia sẻ nhiều mục tiêu với Mỹ: ổn định, ngăn
ngừa phổ biến nguyên tử, và trên hết, một nền kinh
tế thế giới thịnh vượng. Những mục tiêu nầy chỉ có
thể đạt được trong hòa bình.
Thù nghịch luôn được nuôi dưỡng bởi thù nghịch;
chiến tranh là mẹ đẻ của chiến tranh. Trong địa
chính trị, cũng như trong sinh hoạt đời thường,
phương thuốc hay nhất là phòng ngừa. Khi quan hệ
biến thái thành đối nghịch, lúc đó thật khó lòng lùi
bước. Lãnh đạo TQ và Hoa Kỳ luôn nói đến tham vọng
đem lại những quan hệ tốt đẹp giữa các siêu cường.
Sự trỗi dậy của TQ không phải chỉ nhằm đem lại thịnh
vượng cho 1,3 tỉ dân TQ, chắc cũng không phải nhằm
đem lại thù nghịch hay xung đột với phần còn lại của
thế giới.
Trong mọi trường hợp, tương lai sẽ hoàn toàn do
chính chúng ta tạo dựng. Hòa bình hay chiến tranh,
thế giới hình như luôn vận hành theo chu kỳ nhân
quả.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
20-01-2010
Coolly observe, calmly deal with things,
hold your position, hide your capacities,
bide your time, accomplish things where
possible.
There is a perception in China that the West
needs China more than China needs the West.
We
used to hide our power - deny our power. But
then, this became increasingly impossible as
our strength increased.
Many Chinese scholars suggest that the
government give up the illusion of US
partnership and face squarely the profound
and inevitable strategic competition.
Power changes nations. It expands their
wants and desires, increases their sense of
entilement, their need for deference and
respect. It also makes them more ambitious.
It lessens their tolerance to obstacles,
their willingness to take no for an answer.
Westernizing, dividing and weakening.
The
Stockholm Internatioal Peace Research
Institute - SIPRI.
Let the Chinese people, especially the
youth, enhance their pride and
self-confidence in the nation and prevent
the rise of the worship of the West.
On
Tibet and Taiwan it's not just Chinese
ministers who bang tables, but Chinese
dissidents, too.
This is a people with a sense of their past
greatness, recent humiliation, present
achievement and future supremacy. It's a
potent mix.
If
we suppose that there are two options and
they use tough measures...and the leader
fails to resolve [a problem], he is
justified. But if [he] uses too much honey
and he fails, he is regarded as guilty by
all future generations.
The thing you have to understand is that
both of us think that the future belongs to
us. We can't both be right.
In
the space of a decade, China has transformed
itself from a sceptic of liberalized and
preferential trade into one of their
strongest proponents.
Asia's various forums and treaties 'looks
more like a list of cats and dogs than a
coherent and predictable framework for the
future".
I
put this catechism to them: 'Do you think
America should treat China as an equal if
its power grows equal to America's?' The
answer is always no. Then I ask, 'Do you
think China will settle for anything less
than being treated as equal?' The answer to
that is always no, too. Then I ask, 'So how
do you expect the US and China to get
along?' I usually get a shrug by way of
reply.
The United States insists we do not seek to
contain China's rise. On the contrary, we
welcome China as a strong and prosperous and
successful member of the community of
nations.
China's growing economy is joined by growing
responsibilities.
Until..it is determined that China's intent
is indeed benign, it is critical that we
maintain the readiness of our postured
forces; continually reinforce our commitment
to our allies and partners in the region;
and meet each chalenge by the PRC in a
professional manner that is consistent with
internatioal law.
China's interest in a peaceful and stable
environment is difficult to reconcile with
its evolving military capabilities.
When it comes to human rights and religious
freedom, China remains on the wrong side of
history.
America's complaint is "not that China says
no to global responsibility or denies its
role in world affairs, but rather that it
declines to say yes to every US request".
|