Trong cuốn
Principles of Political Economy,
John Stuart Mill viết, chúng ta thường
nghe nói chính quyền cần phải tự giới
hạn vào việc bảo vệ người dân chống lại
bạo lực và lừa đảo; ngoài ra người dân
phải được hoàn toàn tự do để có thể tự
mình lo toan cho chính mình. Nhưng tác
giả lại tự hỏi, trước các tai ương của
kinh tế thị trường, tại sao người dân
lại không được chính quyền bảo vệ sâu
rộng hơn nữa - có nghĩa là bởi sức mạnh
tập thể của chính họ?
Cũng như Mill, Paul
Krugman, người được giải Nobel kinh tế
năm 2008, rất tán thưởng các canh tân,
nhưng không thích những cuộc khủng
hoảng, do chủ nghĩa tư bản đem lại.
Krugman nghĩ, chính quyền phải có trách
nhiệm tạo điều kiện dễ dàng cho canh tân
và bảo vệ người dân chống lại khủng
hoảng. Krugman không tin người dân có
thể được giới tài phiệt, ngay cả phần
đông các kinh tế gia, che chở và bảo vệ,
trừ phi chúng ta phải tìm hiểu thấu đáo
những trò chơi tinh vi, xảo quyệt để
giúp các nhà lập pháp đạt được đồng
thuận về phương cách quy định, giám sát.
Mill nghĩ chúng ta phải thấu triệt
tính động của kinh tế chính trị chứ
không chỉ tính tỉnh của môn học
nầy.
Chính vì vậy, trong
hai mươi năm qua, Krugman đã miệt mài
theo dõi các mô hình, phân tích các con
số, và đưa ra nhiều cảnh báo, như trong
tác phẩm bị đánh giá một cách hết sức
sai lầm - The Return of Depression
Economics (1999), một tác phẩm hàng
đầu về sự sụp đổ tài chánh của Nhật, các
con rồng Á châu, và châu Mỹ La Tinh, rõ
ràng với mục đích cảnh báo người Mỹ về
những nguy cơ cho chính họ. Tác phẩm đã
ra đời vào một thời điểm cực kỳ bất lợi,
vào đúng cuối thiên niên kỷ thứ hai.
Cuộc cách mạng kỹ thuật đang nở rộ,
Google vừa tròn một năm tuổi, và Enron
được liên tiếp bầu chọn là công ty đáng
khen ngợi trong bốn năm liền. Cùng lúc,
ngân sách thặng dư, Tòa Bạch Ốc,
Clinton, Cục Dự Trữ Liên Bang và Quốc
Hội, đều nhất trí: quy định và giám sát
credit default swaps là một sỉ
nhục đối với tính chuyên nghiệp của giới
ngân hàng đầu tư.
Còn đối với các vấn
đề gần đây đã gây khó khăn cho các nền
kinh tế trên thế giới thì sao? Phải
chăng Wall Street đang ôn tập cuộc thoái
trào của Nhật? Các định chế tài chánh
mang nặng tính chính trị của Mexico?
Quản trị viên nào của một công ty bảo
hiểm Hoa Kỳ, luôn đầy đủ thông tin,và
luôn trung thành với giá trị của cổ
đông, đã cho phép ban quản lý nhận bảo
kê cho các vụ cá cược , hay các giao
dịch đầy rủi ro bất trắc, chẳng chút dè
dặt? Và các vị tổng thống liên tiếp của
Hoa Kỳ cũng làm ngơ! Người ta bảo
Krugman chẳng hiểu gì hết.
Trong thực tế, tác
phẩm The Return là cuốn sách cuối
cùng Krugman xuất bản trước khi viết bài
cho trang biên tập của báo The New
York Times, trong đó tác giả kiên
trì kêu gọi phải minh bạch, giản dị, và
bảo đảm an toàn cho giới làm công.
Krugman vận động tích cực thiết lập một
chương trình bảo hiểm y tế quốc gia cho
toàn dân; đả kích biện pháp giảm thuế
của Dick Armey và những vận động thầm
lén của Karl Rove. Sau cuộc tuyển cử
2004, Krugman đã đơn thương độc mã gây
áp lực buộc các dân biểu, nghị sĩ Cộng
Hòa đang do dự, phải từ bỏ đề nghị của
Bush cho phép Aunt Sheila tự mình đầu tư
một phần tiền an sinh xã hội của bà vào
thị trường chứng khoán. Từ năm 2006,
Krugman đã là người khởi xướng phục hồi
lý thuyết Keynes; và từ hơn một năm nay,
đã sớm cảnh báo một cuộc khủng hoảng
kiểu Argentina đang rình rập, vì lẽ các
nhà đầu tư toàn cầu không sớm thì muộn
sẽ hiểu: ngay cả người Mỹ cũng không thể
thu hút hết số tiết kiệm thặng dư trên
thế giới; và các thủ thuật, tinh vi thì
ít mà ngụy xảo thì nhiều1,
trên các các thị trường tài chánh Hoa
Kỳ.
Trong cuốn The
Return, được cập nhật, Krugman muốn
lặp lại những luận cứ đưa ra từ lâu: một
định chế tài chánh chúng ta không dám để
cho phá sản hay thất bại, chúng ta cũng
không thể để tự tung tự tác, thiếu quy
định và giám sát; một cộng đồng xã hội
phải sử dụng quyền chi tiêu và đầu tư và
nhất là để hỗ trợ phát triển khi các thị
trường ít nhiều tự do cũng ít nhiều khó
tránh làm chúng ta thất vọng.2
Cuốn The Return
chỉ dày 191 trang nhưng tác giả lại rất
tham vọng, một lúc bàn đến ba vấn đề
đang được tranh cãi.
Đề tài thứ nhất phác
họa phương cách các thị trường tài chánh
Á châu và châu Mỹ La Tinh đã gây ra
những cuộc thoái trào bất thần, hay
những vòng xoáy lạm phát, hay những nạn
phá giá tiền tệ, hay cùng lúc tất cả
những tai họa đó. Nhiều chính quyền,
ngay cả những chính quyền cố gắng theo
đuổi những quy luật thuế khóa tài chánh
bảo thủ, phải đối đầu với những lựa chọn
gay cấn: hoặc từ chối in thêm tiền, ráng
chịu đựng thoái trào và để người dân gặp
nhiều khó khăn tức khắc; hoặc in thêm
tiền, làm nản lòng giới đầu tư, và để
người dân phải chịu hậu quả trong tương
lai.
Loại bút chiến thứ
hai vạch rõ những đường song song giữa
những gì đã xảy ra và có thể xảy ra
--trong thực tế , những gì đang xảy ra
-- ở Mỹ, ở Âu châu và những xứ phát
triển trên thế giới, cho thấy những xáo
trộn sắp xảy ra và những giải pháp cần
theo đuổi. Krugman chán ngán khi nghĩ
đến các kinh tế gia, nhất là Ben
Bernanke, một đồng nghiệp ở Đại Học
Princeton, người luôn tin tưởng các quan
chức thuộc Bộ Ngân Khố và Cục Dự Trữ
Liên Bang đã thành công trong việc khai
triển các phương sách giảm thiểu bất
quân bình kinh tế đến mức các qui định
và giám sát không còn cần thiết, và từ
chu kỳ kinh tế đã trở thành lỗi
thời.
Vấn đề gây tranh cãi
thứ ba là những luận cứ rải rác trong
toàn bộ tác phẩm liên quan đến phương
cách các thay đổi trong nền kinh tế đích
thực - những doanh nghiệp sản xuất , vận
chuyển, thiết kế mọi thứ hàng hóa - đã
định hình hay được định hình bởi các thị
trường tài chánh như thế nào. Nhất là
bằng cách nào các thay đổi mang tính
cách mạng trong kỹ thuật tin học - đầu
mối những thay đổi trong cấu trúc các
công ty và các điều kiện cạnh tranh - đã
đem lại một mô hình tài chánh thay đổi?
Hoặc bằng cách nào những thay đổi vừa
nói có thể đưa đến một lề lối điều hướng
mới (revised superintending) các chu kỳ
kinh tế? Chẳng hạn Krugman cho rằng sự
kiện toàn cầu hóa các thị trường kỹ nghệ
và năng suất cao hơn của các thị trường
nầy - cả hai là kết quả của một kế hoạch
thiết bị tin học sâu rộng mới mẻ (a new
and pervasive information platform) - đã
có thể biện minh cho sự đề kháng của
Greenspan không chịu tăng lãi suất sau
những tăng gia chi phí đầu tư quá đáng
và bất hợp lý đưa đến bong bóng
dot-com, mặc dù cả hai hiểu rất rõ
lãi suất thấp chắc chắn sẽ duy trì giá
trị bất động sản ở một mức cao giả tạo-
do đó, sẽ khiến bong bóng trở nên trầm
trọng hơn. Krugman viết, vào thập kỷ
1990s, kỹ nghệ tin học rõ ràng đã làm
thay đổi hẳn toàn bộ nền kinh tế Hoa
Kỳ.
Tuy nhiên, Krugman
cũng chẳng mất nhiều thì giờ xét xem kỹ
thuật mới đã vận hành hay lan tỏa như
thế nào, đẩy nhanh các doanh nghiệp lớn
hay hạ thấp rào cản đối với các xí
nghiệp nhỏ ra sao. Theo ông, điều quan
trọng là vẻ hào nhoáng của kỹ thuật đầy
ấn tượng, tính lãng mạn của kỹ nghệ mới
của Hoa Kỳ - sự kiện các doanh nghiệp
mới với công nghệ cao đem lại ấn tượng
tốt, đáng ngợi khen cho giới doanh nhân,
một ấn tượng chưa từng có trong hơn một
thế kỷ vừa qua. Bức tường Bá Linh đã sụp
đổ, các tạp chí doanh thương được nhiều
người thích đọc; ngay cả những lý thuyết
gia kinh tế cực đoan cũng bị thu hút bởi
trào lưu lạc quan mới đối với chủ nghĩa
tư bản. Ở đây, luận cứ của Krugman chỉ
liên quan đến nhận thức và tâm lý. Điều
Krugman quan tâm chính là những dấu vết
để lại bởi các nhà đầu tư hành động căn
cứ trên những thay đổi họ tin đã xảy ra
trong môi trường thương mãi. Điều ông
chú ý nhiều nhất là chính quyền có thể
đối phó như thế nào với các thái quá
tiếp theo.
Sự sắc bén của
Krugman khi giải thích những bất cập của
chủ nghĩa tư bản - sự sụp đổ của đồng
baht ở Thái Lan, tình trạng tham
nhũng của PRI ở Mexico - đã là lý
do đủ để đọc tác phẩm; những chương đó
sẽ gây bối rối cho các người hậu thuẫn
chính sách laissez-faire, các
biện pháp khắc khổ của IMF, và
các đường biểu diễn của Laffer. Tuy
nhiên, chưa hẳn Krugman và các nhà kinh
tế học vĩ mô đã đánh giá đúng đắn ảnh
hưởng của cuộc cách mạng kỹ thuật đối
với nền kinh tế đích thực trong những
năm gần đây.
Cách đây vài chục
năm, Arie Lewin thuộc Đại Học Duke, đã
khám phá: phải mất 13 năm 1/3 số doanh
nghiệp Fortune 500 mới bị thanh lọc khỏi
nhóm - thất bại hoặc bị sáp nhập bởi các
công ty khác. Trước cuộc khủng hoảng
hiện nay, việc nầy chỉ cần 4 năm. Hai
thế hệ trước đây, mỗi năm khoảng 60.000
doanh nghiệp được sáng lập ở Hoa Kỳ;
trước cuộc khủng hoảng hiện nay, con số
lên gần một triệu. Năm 1999, 70% giá
thị trường của các doanh nghiệp kỹ
thuật được xếp vào loại tích sản vô hình
- uy tín, khả năng canh tân...- và hơn
50% lợi nhuận bắt nguồn từ kỹ thuật mới
du nhập trong năm trước. Những đổi thay
này không những là nguyên do thay đổi
nền kinh tế mà cũng là nguyên nhân đưa
đến những biến động tài chánh toàn cầu
cũng như phương cách đáp ứng hiệu quả
của chính quyền, và những gì khiến suy
thoái trở thành khủng hoảng hay đại
khủng hoảng.
Theo Krugman, những
gì những biến động tài chánh như vậy cần
đến là một sự điều hướng hay những nhân
viên kiểm tra của chính quyền để tạo
những đối trọng bù trừ: một ngân hàng
trung ương để điều chỉnh lãi suất, hoặc
nâng cao hoặc hạ thấp, thực tế là ấn
định khối tiền tệ lưu hành, hoặc một bộ
tài chánh để ấn định một hối suất cố
định hay thả nổi đơn vị tiền tệ theo
luật cung cầu.
Điều gây ra tranh cãi
là sự nghi ngờ căn bản của Krugman về
chính sách tiền tệ bảo thủ của IMF trong
những trường hợp như thế, một thái độ
được nhiều độc giả công bằng chia sẻ.
Hầu hết phần còn lại
của tác phẩm The Return là một
loạt các câu chuyện về những nổ lực can
thiệp của chính quyền. Krugman đơn cử
những xứ bị xáo trộn bởi các cuộc khủng
hoảng trong hai thập kỷ 1980s và 90s -
Mexico, Argentina, Nhật, Thái Lan và
Indonesia. Trong mỗi trường hợp, người
ta nhận thấy một diễn tiến vòng tròn
đáng ngại - các vấn đề tài chánh khó
khăn của các công ty, ngân hàng và mọi
gia đình; đưa đến một sự mất lòng tin
rộng khắp trong giới đầu tư, thường là
giới đầu tư ngoại quốc; đến sự sụp đổ
tiền tệ, lãi suất lên cao, kinh tế đình
trệ, những khó khăn tài chính của các
công ty, các ngân hàng và cứ thế tiếp
tục.
Cuộc khủng hoảng đáng
lưu ý nhất là cuộc khủng hoảng Thái Lan.
Chúng ta có thể rút được nhiều bài học,
nhất là về điều các kinh tế gia tạm gọi
là moral hazard - bất trắc đạo
đức.
Thái Lan, một xứ đến
trễ trong phép lạ Á châu (Asian
miracle), trong thập kỷ 1980s, đã trỗi
lên từ một nền kinh tế nông nghiệp phần
lớn do giới doanh thương Nhật đến xây
dựng các xưởng máy. Dân quê đua nhau ra
thành phố kiếm việc, giới ngân hàng và
doanh thương bắt đầu đầu tư vào ngành
xây cất, và kinh tế Thái Lan khởi sự
tăng trưởng nhanh - 8%/năm. Thị trường
tư bản toàn cầu đáp ứng: xét cho cùng,
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại, lãi
suất ở Nhật và Âu châu quá thấp. Tính
đến năm 1997, khoảng 256 tỉ mỹ kim đã
được rót vào các thị trường đang lên,
đặc biệt là Đông Nam Á.
Vậy bằng cách nào
tiền đã được rót từ Tokyo đến Bangkok?
Đây chính là yếu tố then chốt của nội
vụ. Ngân hàng Nhật có thể cho một công
ty tài chánh Thái vay. Công ty Thái cải
hoán đồng yen ra đồng baht
và cho các các công ty xây cất bất động
sản vay lại, để trả tiền mua vật liệu,
lương nhân công bằng tiền Thái. Số cầu
đồng baht, do đó, gia tăng, và
đồng baht cũng tăng giá trị - giả
thiết tiền Thái được thả nổi.
Để thu hút đầu tư vào
Thái , một xứ từ lâu bị thế giới bỏ
quên, chính phủ Thái đã quyết định giữ
hối suất giữa đồng baht và đồng
mỹ kim ổn định. Vì vậy, Ngân Hàng
Nhà Nước Thái Lan đã phải gia tăng số
cung đồng baht hay khối tiền tệ
lưu hành và đồng thời mua vào ngoại tệ
để tăng cường số dự trữ. Hậu quả tất
nhiên là lượng tín dụng quốc nội gia
tăng vì các ngân hàng nhận được nhiều
tiền ký thác phải tìm cơ hội cho vay
kiếm lợi nhuận. Tất cả những điều đó có
nghĩa là nguồn tài trợ mới cho các dự án
xây cất, đưa đến vay mượn thêm từ nước
ngoài và cứ thế tiếp tục.
Kết quả tất yếu chung
cuộc là bong bóng bất động sản. Ngân
Hàng Nhà Nước Thái Lan đã cố gắng làm
nguội bớt nền kinh tế bằng cách vay lại
đồng baht từ các ngân hàng ngoại
quốc. Nhưng biện pháp tạm bợ nầy chỉ làm
tăng lãi suất quốc nội, khuyến khích vay
mượn từ nước ngoài (có lợi vì lãi suất
thấp) và đem về nhiều tiền yen
hơn. Ngân hàng trung ương rất có thể chỉ
để giá trị đồng baht gia tăng,
như nhiều kinh tế gia Mỹ hiện nay tìm
cách thuyết phục TQ nâng giá đồng nhân
dân tệ. Nhưng điều nầy chỉ có nghĩa hàng
xuất khẩu của Thái (những thứ do các
công ty Nhật sản xuất) đắt hơn trên các
thị trường nước ngoài - do đó, vô hình
chung giết luôn con gà đẻ trứng vàng.
Số trứng vàng tích
lũy nhiều cũng đem lại một thứ bi kịch
khác. Đầu tư gia tăng (nhập cảng trang
thiết bị cho kỹ nghệ xây cất) và chi
tiêu mang tính tiêu thụ (nhập cảng TV,
xe hơi cho giới nhà giàu Thái mới lên)
làm chậm đà tăng trưởng xuất khẩu tương
đối với nhập khẩu. Do đó, cân chi phó
khuy khiếm trầm trọng. Người Thái bắt
đầu phải dùng số ngoại tệ vay mượn để
trang trải tiêu thụ phẩm nhập khẩu trong
khi ngân hàng trung ương phải dùng ngoại
tệ dự trữ sở hữu để bảo vệ đồng baht.
Tháng 7 năm 1997, sự tăng trưởng kinh tế
Thái Lan đạt mức đỉnh điểm; nền kinh tế
bắt đầu bùng nổ. Ngân hàng trung ương
với số ngoại tệ dự trữ tan biến, không
đủ sức bảo vệ đồng baht: giá trị
đồng baht tuột dốc khoảng 50% chỉ
trong vòng vài tháng. Tai họa xẩy đến,
gây suy thoái không những cho Thái mà cả
Nam Hàn và Mã Lai Á khi các nhà đầu tư
ngoại quốc hoảng sợ hối hả tháo chạy.
Vùng Đông Á bắt đầu trải nghiệm nỗi đau
của Argentina và Do Thái trong thập kỷ
1980s.
Câu hỏi được đặt ra
là câu chuyện của Thái Lan ăn nhằm gì
đến khủng hoảng 2008?
-
Có, và có khá
nhiều.
Đã hẳn kinh tế Thái
Lan khác xa kinh tế Mỹ: nếu người Mỹ,
giống như giới trung lưu mới lên của
Thái, chi tiêu phung phí trên khả năng
của chính mình (và bù vào số khuy khiếm
bằng những món nợ từ thế giới bên ngoài
ngày một gia tăng), họ đã không nhập
khẩu những thứ hàng giống như người
Thái. Chẳng hạn, phần lớn giao thương
của Mỹ với Trung Quốc chỉ là những giao
dịch nội bộ của các đại công ty đa quốc
gia Hoa Kỳ làm ăn trên khắp thế giới.
Các công ty nầy nắm trong tay giá trị
thiết kế và mãi dịch sản phẩm, và chỉ
đến TQ mua các vật liệu thông thường và
lắp ráp.
Ngoài ra, kinh tế Hoa
Kỳ có sức chịu đựng dẻo dai hơn hẳn kinh
tế Thái, với đặc tính chuyễn dịch dễ
dàng của yếu tố lao động theo chiều
ngang cũng như chiều dọc khó ai có thể
sánh kịp. Và chính quyền Mỹ cũng chẳng
phải bảo vệ đơn vị tiền tệ của mình như
Thái Lan. Đồng mỹ kim đã là tiền dự trữ
của thế giới kể từ sau đệ nhị thế chiến.
Sự mất giá của đồng mỹ kim có nghĩa
khuynh hướng tiêu xài hoang phí của
người Mỹ đã làm giảm thiểu tài sản của
giới trung lưu toàn cầu một cách thầm
lặng, tương tự số lượng carbon các xe
SUVs ở Mỹ đã thải ra âm thầm làm ô nhiễm
không khí khắp hành tinh. Người Mỹ cũng
còn có thể trông cậy ở giới trung lưu TQ
đầu tư trở lại trong các thị trường tài
chánh Mỹ phần lớn trong số 2.000 tỉ mỹ
kim tích lũy từ xuất khẩu hàng hóa qua
Hoa Kỳ. Trong mọi trường hợp, điều may
mắn của Hoa Kỳ là toàn bộ số nợ nước
ngoài đều được tính theo đồng mỹ kim.
Tuy nhiên, giữa hai
cuộc khủng hoảng người ta vẫn nhận diện
được một sự đối xứng trong cách ứng xử
của các tay chơi tài chánh giữa hai
phía. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan đã
được nhen nhúm bởi các tay chơi trung
gian có nhiều quyền lợi để rao giảng ảo
tưởng là đầu tư vào ngành xây dựng và
buôn đi bán lại không thể thất bại. Đó
là những người hưởng lợi từ các giao
dịch nhưng không nhất thiết từ tính lành
mạnh của dự án. Trở lại các công ty tài
chánh Thái đứng làm trung gian trong các
khoản cho vay của các nhà đầu tư nước
ngoài. Các người điều hành các công ty
nầy phần lớn là thân nhân họ hàng của
các vị bộ trưởng hoặc các viên chức cao
cấp trong chính quyền. Họ không phải là
những bộ óc tài chánh xuất sắc, nhưng họ
có lý do để tin chính quyền Thái sẵn
sàng buộc người chịu thuế phải cứu trợ
công ty họ khi lâm nguy. Đồng thời,
những quan hệ chính trị của họ sẽ là lợi
thế đối với các nhà đầu tư. Nói chung,
họ hưởng lợi khi thuận buồm xuôi gió,
làm giàu là động lực thúc đẩy họ tiếp
tục cho vay trong khi được che chở khi
gặp khó khăn bão tố - cho đến khi toàn
bộ mạng lưới sụp đổ, lúc đó họ cũng đã
kiếm được một tài sản kếch sù. Họ cũng
không phải mang tai tiếng (moral
hazard). Họ lấy tiền của người khác
nhưng chẳng chịu rủi ro bất trắc nếu
quyết định của họ sai lầm, thiếu cẩn
trọng hay khờ dại.
Sự nhẹ dạ của giới
đầu tư qua các móc nối với các yếu nhân
Thái có thể không mấy giống sự nhẹ dạ
của họ đối với sự đánh giá lạc quan
AAA của Moody's đối với các khách
hàng được nuông chiều. Nhưng nếu những
lợi nhuận của các công ty tài chánh nhắc
nhở chúng ta về sự thủ lợi của các công
ty cho vay đầu cơ bất động sản mà chẳng
điều tra nghiêm túc các đơn vay nợ, hay
các ngân hàng đầu tư bán các trái phiếu
hay chứng khoán với thế chấp bất khả
tín, chúng ta có thể được tha thứ. Theo
Krugman, Wall Street đã trở nên quá hăng
hái đầu tư vào Ponzi pyramid
không chút âu lo tai tiếng hay moral
hazard.
Điều đó đưa chúng ta
tới một tay chơi bá đạo khác - một tay
chơi luôn sẵn sàng tấn công các nền kinh
tế Tây phương cũng như những nền kinh tế
đang lên - có thể làm cho cuộc khủng
hoảng trầm trọng hơn nhiều. Chúng tôi
muốn nói đến các hedge funds, các
quỹ đầu cơ. Các quỹ nầy đã lớn mạnh và
trở thành một bộ phận lớn, vô cùng nguy
hiểm, của hệ thống
ngân-hàng-không-phải-ngân-hàng, hầu
như không phải tuân theo một quy luật và
cũng chẳng chịu một sự giám sát nào:
những định chế nhận tiền của bất cứ ai
với lời hứa sẽ trả lợi nhuận kếch sù
nhưng chẳng phải tuân theo một điều lệ
quy luật nào. Paul Krugman đã nhắc nhở
chúng ta sự lớn mạnh đáng ngạc nhiên của
các hedge funds nầy, bắt đầu với
cuộc tấn công thần kỳ (legendary) Bộ
Ngân Khố Anh (British Exchequer) bởi
Quantum Fund - Quỹ Lượng Tử - của
George Soros trong năm 1992; vụ đầu cơ
nầy đã làm đồng bảng (pound) suy yếu đến
mức khiến Thủ Tướng John Major cuối cùng
đã phải rút lui khỏi cuộc thương nghị
gia nhập khu vực đồng Euro, và chính phủ
ông đã phải sụp đổ.
Trước cuộc khủng
hoảng 2008, các ngân hàng thông thường
quản lý khoảng 6.000 tỉ mỹ kim; các ngân
hàng phi ngân hàng - hedge funds
và ngân hàng đầu tư - khoảng 4.000 tỉ,
1.800 tỉ trong số nầy nằm trong tay các
quỹ đầu cơ. Theo Krugman, sự sụp đổ của
những định chế nầy có thể xô đẩy các
nhóm đầu tư lớn, kể cả các quỹ hưu bổng,
các quỹ endowments của các đại học, vào
tai họa đầu cơ. Tất cả các quản lý viên
các quỹ vừa nói , các CEO, được tưởng
thưởng khi đem lại lợi nhuận trên trung
bình. Nhưng làm thế nào tất cả các lợi
nhuận đều trên trung bình. Krugman đã
đúng khi nhấn mạnh tài sản thực sự có
thể bị tiêu tan vì sự sụp đổ không thể
tránh của các quỹ đầu tư. Khi kinh tế
đang trên đà tăng trưởng mạnh, các sự lỗ
lã trên giấy tờ có thể lấy lại trong vài
tuần lễ. Nhưng khi sự lỗ lã quá lớn, mọi
người đều hoảng sợ, sản xuất tất sẽ suy
sụp, thất nghiệp sẽ tràn lan, suy thoái,
và có thể cả khủng hoảng và đại khủng
hoảng, rất dễ xảy ra trong toàn bộ quốc
gia, thậm chí cả toàn cầu.
Làm thế nào để ra
khỏi khủng hoảng?
Theo Krugman, chính
quyền đang đứng trước những lựa chọn
nghịch lý. Trong cương vị tác nhân duy
nhất điều hướng chi tiêu còn đứng vững,
chính quyền trở thành nhà đầu tư tối
thiết. Tiến trình hồi phục còn dài lâu.
Krugman nhấn mạnh tầm quan trọng của
những số đầu tư lớn lao: vào hạ tầng cơ
sở, bảo hiểm y tế, chất lượng giáo dục,
ngay cả sản xuất xe hơi... Số đầu tư,
mang tính hệ thống và tâm lý, phải đủ
lớn để đè bẹp khủng hoảng; lỗi lầm tệ
hại nhất là biện pháp nửa vời, chỉ muốn
nhảy năm thước khi phải vượt qua một hố
thẳm rộng bảy thước, vì e ngại hành động
cứu nguy hệ thống tài chánh có thể bị
xem như mang tính xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, chúng ta
không thể hiểu những gì nhà nước cần
phải làm trừ khi hiểu được bằng cách nào
những lực bên ngoài hệ thống tài chánh
đang chi phối nền kinh tế đích thực ngày
nay. Nhà nước cần đầu tư vào những gì
ngoài tái gầy vốn , tái quy định và tái
tư nhân hóa các ngân hàng?
Ở đây chúng ta nên
lưu ý đến hai điểm quan trọng.
Trước hết, những xứ
đang phát triển cũng tương tự như Hoa Kỳ
trong cách lưu thông của tư bản tài
chánh , nhưng lại rất khác trong sự lưu
thông một thứ tư bản quý giá hơn nhiều -
vốn tri thức (intellectual capital). Để
phục hồi, các xứ nầy thường quan tâm đến
các hệ thống tài chánh, vì lẽ họ mong
muốn không những thu hút tiền nước ngoài
vào thị trường tư bản, mà cả tri thức kỹ
thuật (know-how) vào các thành phố lớn.
Điều then chốt là chuyển biến đầu tư
ngoại quốc vào các nhà máy công nghệ
cao, hay các công ty phần mềm, hay các
đội ngũ quản lý, thành những đầu máy của
xã hội dân sự, khả dĩ đào tạo một đội
ngũ doanh nhân mới có khả năng cạnh
tranh toàn cầu. Chứng cớ: tác động của
Intel trên Kiryat Gat ở Israel, của
Motorola ở Tianjin, Trung Quốc, của MIT
trên Cambridge. Như Mill từng viết:
"Một điều chưa được hiểu thấu đáo và
công nhận là giá trị kinh tế của sự phổ
cập rộng rãi tri thức trong quảng đại
quần chúng".3
Ngoài ra, còn có một
điểm khác cũng cần được lưu tâm. Những
gì đã cho phép các thị trường đang lên
như Thái Lan và TQ phát triển thật nhanh
chóng, và do đó, đã gia tốc những mất
thăng bằng tài chánh quan trọng, cũng
chính là cùng một chương trình thông tin
chắc chắn sẽ định hình và quyết định
tiến độ phục hồi của Mỹ. Nhưng tại sao
cùng một chương trình thông tin đã đem
lại cho các doanh nhân khả năng nắm bắt
thông tin cần thiết, rà soát lại kế
hoạch doanh thương, thuê mướn nhân viên
mới có đủ tài năng...lại không thể sử
dụng để giúp chúng ta ra khỏi suy thoái,
dù trầm trọng, một cách chóng vánh? Tại
sao sự hỗ trợ của nhà nước đối với các
dịch vụ tài chánh và đầu tư vào nền kinh
tế đích thực lại không thể giúp gia tốc
kiến tạo doanh thương? Krugman biết rất
rõ bất cứ điều gì chính quyền làm -
trong bảo hiểm y tế và giáo dục - chính
quyền cũng phải lưu ý sự kiện hàng trăm,
hàng nghìn những công ty nhạy bén, thông
minh, ngày một phát triển, sẽ có vai trò
then chốt trong quá trình phục hồi kinh
tế, chứ không phải một vài đại công ty
khổng lồ đang được tân trang.
Xét cho cùng, cái gì
khiến cuộc đại khủng hoảng ngày một trầm
trọng chính là yếu tố thời gian cần
thiêt để tái khởi động các đại doanh
nghiệp sinh động trở lại. Chúng ta không
còn làm ăn với các giao dịch quý kim,
với độc quyền thương hiệu, và các vi ba:
lớn không có nghĩa đáng tin, hay có khả
năng kiểm soát, hay sáng suốt. Có nhiều
điều phải học trong hiện tình. Và chúng
ta hy vọng Paul Krugman, hơn ai hết, sẽ
soi sáng thêm về những điểm nầy.
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USATPHCM, ngày
20-3-2009