Những bài cùng tác giả

Với một xứ có hiến pháp hòa bình, Nhật Bản đang có quá nhiều vũ khí. Thực
vậy, Nhật, quốc gia các hải đảo Á châu, đã được xem như hàng không mẫu hạm
và căn cứ hải quân khổng lồ của lực lượng quân sự Mỹ. Hoa Kỳ có lẽ đã không
thể theo đuổi hai cuộc chiến Việt Nam và Triều Tiên mà không có trên dưới 90
căn cứ quân sự rải rác quanh các hải đảo của đồng minh Thái Bình Dương quan
trọng nầy. Ngay cả hiện nay, Nhật vẫn giữ vai trò một phiên bản những gì còn
sót lại từ chính sách ngăn đê trong thời chiến tranh lạnh khi nói đến Trung
Quốc (TQ) hay Bắc Hàn. Từ Yokota và căn cứ không quân Kadena, Hoa Kỳ có thể
gửi quân đội và oanh tạc cơ đến khắp Á châu, trong khi căn cứ Yokosuka gần
Tokyo là căn cứ hải quân Hoa Kỳ lớn nhất ở hải ngoại.
Nhiều người những tưởng với bấy nhiêu căn cứ ở Nhật, Hoa Kỳ sẽ chẳng mấy bận
tâm khi phải đóng cửa một trong những căn cứ nầy. Họ đã lầm to. Tranh chấp
hiện nay về căn cứ không quân của Thủy Quân Lục Chiến ở Futenma trên đảo
Okinawa - một quận đảo lối 1.000 dặm phía Nam Tokyo, với khoảng 36 căn cứ và
75% lực lượng Hoa Kỳ ở Nhật - đang ngày một nghiêm trọng hơn. Trong thực tế,
Hoa Thịnh Đốn hình như sẵn sàng cá cược uy danh và quan hệ với chính quyền
mới ở Nhật trên số phận của chính căn cứ nầy. Cuộc tranh luận đã phơi bày
nỗi âu lo của Hoa Kỳ trong kỷ nguyên Obama.
Thoạt nhìn, Futenma chỉ là một căn cứ lỗi thời.Theo thỏa ước giữa chính
quyền Bush và chính phủ Nhật trước đây, Hoa Kỳ đã có kế hoạch di chuyển hầu
hết thủy quân lục chiến nay còn ở Futenma qua đảo Guam. Tuy nhiên, mặc dù
dân chúng Okinawa và Tokyo chống đối, chính quyền Obama vẫn khăng khăng đòi
hỏi người Nhật phải thi hành thỏa ước thiết lập một căn cứ mới thay thế phần
lớn căn cứ Futenma trong một khu vực ít cư dân hơn của Okinawa.
Sự tranh chấp hiện nay giữa Tokyo và Hoa Thịnh Đốn không chỉ là một "cơn
cuồng phong trên Thái Bình Dương" (Pacific Squall), như tạp chí Newsweek đã
mô tả. Sau sáu thập kỷ luôn vâng dạ trước mọi đòi hỏi của Mỹ, cuối cùng Nhật
bản hình như sắp trả lời "không" trước một yêu cầu quan trọng đối với Hoa
Thịnh Đốn, và mối quan hệ Dwight D. Eisenhower có lần đã gọi một "liên minh
bất diệt" (indestructible alliance) đang phơi bày những rạn nứt ngày một rõ
nét. Tệ hơn nữa, trong nhãn quan của Ngũ Giác Đài, sự đề kháng của Nhật rất
có thể mang tính truyền nhiễm - một lý do quan trọng vì sao Hoa Kỳ đã cá
cược cả một liên minh chỉ vì việc đóng cửa một căn cứ lỗi thời và xây dựng
một căn cứ khác không mấy có giá trị chiến lược.
Trong thời chiến tranh lạnh, Ngũ Giác Đài e ngại nhiều quốc gia có thể rơi
rụng như những dominoes trước đà tiến không ngừng của chủ nghĩa Cộng Sản.
Ngày nay, Ngũ Giác Đài lại lo âu một thứ hậu quả domino khác. Ở Âu châu, các
quốc gia thành viên NATO đang từ chối ủng hộ vô điều kiện cuộc chiến của
người Mỹ ở Afghanistan. Ở Phi châu, không một quốc gia nào sẵn sàng cho phép
Bộ Tư Lệnh Phi Châu mới của Ngũ Giác Đài đặt tổng hành dinh. Ở Châu Mỹ La
Tinh, Ecuador nhỏ bé đã từ chối gia hạn thỏa ước cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn
cứ không quân ở Manta.
Tất cả những sự kiện đó đã hẳn là những triệu chứng uy tín toàn cầu của quân
lực Hoa Kỳ đang suy giảm. Nhưng sự đề kháng hiện nay ở Nhật là dấu hiệu chắc
chắn nhất: số căn cứ quân sự ở hải ngoại mang tính đế quốc của Mỹ đã lên
đỉnh cao và sẽ tụt dần trong một tương lai không xa.
KHÔNG CÒN MÃI YES, SIR!
Cho đến một ngày gần đây, Nhật luôn là một nhà nước độc đảng. Điều đó không
hề làm Hoa Kỳ phiền lòng. Đảng cầm quyền lâu dài, Liberal Democratic Party -
LDP, đã duy trì một quan hệ lưỡng đảng nồng ấm nhất với các nhà làm chính
sách Hoa Thịnh Đốn và Câu Lạc Bộ Hoa Cúc (Chrysanthemum Club) của các bình
luận gia thân Nhật. Một tiết lộ gần đây - năm 1969, nhượng bộ trước đòi hỏi
của T T Richard Nixon, Nhật đã bí mật tiếp đón các tàu chiến trang bị vũ khí
hạt nhân của Mỹ, mặc dù trái với nguyên tắc phi nguyên tử của Tokyo - đã vén
màn cho thấy một chấm nhỏ trong thái độ đàn em của nhà cầm quyền Nhật.
Kể từ ngày chiến tranh lạnh bắt đầu , các chính phủ kế tiếp ở Nhật đã luôn
chiều theo mọi ước muốn của Hoa Thịnh Đốn. Khi chính quyền Nhật hạn chế xuất
khẩu quân sự gây trở ngại cho liên minh, Tokyo vẫn luôn dành biệt lệ cho Hoa
Kỳ. Khi nhu cầu hợp tác trong vấn đề phòng vệ tên lửa, mâu thuẩn với chính
sách ngăn cấm quân sự hóa không gian, Tokyo lại khua đũa thần và sự cấm đoán
tan biến.
Mặc dù hiến pháp Nhật từ chối "sự đe dọa hay sử dụng vũ lực như phương tiện
giải quyết các tranh chấp quốc tế", để bù lại, Hoa Thịnh Đốn đã thúc đẩy
Tokyo giúp trang trải các chi phí của cuộc phiêu lưu quân sự của Mỹ trong
cuộc chiến vùng Vịnh lần đầu chống lại Saddam Hussein năm 1990-91. Và Tokyo
đã ngoan ngoản vâng theo. Tiếp đó, từ tháng 11-2001 cho đến gần đây, Hoa
Thịnh Đốn đã "thuyết phục" người Nhật tiếp tế nhiên liệu trong vùng Ấn Độ
Dương cho các tàu chiến và phi cơ chiến đấu Mỹ ở Afghanistan. Năm 2007, Ngũ
Giác Đài ngay cả gây áp lực đòi hỏi Tokyo tăng ngân sách quốc phòng để giúp
trang trải nhiều hơn nữa các chi phí của liên minh.
Đã hẳn, đảng LDP đã chiều theo các đòi hỏi nói trên chỉ vì chúng đan xen hài
hòa với các kế hoạch riêng của đảng muốn uốn nắn luồn lách hiến pháp hòa
bình của Nhật và tăng cường quân lực. Trong thực tế, suốt hai thập kỷ vừa
qua, Nhật đã tậu mãi nhiều khí giới tối tân, kể cả phản lực cơ chiến đấu,
khả năng tiếp liệu xăng dầu trên không trung, và tàu chiến có chức năng hàng
không mẫu hạm. Nhật cũng đã tu chính Luật các Lực Lượng Tự Vệ 1954 (1954
Self-Defense Forces Law) trên 50 lần để ấn định những gì quân lực Nhật có
thể và không thể làm, và đem lại khả năng hành động với sức mạnh tấn công.
Mặc dù được trang bị một hiến pháp hòa bình, ngày nay Nhật có một quân lực
hàng đầu thế giới.
Sau cuộc bầu cử tháng 8-2009, Đảng Dân Chủ Nhật Bản (Democratic Party of
Japan - DPJ) lên thay thế LDP sau hơn một nửa thế kỷ cầm quyền, với một sứ
mệnh lớn lao: thay đổi. Trong bối cảnh kinh tế quốc gia đang tiếp tục xuống
dốc, DPJ phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề đối nội và cắt giảm chi
tiêu. Vì vậy, không ai ngạc nhiên, khi tìm cách cắt xén ngân sách, DPJ đã rà
soát lại liên minh với Hoa Kỳ. Khác với hầu hết các quốc gia chấp nhận sự
hiện diện của các căn cứ quân sự Mỹ, Nhật Bản còn phải gánh chịu hầu hết các
chi phí duy trì các căn cứ nầy: khoảng trên 4 tỉ USD mỗi năm tiền hỗ trợ
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trong trạng huống đó, chính phủ mới của Thủ Tướng Yukio Hatoyama đã đưa ra
một đề nghị thực sự khiêm tốn: đặt liên minh Mỹ-Nhật, dùng ngôn từ trong
hiện tình, trên một căn bản bình đẳng hơn (on a more equal footing).
Hatoyama đã khởi đầu cách tiếp cận mới mang tính tượng trưng bằng cách chấm
dứt sứ mạng tiếp liệu xăng dầu trên Ấn Độ Dương (mặc dù Tokyo đã tìm cách
tiết giảm tác động của quyết định nầy với ngân khoản 5 tỉ USD trong 5 năm
viện trợ phát triển dành cho chính phủ Afghanistan).
Quan trọng hơn nữa, chính quyền Hatoyama cũng đã cho biết ý định giảm bớt
ngân sách hỗ trợ duy trì các căn cứ. Đường lối thắt lưng buộc bụng Hatoyama
đề nghị đã được đưa ra trong thời điểm bất thuận lợi đối với chính quyền
Obama, hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc tài trợ hai cuộc chiến tốn
kém và mạng lưới quân sự toàn cầu trên 700 căn cứ. Gánh nặng "các chiến dịch
không tiên liệu ở hải ngoại" (overseas contingency operations) đang ngày một
gia tăng, và ngày một ít quốc gia sẵn lòng chung vai gánh vác.
ĐỘNG VẬT QUÍ HIẾM VÀ DÂN CHỦ
Nguyên do căng thẳng trước mắt trong quan hệ Mỹ-Nhật là chính phủ mới đã tỏ
ý muốn tái thương thảo thỏa ước 2006: đóng cữa Futenma, di chuyển 8000 thủy
quân lục chiến qua Guam, và xây dựng một căn cứ mới ở Nago, một vùng thưa
thớt dân cư thuộc Okinawa. Đây là thỏa ước mang tính bắt nạt, ép buộc một
chính quyền đang gặp khó khăn tài chánh phải trả một chi phí quá cao: năm
2006, Tokyo đã hứa sẽ bỏ ra 6 tỉ USD chỉ để giúp di chuyển thủy quân lục
chiến qua Guam.
Cái giá chính trị đối với chính phủ mới - nếu phải thực thi thỏa ước khùng
điên do đảng LDP tiền nhiệm ký kết- có lẽ còn cao hơn. Xét cho cùng, DPJ đã
được hậu thuẩn lớn lao của cử tri Okinawa, đang bất mãn với thỏa ước 2006 và
muốn thấy sự chiếm đóng đảo Okinawa của người Mỹ chấm dứt.Trong nhiều thập
kỷ vừa qua, với các căn cứ kế cận của Mỹ trong nhiều khu đông dân, người
Okinawans đã phải chịu đựng nhiều loại ô nhiễm - không khí, nước uống, ồn
ào, các tai nạn như trực thăng rơi ở Đại Học Quốc Tế Okinawa năm 2004, và
các tội phạm từ chạy xe quá tốc độ đến 3 thủy quân lục chiến hãm hiếp một em
bé 12 tuổi năm 2005... Theo kết quả cuộc thăm dò công luận tháng 6-2009, 68%
dân Okinawa chống lại quyết định dời căn cứ Futenma đến một địa điểm khác
bên trong Okinawa, và chỉ 18% đồng ý. Trong khi đó, Đảng Dân Chủ Xã Hội
(Social Democratic Party - SDP) - đảng thiểu số trong liên minh cầm quyền
hiện nay - đã đe dọa sẽ rút khỏi liên minh nếu Hatoyama không giữ lời cam
kết, trong quá trình vận động tuyển cử, sẽ không xây dựng một căn cứ mới ở
Okinawa.
ĐỘNG VẬT QUÍ HIẾM VÀ NGUY CƠ DIỆT CHỦNG
Ngoài ra, còn vấn đề động vật quí hiếm dugong (bò biển), tương tự với loài
manatee, một đông vật sống ở biển, lai chủng giữa walrus và dolphin và là
đầu mối của huyền thoại mermaid. Chỉ còn khoảng 50 dugong đang bị đe dọa
diệt chủng, sống trong vùng biển gần Nago, nơi được chọn xây căn cứ thay thế
mới. Nhiều luật sư Nhật và các nhà bảo vệ môi trường và đa dạng sinh thái Mỹ
đã yêu cầu tòa án liên bang ngăn chặn việc xây căn cứ mới ở Nago, để bảo vệ
dugong. Trong thực tế, ngay cả khi Ngũ Giác Đài muốn kháng án lên Tối Cao
Pháp Viện, các luật sư và giới bảo vệ môi sinh quyết định sẽ theo đuổi vụ
kiện đến cùng. Với thủ tục pháp lý kéo dài, căn cứ mới có thể không bao giờ
tiến xa hơn bàn vẽ họa đồ căn cứ.
Vì các lý do môi sinh, chính trị, và kinh tế, việc dẹp bỏ thỏa ước 2006
không phải là vấn đề khó khăn rắc rối đối với Tokyo. Tuy nhiên, trước quyết
tâm thi hành thỏa ước 2006 xây dựng một căn cứ mới không mấy giá trị chiến
lược của Hoa Thịnh Đốn, thách thức đối với DPJ là đã phải tìm một địa điểm
khác hơn là Nago. Chính quyền Nhật đã thăm dò khả năng nhập chung căn cứ
Futenma vào Kadena, một căn cứ khác của Mỹ trên đảo Okinawa. Nhưng kế hoạch
nầy hoặc một địa điểm khả dĩ khác ở Nhật đã gặp phải sự chống đối mạnh mẻ
của dân chúng địa phương. Đề nghị mở rộng các căn cứ ở Guam cũng đã bị thống
đốc đảo Guam từ chối.
Giải pháp cho nội vụ giờ đây đã khá rõ ràng: đóng cửa căn cứ Futenma mà
không đòi hỏi xây căn cứ mới nào khác. Nhưng cho đến nay, Hoa Kỳ vẫn còn từ
chối một giải pháp dễ dàng cho Nhật. Trong thực tế, Hoa Thịnh Đốn đang làm
mọi việc có thể để dồn chính phủ mới ở Nhật vào góc tường.
TĂNG ÁP LỰC
Sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Okinawa là do quyết tâm ngăn đê đối với cường
quốc quân sự duy nhất có thể đe dọa địa vị bá chủ của Hoa Kỳ cũng như tàn
tích còn sót lại từ thời chiến tranh lạnh. Trong thập kỷ 1990s, giải pháp
cho một Trung Quốc đang lên của chính quyền Clinton là hội nhập, nhưng với
rào dậu (integrate, but hedge). Với Clinton, rào dậu chỉ tập trung quanh
liên minh Mỹ-Nhật và một lực lượng quân sự Nhật được tăng cường để đủ sức
răn đe phòng ngừa.
Điều chính quyền Clinton và những Tổng Thống kế nhiệm đã không tiên liệu là
Trung Quốc đã có thể vô hiệu hóa chiến lược rào dậu một cách hiệu quả và hòa
bình qua khả năng lãnh đạo thận trọng và một chính sách mậu dịch kiên cường.
Một số các quốc gia Đông Nam Á, kể cả Phi Luật Tân và Indonesia, đã sớm
nhượng bộ và phục tùng hình thức ngoại giao hầu bao (checkbook diplomacy)
của Trung Quốc. Kế đó, trong thập kỷ vừa qua, Nam Hàn, cũng như Nhật hiện
nay, cũng bắt đầu nói đến khả năng thiết lập một quan hệ bình đẳng hơn với
Hoa Kỳ trong một nổ lực tránh né sự khả dĩ bị lôi kéo vào bất cứ hình thức
cọ xát quân sự nào giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh trong tương lai.
Ngày nay, không còn những khuôn mặt bảo thủ nòng cốt trong chính quyền, Nhật
Bản rõ ràng đang bị quyến rũ bởi sức hấp dẫn của Trung Quốc. Năm 2007, Trung
Quốc đã qua mặt Hoa Kỳ trong vai trò đối tác thương mãi hàng đầu của Nhật.
Khi lên nắm quyền thủ tướng, Hatoyama đã khôn khéo đưa ra đề nghị thành lập
một Cộng Đồng Đông Á tương lai theo dạng thức Liên Hiệp Âu Châu. Trong viễn
kiến của Hatoyama, mô hình nầy có thể là đòn bẩy giúp nâng cao địa vị của
Nhật giữa một Trung Quốc đang lên và một Hoa Kỳ đang đi xuống. Tháng 12-
2009, trong khi Hoa Thịnh Đốn và Tokyo đang tranh chấp gay gắt về vấn đề căn
cứ Okinawa, lãnh tụ đảng DPJ, Ichiro Ozawa, đã gửi một tín hiệu đến Hoa
Thịnh Đốn cũng như Bắc Kinh khi đích thân hướng dẫn môt phái đoàn 143 đoàn
viên các nhà lập pháp đảng ông qua thăm Trung Quốc trong 4 ngày.
Không có gì đáng ngạc nhiên, chính sách đầy ấn tượng và choáng ngợp của TQ
đã tác động như chuông báo động ở Hoa Thịnh Đốn, nơi Trung Quốc luôn là tâm
điểm quan ngại hàng đầu của nhóm hoạch định chiến lược bên trong Ngũ Giác
Đài. Trong bối cảnh đó, căn cứ Futenma hay căn cứ thay thế tọa lạc rất đúng
chỗ, trong trường hợp Hoa Thịnh Đốn cần quyết định gửi các đơn vị phản ứng
nhanh đến eo biển Đài Loan, Nam Hải, hay bán đảo Triều Tiên. Các nhà hoạch
định chiến lược Hoa Thịnh Đốn thường nhắc đến "khoảng cách độc tài" (tyranny
of distance), đến khó khăn gửi quân đến hiện trường (boots on the ground) từ
Guam hay Hawaii trong trường hợp khẩn cấp ở Đông Á.
Tuy nhiên, giá trị chiến lược tối đa của căn cứ Futenma thực sự cũng chẳng
đáng quan tâm. Để đối phó với tình trạng khẩn cấp trên bán đảo Triều Tiên,
Nam Hàn chắc chắn có nhiều khả năng hơn. Và Hoa Lục thực ra cũng ở trong tầm
hoạt động của hỏa lực hùng hậu hàng không (Kadena), hàng hải (Yokosuka) của
Hoa Kỳ. Vài nghìn thủy quân lục chiến sẽ chẳng mấy quan trọng. Tuy nhiên,
trong môi trường chính trị đòi hỏi Ngũ Giác Đài phải quyết định lựa chọn khó
khăn giữa việc tài trợ các cuộc chiến "chống trổi dậy" (counterinsurgency
wars) và các hệ thống vũ khí thời chiến tranh lạnh, các lực lượng vận động
hành lang "đe dọa Trung Quốc" ("China threat" lobby) không muốn bất cứ
nhượng bộ nào dù nhỏ nhoi. Thất bại trong đòi hỏi di dời căn cứ Futenma ngay
bên trong hải đảo Okinawa rất có thể chỉ là bước trượt chân đầu trên triền
dốc trơn trợt có khả năng gây tốn kém hàng tỉ USD trong các loại vũ khí
Chiến Tranh Lạnh vẫn đang nằm trong dây chuyền sản xuất. Thật khó lòng để
biện minh việc mua sắm các đồ chơi cao cấp mà chẳng có sân chơi.
Vì lý do đó, chính quyền Obama đã gây áp lực nặng nề buộc Tokyo phải thực
thi thỏa ước 2006. Tháng 10-2009, Obama còn gửi cả bộ trưởng quốc phòng
Robert Gates tới thủ đô Nhật trước ngày chính thức công du Á châu. Tương tự
như người cha nóng lòng cảnh cáo đứa con bướng bỉnh, Gates đã lên giọng
thuyết giảng người Nhật phải tuân thủ thỏa ước - gây bất bình cả trong chính
quyền mới lẫn công chúng Nhật.
Như có thể dự đoán, giới bình luận gia đã đồng lòng ủng hộ lập trường lưỡng
đảng của nhóm đồng thuận Hoa Thịnh Đốn (Washington Consensus): chính quyền
mới của Nhật cần phải làm quen với vai trò đàn em như các vị tiền nhiệm và
phải chấm dứt thái độ bướng bỉnh đối nghịch. Biên tập viên Tred Hiatt báo
Washington Post viết: Chính quyền Obama rất bất xúc với lối "ứng xử tay mơ
của Hatoyama trong vấn đề nầy" . Victor Cha, nguyên giám đốc Á Châu Sự Vụ
trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, nói thêm: "Hậu quả của sự thiếu vắng một
chiến lược rõ ràng hay kế hoạch hành động của Hatoyama là lỗ trống chính trị
lớn lao nhất trong hơn 50 năm qua" . Cả hai nhà bình luận đều không công
nhận sự "thiếu vắng" hay "hành động tay mơ" duy nhất của Tokyo chỉ là đã dám
chống lại Hoa Thịnh Đốn. Tạp chí The Economist đã nhấn mạnh một cách trắng
trợn hơn: "Sự tranh chấp có thể đã gây tổn hại cho an ninh ở Đông Á trong
dịp kỷ niệm 50 năm của một liên minh đã phục vụ khu vực nầy khá thành công.
Dù khá khó khăn cho chính quyền mới ở Nhật, chính phủ Hatoyama cần phải chấp
nhận phần lớn, dù không phải tất cả, các nhượng bộ" .
Thực ra, chính quyền Hatoyama không hề cực đoan hay chống Mỹ. Họ cũng không
chuẩn bị đòi hỏi tất cả, hay ngay cả phần lớn các căn cứ quân sự, phải đóng
cữa. Họ cũng không chuẩn bị ngay cả đóng bất cứ căn cứ nào trong khoảng trên
36 căn cứ ở Okinawa. Đòi hỏi khiêm tốn nhất của họ chỉ hạn chế vào căn cứ
Futenma, nơi họ đang bị kẹt giữa công luận Nhật và áp lực của Ngũ Giác Đài.
Những quan chức chủ trương - Hoa Thịnh Đốn nên thương thảo với Tokyo về các
mục tiêu phải thành đạt một cách nhẹ nhàng gián tiếp - đã lên tiếng khuyến
cáo nên kiên nhẫn. Joseph Nye, kiến trúc sư chính sách Á châu của Hoa Kỳ
thời Clinton, viết: "Nếu người Mỹ làm mất thể diện hay uy tín của chính
quyền mới ở Nhật, và gây bức xúc hay oán hận trong công chúng Nhật, một
chiến thắng về Futenma lúc đó chỉ có thể là một chiến thắng quá đắt giá" .
Họ thúc dục Hoa Kỳ nên đợi đến mùa hè - khi DPJ tìm cách giành thêm vài ghế
đại biểu trong cuộc bầu cử Quốc Hội sắp tới hầu loại bớt vài đối tác trong
liên minh - nếu lúc đó Hoa Kỳ thấy hành động như vậy là cần thiết.
Tuy nhiên, ngay cả khi đảng SDP không còn hiện diện trong chính quyền để nêu
vấn đề căn cứ Okinawa, DPJ vẫn phải đối mặt với tinh thần dân chủ của quần
chúng. Người dân Okinawa triệt để chống đối một căn cứ mới. Cư dân ở Nago,
nơi căn cứ có thể được xây như đã dự định, mới bầu lên một thị trưởng với
nghị trình không chấp nhận căn cứ quân sự. Đã hẳn không một ai có thể quan
niệm đảng cầm quyền mới đem lại dân chủ cho Tokyo lại bóp chết dân chủ ở
Okinawa.
TÁC ĐỘNG DÂY CHUYỀN VÀ NHU CẦU CHIẾN LƯỢC MỚI
Bất cứ quân lực Hoa Kỳ đặt chân đến đâu ở hải ngoại, nơi đó nhiều phong trào
sẽ mọc lên chống đối các hậu quả quân sự, xã hội, môi sinh của các căn cứ
quân sự. Cho đến nay, các phong trào loại nầy đã ghi nhận được vài thành
công, như việc đóng cữa căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ ở Vieques, Puerto Rico, năm
2003. Ở Thái Bình Dương, phong trào cũng đã để lại dấu ấn. Tiếp theo sau núi
lửa bùng phát ở Mt. Pinatubo, các nhà hoạt động dân chủ ở Phi Luật Tân đã
thành công đóng cữa căn cứ không quân Clark Air Force Base và căn cứ hải
quân Subic Bay Naval Station trong hai năm 1991-1992. Về sau, các nhà hoạt
động Nam Hàn đã thành công đóng cữa căn cứ khổng lồ Yongsan ở trung tâm
thành phố Seoul.
Đã hẳn, trên đây chỉ là những thắng lợi phân bộ. Sau đó không lâu, Hoa Thịnh
Đốn đã thương thảo thành công Thỏa Ước Các Lực Lượng Viếng Thăm (Visiting
Forces Agreement) với Phi Luật Tân, theo đó quân lực Hoa Kỳ có thể tái giàn
trải quân đội và trang bị ở Phi, và thay thế căn cứ Yongsan ở Hàn Quốc với
căn cứ mới ở Pyeongtaek gần Seoul. Nhưng những thắng lợi
không-ở-sân-sau-của-tôi (not-in-my-back-yard - NIMBY) cũng vẫn còn có đủ ý
nghĩa vì đã buộc Ngũ Giác Đài phải chấp nhận một học thuyết quân sự đặt nặng
tính di động của các vị trí. Quân đội Mỹ ngày nay dựa trên tính mềm dẻo của
chiến lược (strategic flexibility) và phản ứng nhanh (rapid response), cả
hai nhằm đối phó với những đe dọa bất thần và sự khả dĩ thay lòng đổi dạ của
đồng minh.
Thực vậy, chính quyền Hatoyama có thể phải tập nói "không" với Hoa Thịnh Đốn
về vấn đề các căn cứ ở Okinawa. Rõ ràng đang lưu ý đến sự khả dĩ nầy,
Richard Armitage, nguyên thứ trưởng ngoại giao và nguyên đại sứ ở Nhật, đã
gợi ý: Hoa Kỳ tốt hơn hết nên chuẩn bị "kế hoạch B (plan B)". Dù sao, thắng
lợi của phong trào chống căn cứ quân sự cũng chỉ mang tính phân bộ. Lực
lượng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đồn trú ở Nhật, và đặc biệt ở Okinawa, và Tokyo
chắc phải tiếp tục trả mọi chi phí duy trì các căn cứ.
Tuy nhiên, lên tinh thần nhờ các thắng lợi phân bộ nầy, các phong trào NIMBY
có khuynh hướng lan tràn ở Nhật và trong khu vực, đặc biệt ở các căn cứ
Okinawa, lục địa Nhật, và nhiều nơi khác trong Thái Bình Dương, kể cả Guam.
Thực vậy, phong trào phản đối đã xuất hiện ở Guam chống lại dự kiến bành
trướng Căn Cứ Không Quân Andersen và Căn Cứ Hải Quân Guam để đáp ứng nhu cầu
các thủy quân lục chiến sắp chuyển đến từ Okinawa. Và điều nầy đã làm các
nhà hoạch định Ngũ Giác Đài âu lo.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã sử dụng chiến lược nhảy từ đảo nầy qua đảo
khác để tiến ngày một gần hơn đến lục địa Nhật. Okinawa là hòn đảo cuối cùng
và trận chiến quan trọng cuối cùng của chiến dịch, và thương vong trong trận
chiến ở đó nhiều hơn số thương vong của bom hạt nhân sau đó ở Hiroshima và
Nagasaki gộp lại: 12.000 quân Mỹ, hơn 100.000 quân Nhật , và có lẽ 100.000
thường dân Okinawa. Kinh nghiệm lịch sử nầy đã tăng cường ý chí hòa bình của
người Okinawa.
Xung đột hiện nay về Okinawa một lần nữa đang diễn ra giữa Hoa Kỳ và Nhật
Bản, và một lần nữa, dân Okinawa vẫn là nạn nhân. Nhưng lần nầy có nhiều hy
vọng người dân Okinawa sẽ thắng.
Một thắng lợi đóng cữa Futenma và ngăn chặn một căn cứ mới có thể là bước
đầu trong quá trình ngược dòng nhảy vọt từ đảo nầy qua đảo khác. Cuối cùng,
một ngày nào đó, phong trào NIMBY rất có thể sẽ thành công đẩy quân lực Mỹ
ra khỏi Nhật Bản và Okinawa. Tuy nhiên, quá trình khó lòng hoàn toàn êm dịu
và cũng khó thể sớm xẩy ra. Nhưng dù sớm dù muộn, như Armitage đã khuyến
cáo, người Mỹ tốt nhất cũng cần chuẩn bị trước một kế hoạch B.
Khi bàn đến vấn đề rạn nứt trong lâu đài đế quốc Mỹ, như được đo lường qua
khả năng các quốc gia trả lời "không" với Hoa Thịnh Đốn hay chỉ không nhìn
cùng hướng khi các quan chức Hoa Kỳ đưa ra một đòi hỏi, Âu châu gần đây đã
chiếm hầu hết các tin hàng đầu trên báo chí. Các xứ nầy trước đây cũng là
những nước luôn hồ hởi hùa theo người Mỹ.
"Gates: NATO, in crisis...", "Pull Your Weight, Europe", "Gates: Europe's
demilitarization has gone too far", "Dutch Retreat" ...Tất cả những hàng tít
đó chỉ quy về một nước - Hà Lan. Trước áp lực quần chúng ngày một gia tăng
đối với chiến tranh ở Nam Á, Hà Lan quyết định sẽ rút quân khỏi Afghanistan,
và nhiều thành viên NATO khác cũng đã tỏ thái độ úp mở trước lời thỉnh cầu
của Mỹ cũng như rất dè dặt trong việc gửi quân tăng viện đến Afghanistan.
Sự thực, Âu châu còn lâu mới sẵn sàng nói "không" dứt khoát với Hoa Thịnh
Đốn trong nhiều vấn đề. Ở Á châu, từ một nửa thế kỷ nay chưa một khách hàng
nòng cốt nào của Mỹ đã trả lời "không". Tuy nhiên, đôi khi chỉ cần một vết
rạn nhỏ trên bề mặt cũng có thể đem lại nhiều đổi thay quan trọng. Trong
trường hợp nầy, "một tiềm năng nói 'không' khiêm tốn nhất" của chính phủ mới
ở Nhật về các căn cứ quân sự của Mỹ hình như đã gần như gây hoảng hốt ở Hoa
Thịnh Đốn. Dù sao, ở Âu châu cũng như Á châu, chưa ai bao giờ đã cảm nhận
các địa chấn chính trị.
Tuy nhiên, bên dưới bề mặt lắng dịu, các địa tầng chính trị toàn cầu đang cọ
xát nhau, và ai có thể nói lúc nào, trong quá trình chuyển dịch quyền lực
chậm chạp trên hành tinh, một trong các địa tầng sẽ trượt, và đột nhiên cán
cân quyền lực toàn cầu sẽ đổi khác.
Trong một cọ xát về một căn cứ không mấy quan trọng ở Okinawa, thế giới cũng
rất có thể sẽ cảm nhận những rung chuyển dọc theo đường rạn nứt Á châu trong
kiến trúc quyền lực toàn cầu của Mỹ.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
14-4-2010
|