(Contemporary Chinese Views of Europe by Karine
Lisbonne-de Vergeron)
Lời Mở Đầu
Sau gần hai mươi năm tê liệt, quá trình hội nhập Âu
châu đã được tái khởi động với Hiệp Định mới về định
chế Liên Hiệp Âu Châu (EU), đạt được vào ngày
19-10-2007 tại Lisbon. Nicolas Sarkozy, Tổng Thống
Pháp, mới đây, đã lên tiếng kêu gọi 27 nước thành
viên hãy ủng hộ quá trình sáng lập một Ủy Ban Các
Thức Giã cao cấp (a high level Committee of Wise
Men) để xem xét tương lai của Âu châu và khuyến nghị
một viễn kiến minh bạch nhằm phát triển Liên Hiệp
cho hai mươi năm sắp tới. Sứ mệnh của Ủy ban là thẩm
định khả năng của Liên Hiệp Âu Châu trước những
thách đố của toàn cầu hóa và tác động của một Trung
Quốc đang trổi dậy.
Trong những năm gần đây, người ta đã thấy vô số
những nghiên cứu về vấn đề nầy. Tuy nhiên, phần lớn
đều do các tác giả nước ngoài, nhất là Âu châu. Rất
ít công trình chú tâm đến những gì người Trung Quốc
nghĩ về thế giới bên ngoài nơi đó Trung Quốc đang
chiếm một vị trí ngày một ưu thế. Hơn nữa, người ta
chưa từng gặp một công trình nghiên cứu mang tính hệ
thống để tìm hiểu người Trung Quốc đã nhận thức như
thế nào về Liên Hiệp Âu Châu nói riêng và châu Âu
nói chung. Đã hẵn đây là một đề tài "tuy hai mà
một", không thể nghiên cứu riêng rẽ mà không đánh
mất ý nghĩa.
Đã hẵn, một cuộc nghiên cứu phản ảnh quan điểm của
giới thức giã Trung Quốc - tự nó đã mang tính phiến
diện - nhưng một phần nào vẫn có thể giúp giới lãnh
đạo Âu châu điều chỉnh cái mà một bình luận gia
Trung hoa gọi là xu thế hướng nội ngày một gia tăng
đang ám ảnh người Âu và phương hại đến khả năng Âu
châu giữ vai trò lãnh đạo trong sinh hoạt thế giới.
Ngày nay, Trung Quốc hình như đang cực lực hướng
ngoại. Nền kinh tế hiện đang phát triển với tốc độ
11.5% mỗi năm. Nhiều người tin vào khoảng năm 2030,
và có lẽ còn sớm hơn, kinh tế Trung Quốc sẽ vượt lên
vị trí số 1 của thế giới. Trong quá trình phát
triển, dĩ nhiên Trung Quốc luôn đặc biệt quan tâm
đến vai trò của Liên Hiệp Âu Châu. Kể từ năm 2004,
Liên Hiệp Âu Châu đã là đối tác thương mãi hàng đầu,
và tầm quan trọng của thị trường Âu châu ngày một
gia tăng nhanh chóng đối với Trung Quốc. Tuy nhiên,
mặc dù một số bình luận gia đã nói nhiều về một đối
tác chiến lược , và một số đối thoại và khung hợp
tác đã được thảo luận trong hai thập kỷ qua, người
ta phải đợi đến cuộc họp thượng đỉnh Liên Hiệp Âu
Châu- Trung Quốc năm 2006 ở Helsinki, các cuộc thảo
luận về một Thỏa Ước Đối Tác và Hợp Tác mới (New
Partnership and Cooperation Agreement - PCA), mới
được khởi động. Điều nầy trái hẵn với hàng loạt thỏa
ước "đối tác chiến lược" với Hoa Kỳ. Từ đó, tiến độ
cũng chẳng mấy chóng vánh. Những cuộc thảo luận dự
liệu diễn ra trong hội nghị thượng đỉnh thứ 10 tại
Bắc Kinh ngày 28-11-2007 và tiếp tục trong suốt
nhiệm kỳ chủ tịch Liên Hiệp Âu Châu của Pháp vào hậu
bán niên 2008 (trong khoảng thời gian phiên họp
thượng đỉnh thứ 11 dự liệu được triệu tập).
Công trình nghiên cứu nầy đặc biệt nhằm nêu rõ:
. Người Trung Quốc (TQ) cảm thấy Âu châu thiếu một
viễn kiến chiến lược, và nội bộ còn lủng củng, những
nhược điểm ảnh hưởng đến uy tín trong sinh hoạt thế
giới. Âu châu không hiện diện như một trung tâm
quyền lực chính trị, nhất là khi sánh với Hoa Kỳ.
. TQ muốn thấy một tiếng nói Âu châu thống nhất, như
một thành tố trong quan niệm của người Hoa về một
trật tự thế giới đa cực tương lai .
. TQ có một cách tiếp cận tinh tế đối với Âu châu,
bao gồm một sự am hiểu thấu đáo về Liên Hiệp Âu Châu
(EU) trong hai khía cạnh định chế và các xứ thành
viên chính, cũng như nền văn minh Âu châu nói chung.
. Quan hệ kinh tế và chính trị giữa Âu châu và TQ
hiện hạn chế trong khuôn khổ song phương với từng
quốc gia thành viên riêng lẻ. Tuy nhiên, EU như một
thực thể ngày một quan trọng hơn đối với TQ về
thương mãi và về nhiều khía cạnh kinh tế khác. Trong
vòng 20 năm sắp tới, xét cho cùng, chỉ có EU như một
thực thể mới có thể duy trì một vị thế thương nghị
đứng đắn với TQ trong những địa hạt vừa kể.
. Người TQ xem sự ra đời của đồng Euro như một thành
tựu rất ấn tượng. Họ tin vị trí của Âu châu trong
tương lai sẽ tùy thuộc, trên hết, ở khả năng xây
dựng một bản sắc quốc phòng và an ninh chung chặt
chẻ hơn và tăng cường khu vực Eurozone - đặc biệt là
với sự gia nhập của Vương quốc Anh.
. TQ xem kinh nghiệm Âu châu như một nguồn cảm hứng,
tiếp sức cho sự hợp tác kinh tế cấp khu vực ở Á
châu, nhất là trong tương quan với Nhật Bản.
. Âu châu vẫn còn rất hấp dẫn về văn hóa và, trong
căn bản, không thoái bộ (trái với suy đoán của một
số người Ấn và người Mỹ). Mặc dù người TQ cảm nhận
Âu châu và Hoa Kỳ cuối cùng rồi cũng thắt chặt với
nhau, họ vẫn luôn xem Âu châu và TQ như hai nền văn
minh nòng cốt của thế giới, và từ góc cạnh nầy, xem
Hoa Kỳ chỉ ở bên lề (marginal). Nhận thức nầy đem
lại một căn bản chung đặc thù cho sự hiểu biết và
cảm thông giữa người Âu châu và người Hoa. Người TQ
nhìn Âu châu trong ý niệm EU là một tập thể căn bản
và mong muốn được thấy EU mở rộng hơn nữa. Tuy
nhiên, họ vẫn còn chưa nhất trí xem Nga trên căn bản
là một cường quốc Âu châu.
KINH TẾ ÂU CHÂU: NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC
1. Liên Hiệp Âu Châu: Quan hệ kinh tế then chốt của
Trung Quốc
Người Trung quốc hiện nay rất quan tâm đến quan hệ
kinh tế với Âu châu và Liên hiệp Âu châu (EU). Từ
2004, EU luôn là đối tác thương mãi đầu tiên của
Trung quốc, chiếm 15% ngạch số ngoại thương năm
2006, với thương mãi song phương gia tăng 25% so với
2005. Nhìn chung, mậu dịch song phương giữa Trung
quốc và EU đã gia tăng gấp 6 lần từ 1978, lên đến
255 tỉ Euro vào năm 2006. Ngược lại, Trung quốc hiện
là đối tác thương mãi lớn thứ nhì của EU, chỉ sau
Hoa Kỳ, và năm 2006 đã là nguồn nhập khẩu lớn nhất
của EU, với ngạch số lên đến khoảng 192 tỉ euros,
hay 14,4% tổng số nhập khẩu của EU, và gia tăng 21%
so với năm 2005. Trong cùng khoảng thời gian, số
xuất khẩu của EU qua Trung quốc đã gia tăng 23%, đạt
ngạch số 63 tỉ euros (xem Bảng 1 đính hậu).
Sau đây là một số sự kiện đáng lưu ý:
(1) Năm 2005, Trung quốc là nước hưởng ưu đải lớn
thứ hai trong chương trình Generalized System of
Preferences -GSP (Hệ Thống Ưu Đải Tổng Quát Hóa),
lên tới 10,3% tổng số nhập khẩu trong năm.
(2) Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2006, tổng số giao
dịch thương mãi giữa EU (25 thành viên) và Trung
quốc đã lên đến 231,4 tỉ euros. Trong số nầy, 178 tỉ
(77%) từ Eurozone (khu vực Euro,12 thành viên). Điều
nầy có nghĩa là thành viên của Eurozone chiếm đến
70% ngạch số khuy khiếm của EU với Trung quốc.
(3) EU là nguồn cung cấp lớn nhất cho Trung quốc các
trang bị phẩm kỷ thuật cao và tư bản phẩm nói chung.
Trung quốc đã tiếp nhận trên 40% tổng số nhập khẩu
các sản phẩm loại nầy từ EU (so với 23% từ Nhật và
19% từ Hoa Kỳ trong năm 2006). Trong năm 2006, Trung
quốc đã có đến 2.500 hợp đồng nhập khẩu máy móc
trang bị từ EU, với trị giá trên 8,6 tỉ Euro.
(4) Đầu tư trực tiếp (Foreign direct investment -
FDI) từ EU vào Trung quốc đã lên đến 3,7 tỉ Euro năm
2006. Trong những năm gần đây, các công ty EU đã gia
tăng đầu tư vào Trung quốc, đem tổng số FDI của EU
(với 25 thành viên) lên trên 31,4 tỉ Euro vào cuối
năm 2005 (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2007, 2,5 tỉ
FDI từ Nhật và 1,8 tỉ từ Hoa Kỳ ).
(5) FDI Trung quốc đến Âu châu, trong khoảng từ
tháng 1 đến tháng 9, 2005, lên tới 130 triệu Euro,
gia tăng 68% so với cùng kỳ trong năm 2004.
2. Phần lớn thương mãi là với các quốc gia thành
viên riêng rẻ
Theo một số người Trung quốc được phỏng vấn, EU là
một khối có khả năng đặt chuẩn mực và quy luật có
ảnh hưởng toàn cầu, chẳng hạn như WTO. Tuy nhiên,
trong mục tiêu kinh tế thực dụng, họ cảm nhận Trung
quốc thà làm việc trực tiếp song phương với từng
quốc gia Âu châu riêng rẻ hơn là với một Âu châu như
một tập thể. Theo lời một doanh nhân Âu châu thường
trú ở Trung quốc, Âu châu không có một đội túc cầu
và người ta cũng không thấy hiện diện một đội ngủ
doanh nhân Âu châu thống nhất khả dĩ lợi dụng tối đa
các cơ hội do quá trình phát triển kinh tế ngoạn mục
của Trung quốc đem lại. Các công ty Âu châu cạnh
tranh gay gắt với nhau, phương hại đến hình ành của
tập thể. Trạng huống đó đã cho phép Trung quốc lợi
dụng trong chiến lược hạ thấp lợi nhuận với toàn bộ
Âu châu. Một ví dụ điển hình là hợp đồng xây tuyến
đường hỏa xa cao tốc nối liền với phi cảng Thượng
Hải. Một tập đoàn do công ty Siemens dẫn đầu đã
trúng thầu, nhưng trong những điều kiện bất lợi hơn
nhiều, vì phải cạnh tranh không những với một công
ty Nhật mà còn cả với một nhà thầu Pháp.
Trong các xứ thành viên EU, Đức là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Trung quốc, chiếm 29% tổng số EU
trong năm 2006. Mậu dịch đã gia tăng 25% từ 2005 đến
2006 với nhịp gia tăng trung bình 20-28% mỗi năm kể
từ 1998. Trung quốc là đối tác số 10 đối với hàng
xuất khẩu của Đức. Theo sự đánh giá của các doanh
nhân Trung quốc, Đức được xem có nhiều ngành kỹ nghệ
rất hiệu quả, với những công ty then chốt hoạt động
trong các ngành kỹ nghệ xe hơi, hóa học (BASF và
Bayer) và điện tử. Ngược lại, Anh quốc đứng thứ ba
trong EU, với một thị phần 11% - sau cả Hòa Lan, xứ
có nhập siêu lớn nhất Âu châu. Mậu dịch của Anh với
Trung quốc đã gia tăng 25% từ 2005 và Anh là xứ có
mức FDI lớn nhất EU ở Trung quốc. Các công ty Anh
thành công nhất ở Trung quốc gồm HSBC (với 8% cổ
phần trong Bank of Shanghai) và Royal Bank of
Scotland (6% cổ phần trong Bank of China) trong khu
vực tài chánh, và BG Group trong kỹ nghệ hơi đốt.
Pháp đứng hàng thứ tư trong EU (9%) với 1.400 công
ty hoạt động ở Trung quốc. Một số thành công lớn như
bán 150 máy bay Airbus vào tháng 12-2005, trị giá
8,3 tỉ Euro, thỏa ước sản xuất liên doanh một phi cơ
lên thẳng dân sự, loại 175, trị giá 300 triệu Euro,
và thỏa thuận cung cấp hai lò phản ứng hạt nhân EPR
1.600 MW do công ty Areva của Pháp vào mùa đông
2007.
Đối với vị giám đốc một công ty Âu châu lớn người
Anh ở Thượng Hải, điều rõ ràng là "ba năm trước đây,
CEO của công ty có thể dễ dàng gặp những bộ trưởng
hàng đầu trong chính quyền Trung quốc", nhưng "giờ
đây, với tư thế một quốc gia thành viên (EU), thật
khó lòng có đủ uy tín bằng tư thế chung với các
chính quyền Âu châu khác". Một nhận xét tương
tự:"Tôi đã trở thành người Âu châu khi đặt chân đến
đây". Trong những dự án lớn, người Âu nên hợp tác
với nhau thay vì cạnh tranh."Nói chung, Âu châu sẽ
cần những tập đoàn vô địch nếu muốn đối đầu với
thách đố do Trung quốc và cách làm ăn của người Hoa
đem lại". Đã hẵn, với một dân số 490 triệu, và tiềm
năng mở rộng hơn nữa, EU, như một định chế, một thực
thể, đương nhiên có thể là một "đối tác tự nhiên"
với Trung quốc hơn là những thành viên riêng rẻ. Như
một chuyên viên Trung quốc hàng đầu thổ lộ, mặc dù
chúng tôi thủ lợi trước tình trạng phân tán chia rẻ,
chúng tôi tiên liệu người Âu ngày một ý thức rõ chỉ
khi nào họ đoàn kết hay thống nhất, họ mới có thể
giữ được vị trí cạnh tranh hữu hiệu với Trung quốc".
3. Liệu Âu châu có giữ được vị trí của mình?
Hầu hết chuyên viên kinh tế Trung quốc đồng ý, trong
đoản kỳ, EU cần tiếp tục giữ vai trò đối tác thương
mãi lớn nhất của Trung quốc. Tuy nhiên, một số tiên
đoán, năm mươi năm sau, Trung quốc sẽ là cường quốc
kinh tế số một của thế giới, kế đến là Ấn độ, rồi
mới tới Hoa Kỳ và Nhật bản, mặc dù 'điều nầy có thể
đến sớm hơn nhiều'. Điều không ai nghi ngờ là 'không
một quốc gia Âu châu riêng lẽ nào sẽ lọt vào bốn
nước đầu bảng'. Mặc dù 'Âu châu nói chung vẫn sẽ là
một trong những nền kinh tế lớn nhất của thế giới',
địa vị tương đối của Âu châu 'hiện nay thật bấp
bênh'. 'Rất có thể kinh tế Âu châu sẽ quan trọng hơn
Á châu, ngoài Trung quốc và Ấn Độ, và cũng vượt cả
Bắc Mỹ'. Dù sao, có lẽ phải đợi khoảng một thập kỷ
sau 'mới có thể xét đoán dễ dàng'. Một sử gia Trung
quốc đã nêu rõ, 'điều nầy có nghĩa một sự trở lại
trạng huống hay mô hình kinh tế vào cuối thế kỷ thứ
18, khi Trung quốc chiếm giữ gần 30% thương mãi toàn
cầu, với Ấn Độ đứng thứ hai với 15% - dĩ nhiên vào
thời điểm châu Mỹ tiền-Columbus còn cô lập - kéo dài
trong suốt phần lớn thời kỳ lịch sử đã được ghi
chép'.Trong ba thập kỷ sắp đến, người Trung quốc đặc
biệt quan tâm ba yếu tố mang tính quyết định nhận
thức kinh tế của họ về Âu châu. Theo thứ tự quan
trọng tiệm tăng, đó là diễn biến trong quan hệ
thương mãi của họ với Hoa Kỳ, tăng trưởng trong
trình độ hội nhập với các nền kinh tế lớn khác ở Á
châu, và biến chuyển trong nền kinh tế quốc nội.
4. Âu châu, đồng đô la và khuy khiếm
Các quan sát viên Trung quốc, đã hẵn, rất e ngại
trước áp lực ngày một gia tăng từ phía Hoa Kỳ , và
cố nhiên, cả từ phía Âu châu, đòi hỏi Trung quốc tái
định giá đồng nhân dân tệ (renmimbi), giảm bớt mức
thặng dư trong cân thương mãi (hiện gia tăng 85% với
thế giới bên ngoài trong 6 tháng đầu năm 2007), và
mở cửa kinh tế tiếp nhận đầu tư của nước ngoài nhiều
hơn. Một chuyên gia quen thưộc với những chuyển biến
gần đây ở Hoa Thịnh Đốn nghĩ, nguy cơ 'chiến tranh
thương mãi thực sự hiện hữu'. Mối lo càng gia tăng
với viễn tượng một Tổng Thống phe Dân chủ có nhiều
cơ may lọt vào Tòa Bạch Ốc vào tháng 1-2009. Bởi lẽ
Trung quốc không thể xem quan hệ với Hoa Kỳ là
'thuần túy kinh tế như chúng ta đang mong muốn'. Tuy
nhiên, các chuyên gia Trung quốc vẫn tin tưởng
'quyền lợi của đôi bên đòi hỏi phải duy trì ổn định
và phát triển, và tránh những bất trắc, nguy cơ của
chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch'. Đối với người Âu châu,
điều đặc biệt quan trọng trong địa hạt nầy, chính là
việc người Trung quốc rõ ràng âu lo lập trường của
EU sẽ ngày một gần gũi và đồng điệu với Hoa Kỳ trong
những cuộc thương thảo trong tương lai hơn là từ
trước đến nay. Người Trung quốc nghĩ 'người Âu hiện
nay hình như đang tha thiết với tự do mậu dịch hơn
là người Mỹ'. Nhưng điều quan trọng là 'Âu châu chắc
chắn sẽ đi theo đường lối của Hoa Kỳ' trong vấn đề
nầy. 'Chúng tôi không nghĩ là EU sẽ sửa đổi chính
sách thương mãi với Trung quốc một cách đáng kể độc
lập với Mỹ. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ quyết định đi theo
đường lối bảo vệ nhiều hơn, chúng tôi tin EU cũng
hành động tương tự'.
Một vài bình luận gia lấy làm ngạc nhiên về điều
nầy. Xét cho cùng, 'trên bình diện thuần túy kinh
tế, Âu châu hiện đang có nhiều quyền lợi ở Trung
quốc hơn là Hoa Kỳ'. Theo một nghiên cứu gần đây,
rào cản của Trung quốc đối với xuất khẩu từ EU đã
đánh mất 20 tỉ Euro mỗi năm, hay 30% tổng số. Ngạch
số khuy khiếm trong thương mãi hai chiều lớn nhất
của EU (lúc đó mới có 25 thành viên) là với Trung
quốc. Con số nầy lên đến gần 128 tỉ Euro vào năm
2006, tăng 57% so với 2003. Trong chín tháng đầu năm
2007, ngạch số xuất khẩu của Trung quốc qua EU gia
tăng 37% . Với Hoa Kỳ, con số nầy chỉ tới 16% - một
phần phản ảnh sự lên giá của đồng Euro đối với tiền
Trung quốc trong những quảng thời gian đó, trong khi
đồng đô la lại bị mất giá. Đôi khi, các quan sát
viên Trung Hoa xem đây như một dấu hiệu của 'sự suy
yếu và rời rạc bất nhất' của Âu châu. Mặc dù đôi khi
họ phóng đại thái quá trình độ và ý nghĩa của những
lủng củng nội bộ EU về mậu dịch và chính sách hối
đoái, nhưng chắc chắn nay họ rất mong muốn giao dịch
với EU, giống như 'chúng ta đang làm với Hoa Kỳ về
các vấn đề tiền tệ và mậu dịch'.
5. Hướng tới một đối thoại chiến lược kinh tế vĩ mô
Vào tháng 6-2007, Nhóm High-Level Group (Nhóm Cấp
Cao) về mất quân bình trong cân thương mãi EU-Trung
quốc được thiết lập với mục tiêu soạn thảo một phúc
trình sơ bộ cho cuộc họp thượng đỉnh Bắc kinh về các
phương cách giải quyết tình trạng khuy khiếm ngày
một gia tăng trong mậu dịch song phương. Đây là nổ
lực bổ túc cho Đối Thoại Kinh Tế Tài Chánh thường
niên nhằm tăng cường hiểu biết đôi bên. Cuộc họp thứ
ba vào ngày 5-7-2007 đã trao đổi rộng rãi quan điểm
về sự tương tác trong các chính sách thuế khóa và
tiền tệ của Trung quốc và EU cũng như các cải tổ
trong khu vực tài chánh Trung quốc. Đúng như một
chuyên viên Âu châu nhận xét, nổ lực nầy 'đúng ra
phải đưa đến một cuộc đối thoại song phương về chiến
lược kinh tế vĩ mô giữa Âu châu và Trung quốc tương
tự như những cuộc đối thoại với Hoa Kỳ vào tháng
12-2006 và Nhật vào tháng 4-2007'. Tuy nhiên, phía
EU rõ rệt có một vấn đề: sự thiếu nhất trí giữa Ủy
Hội EU đại diện cho tất cả 27 thành viên và 13 xứ
trong khu vực Eurozone. Trung quốc không thấy ai
thực sự đại diện cho đồng Euro. Phải chăng đó là
Ngân Hàng Trung Ương Âu châu (European Central Bank
-ECB)? Quan hệ giữa Jean-Claude Trichet, Chủ Tịch
ECB, và Joaquín Almunia, Ủy Viên Tiền Tệ và Kinh Tế
(Economic and Monetary Affairs Cơmmissioner) hay với
Jean-Claude Juncker, Chủ Tịch Nhóm Eurogroup như thế
nào? Còn vai trò của Fernando Teixeira dos Santos,
Bộ Trưởng Tài Chánh Bồ Đào Nha là gì? Lập trường sẽ
ra sao khi chức vụ Chủ Tịch EU do một nước thành
viên không ở trong khu vực Eurozone nắm giữ? Sự
tương phản với việc đối thoại với Bộ trưởng Ngân khố
Mỹ Henry Paulson và với Thống Đốc Ngân hàng Dự trử
Liên Bang Ben Bernanke là rất rõ rệt.
6. Vai trò Khu Vực Eurozone
Tuy nhiên, các nhà bình luận tài chánh Trung quốc
nhìn nhận sự sáng lập và phát triển của đồng Euro có
lẽ là thành công về định chế lớn lao nhất của EU. Họ
tin rằng với sự ra đời của đồng Euro, mặc dù quá
trình hội nhập chính trị Âu châu vẫn còn gặp nhiều
gai gốc, hội nhập kinh tế Âu châu ngày nay không còn
có thể đảo ngược. Họ cũng xác nhận đồng Euro là
thành tố quan trọng nhất trong thế lực đối ngoại của
Âu châu vì đồng Euro đã trở thành 'một ngoại tệ dự
trử có thể thay thế đồng mỹ kim', một thứ tiền đem
lại 'nhiều lợi ích lớn lao như giảm phí tổn cho các
xứ thành viên cũng như cho chúng ta'. Đối với nhiều
người Trung quốc, một Eurozone mạnh mẽ hơn sẽ lôi
kéo theo một thế giới ổn định hơn.Trong khi Trung
quốc tiếp tục nắm giữ một số ngoại tệ dự trử khổng
lồ và gia tăng nhanh chóng bằng đô la, một số người
chờ đợi một sự thay đổi, mặc dù chỉ trong phương
cách'phù hợp với chính sách tỉ suất hối đoái của
chúng tôi'. Họ tin chắc là một sự tái định giá đơn
vị tiền tệ đáng kể chỉ có thể xẩy ra cùng lúc với
một cải cách hệ thống ngân hàng của mình. Họ tin
quản lý quá trình điều chỉnh cần thiết đối với đồng
Euro'có thể khó khăn hơn là với đồng đô la, bởi lẽ
đồng Euro cũng gia tăng giá trị trên toàn cầu'. Họ
tiên liệu đồng Euro sẽ trở thành một ngoại tệ dự trử
và trong vòng 30 năm tới , thế giới sẽ chỉ có ba đơn
vị tiền dự trử: nhân dân tệ, đô la và euro.
Các chuyên gia Trung quốc rất lấy làm ấn tượng về
cách xử lý thành công vụ khủng hoảng trên thị trường
tín dụng gần đây của Ngân hàng Trung Ương Âu châu
(ECB). Họ cũng rất thán phục khi thấy Ủy Hội EU,
ECB, và các xứ thành viên riêng rẽ đã đạt đồng thuận
về tính minh bạch chờ đợi từ quỷ tài khoản tối
thượng mới của Trung quốc - tập đoàn China
Investment Corporation (Tập đoàn Đầu Tư Trung Quốc)
thiết lập vào cuối tháng 9-2007 với tổng số vốn lên
tới 200 tỉ mỹ kim. Cùng lúc, họ vẫn xem 'đồng euro
còn quá yếu như một định chế để có thể phát huy đầy
đủ tiềm lực trên toàn cầu'. Như lời một chuyên gia
Trung quốc, khu vực Eurozone sẽ không thể hoạt động
hữu hiệu nếu không sớm giải quyết nhu cầu hội nhập
sâu xa hơn nữa chính sách thuế khóa giữa các xứ
thành viên. Hơn nữa, bất cứ một sự nới rộng khu vực
Eurozone nào, nhất là đến các xứ thành viên mới ,
trong hiện trạng, quả thật là khá khó khăn. Ngược
lại, sự khả dĩ gia nhập khu vực Eurozone của Anh
quốc, nếu thật sự xẩy ra, sẽ là một khích lệ lớn lao
gia tăng sức mạnh của đồng euro, và là điều Trung
quốc rất hoan nghênh.
7. Hội nhập kinh tế Á châu: Quyền lợi của Âu châu và
Trung quốc
Trong bối cảnh các cuộc thương nghị thương mãi và
tiền tệ đầy cam go với Hoa Kỳ và Âu châu, các nhà
nghiên cứu chiến lược Trung quốc muốn nói rõ , đối
với họ, mậu dịch trong khu vực Á châu ngày một quan
trọng hơn và Trung quốc sẽ là đầu tàu của sự phú
cường của phương Đông, cũng như Âu châu có thể sẽ là
đầu tàu của sự thịnh vượng Tây phương. Trung quốc và
Âu châu đều giữ vị trí trung tâm. Trung quốc nhiều
lợi thế hơn Ấn Độ vì có một vị trí địa lý thiết yếu
giữa Bắc và Nam Á. Âu châu có lợi thế hơn Bắc Mỹ vì
Âu châu là một bộ phận của Âu-Á hay Eurasia. Hơn
nữa, Âu châu có sẵn một chương trình hành động nhằm
bành trướng mà Hoa kỳ thì không.
Năm 2006, theo thống kê Trung quốc, 66% số nhập khẩu
của TQ đến từ Á châu, và châu Á cũng là thị trường
thu hút 47% số xuất khẩu của TQ (xem bảng 2 và 3).
Mậu dịch với ASEAN+Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Hồng
Kông và Ấn Độ, chiếm 45% tổng số ngoại thương. Theo
một nhà ngoại giao hàng đầu Trung quốc, con số nầy
sẽ tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới.Yếu tố quyết
định là sự tăng trưởng trong các quan hệ kinh tế với
Nhật. Năm 2006, Trung quốc đã trở thành đối tác
thương mãi hàng đầu của Nhật, vượt qua Hoa Kỳ. Nhật
chiếm 17,2% ngoại thương Trung quốc trong khi FDI
Nhật chiếm khoảng 10% trong tổng số FDI đầu tư vào
Trung quốc trong cùng năm. Kim ngạch xuất khẩu của
Nhật qua Trung quốc gia tăng 15,6%, trong khi nhập
khẩuTrung quốc từ Nhật gia tăng 9%. Cho đến nay,
khỏang 20.000 công ty Nhật đang hoạt động ở Trung
quốc. Những khu vực quan trọng nhất là sản xuất xe
hơi và điện tử.
Sự tăng trưởng trong mậu dịch song phương Trung
quốc-Ấn Độ cũng rất quan trọng: năm 2006 , đạt 22 tỉ
đô la (tăng 22% so với 2005, và so với 260 triệu
đôla năm 1990). Trong 4 tháng đầu năm 2007, ngạch số
thương mãi hai chiều lên đến 11,4 tỉ, gia tăng 57%
so với năm trước. Thương nghị một thỏa ước mậu dịch
tự do đã là ưu tiên hàng đầu. Lần trao đổi Trung
quốc-Ấn Độ thứ 5 vào ngày 25-26 tháng 9 năm 2007 ở
Bắc Kinh hình như đã vượt qua giai đoạn nghiên cứu
khả thi và dọn đường cho sự hình thành một thỏa ước
khởi động từ tháng 4-2005.
Ít ra đối với một số chuyên gia về chính sách thương
mãi Trung quốc, trong trường kỳ, lô gic của những
diễn biến vừa nói phải đưa đến sự trổi dậy của một
xu hướng mới ở Á châu, tương đương với quá trình hội
nhập kinh tế mà EU đã giúp hình thành ở Âu châu. Một
cộng đồng Á châu đa phương nhằm gặt hái những lợi
ích của một nổ lực hợp tác thương mãi được tăng
cường, có thể bao gồm sự tạo dựng một đơn vị tiền tệ
Á châu dựa trên kinh nghiệm của EU. Xu hướng nầy có
thể dẫn đến một liên hiệp tiền tệ Đông Á và cũng có
thể rộng lớn hơn. Âu châu đã phải mất gần 20 năm mới
thiết lập được đồng Euro khởi đi từ một đơn vị tiền
tệ chung cho Âu châu. Để thể hiện một hình thức
Euro, Á châu chắc chắn phải mất một thời gian lâu
dài hơn. Tuy nhiên, nhiều quan sát viên tỏ ý nghi
ngờ về khả năng nầy, tin rằng Nhật chưa sẵn sàng
cộng tác với Trung quốc nhằm xây dựng một mô hình
kiểu EU với một đơn vị tiền tệ duy nhất. Hơn nữa,
với những khác biệt trong nhịp độ phát triển kinh tế
trong vùng, chắc chắn còn nhiều trở ngại lớn lao
trước khi đạt được đồng thuận.Tháng 1-2007, các xứ
ASEAN ký thỏa ước mở cửa đón nhận thương mãi dịch vụ
với Trung quốc, năm năm sau ngày đón nhận thương mãi
hàng hóa. Khối ASEAN cũng đồng ý thiết lập một khu
vực mậu dịch tự do có cả Triung quốc tham dự vào năm
2015. Khu vực mậu dịch tự do Trung quốc-ASEAN sẽ có
một tổng dân số khoảng 1,8 tỉ, và sẽ trở thành một
khối mậu dịch toàn cầu lớn thứ ba sau EU và Khu Vực
Mậu Dịch Tự Do Bắc Mỹ. Những suy diễn và vận động
viễn kiến trên đây rõ ràng cho chúng ta thấy rõ tham
vọng của Trung quốc ở Á châu nhiều hơn là sự lượng
định của Trung quốc về Âu châu và EU. Tuy nhiên, các
chiến lược gia Trung quốc chắc chắn đang xem những
thành tựu của EU như một nguồn cảm hứng lớn lao đầy
ý nghĩa cho sáng kiến hợp tác cấp vùng.
8. Âu châu và sự trổi dậy của Trung quốc như một
siêu cường kinh tế
8.1. Tham vọng kỷ thuật của Trung quốc
Theo dự phóng của người Hoa, Trung quốc có tiềm năng
phát triển trung bình 7%/năm trong vòng 20 năm tới
(11,5%/năm trong 6 tháng đầu năm 2007).Trung quốc
quyết chí trở thành một nền kinh tế kỹ thuật cao
giống như Hoa Kỳ, khác với Ấn Độ chỉ mạnh về dịch
vụ. Tham vọng nầy được thể hiện, đặc biệt nhờ ở sự
phát triển của các kỹ nghệ mới về sinh học - loại kỹ
nghệ nền tảng của cuộc cách mạng kỹ nghệ sắp tới do
Trung quốc dẫn đầu - cũng như Âu châu và Mỹ châu đã
dẫn đầu các kỹ nghệ mới về vật lý và hóa học vào đầu
thế kỷ 20. Ngày nay, Trung quốc đang dẫn đầu trong
ngành sản xuất táo (apples), và trên đường trở thành
một trong những xứ sản xuất dâu xanh (blue berries),
chè trái cây (jam), và các sản phẩm đông lạnh liên
hệ, qui mô nhất. Bí quyết là sự quyết tâm theo đuổi
công nghệ di truyền. Gạo biến đổi theo công nghệ di
truyền chiếm 10% ngân sách dành cho ngành nghiên cứu
công nghệ sinh học, trong khi Trung quốc có đến 3,5
triệu hectares trong tổng số toàn thế giới 102 triệu
hectares đất dành trồng giống được sửa đổi theo kỷ
thuật di truyền.
Người Trung quốc tin khoa học là cốt lỏi của ý niệm
về chính quốc gia mình. Họ tin văn hóa của Trung
quốc gần gũi và cởi mở đối với ngành nghiên cứu di
truyền, nhất là y khoa, hơn là Tây phương. Họ chỉ
trích thái độ chống đối các ngành canh tác dựa trên
công nghệ di truyền của Âu châu. Họ e rằng trong
tương lai Âu châu có thể thiếu khả năng cải tiến so
với Hoa Kỳ, nếu Liên Hiệp Âu châu không mặn mà hơn
với các dự án nghiên cứu lớn về sinh học và khoa học
không gian. Hầu hết các khoa học gia Trung quốc
trong những ngành nầy đều xem EU còn cần phải cạnh
tranh nhiều hơn trong ngành giáo dục. Vào năm 2020,
Trung quốc sẽ có 4 triệu sinh viên mới, gần gấp đôi
con số nầy ở Hoa Kỳ và Âu châu. Hơn nữa, "Âu châu
không hề có một Đại học nào tương đương với
Massachusetts Institưte of Technology" và cũng không
đánh giá đủ cao "tầm quan trọng chiến lược của một
nền giáo dục tuyệt hảo". Tuy nhiên, người Trung quốc
biểu lộ những điều lo ngại nầy là vì họ xem Âu châu,
với tiềm lực nghiên cứu khoa học lớn lao và một văn
hóa khoa học phi chính trị và thế tục, như một đối
tác trong quá trình phát triển khoa học của Trung
quốc, có lẽ còn quan trọng hơn cả Hoa Kỳ. Như lời
một chuyên gia TQ: "Trung quốc sẽ xét đoán EU theo
khả năng như một trung tâm giàu khả năng khoa học và
nguồn cung cấp công nghệ cao chính yếu, cũng như
theo trình độ cởi mở trong việc theo đuổi những
chương trình nghiên cứu chung với Trung quốc".
8.2. Giai đoạn thương thảo kế tiếp với Âu châu
Một khía cạnh quan trọng khác trong viễn kiến phát
triển kinh tế của Trung quốc sẽ là sự chuyển tiếp kỹ
nghệ chế biến từ quốc nội ra nước ngoài, theo con
đường trước đây người Nhật, ngưới Đại Hàn, và các
cường quốc kinh tế đang lên đã trải nghiệm. Bên cạnh
Châu Mỹ La Linh, Âu châu, đặc biệt là Trung và Đông
Âu, các thành viên của EU là những trường hợp thật
sự đáng lưu ý. Trong chiều hướng nầy, sự giao dịch
của Trung quốc với Hungary hiện quan trọng nhất, với
thương mãi hai chiều lên đến 4,6 tỉ vào năm 2006.
Xuất khẩu Trung quốc qua Hungary tăng gấp bốn kể từ
2003, lên đến 3,8 tỉ năm 2006. Hungary cũng là nước
chủ nhà của hơn 3.000 xí nghiệp Trung quốc. Chẳng
hạn, Lenovo, một trong những doanh nghiệp máy vi
tính lớn của Trung quốc, đã sản xuất chiếc máy vi
tính để bàn PC thứ một triệu ở Hung vào năm 2007.
"Hungary là cửa ngõ vào thị trường EU cho thương
mãi, tài chánh, và du lịch Trung quốc.Trong chuyến
công du ngày 4-9-2007 đến Trung quốc của bộ trưởng
thương mãi Hung, một thỏa ước đã được ký kết theo đó
Trung quốc sẽ thiết lập một Trung Tâm Thương Hiệu
Trung quốc tại Budapest với một số đầu tư 250 triệu
euro, để bán ở Âu châu các loại hàng sản xuất từ
Trung quốc . Người Trung quốc cũng không chỉ giới
hạn quyền lợi tại Trung Âu như một căn cứ chế biến
tiềm năng các loại đồ điện, hay vải vóc. Họ còn tìm
thấy ở đây nhiều cơ hội tốt cho các dịch vụ, khởi
đầu với dịch vụ xây cất. Chẳng hạn, tháng 9-2007,
công ty China International Industry Commerce Co Ltd
- CIIC - đã ký một thư cam kết (letter of intent)
xây một tòa nhà thương mãi 40 tầng ở Roumania và một
thỏa ước đối tác thương mãi tham dự chương trình
canh tân các phương tiện vận tải đường bộ.
8.3. Âu châu như một mô hình xã hội
Mặc dù với 'sự lạc quan cơ bản không bờ bến' về
triển vọng kinh tế xứ sở, người Trung quốc cũng
không choáng ngợp đến nổi không thấy những trở ngại
vô cùng khó khăn họ đang đối diện trong quá trình
hoàn thành mục tiêu trong những năm sắp tới. Để nuôi
sống một dân số 1,3 tỉ , TQ tiên liệu, cho đến năm
2020, sẽ tiêu thụ 2/5 trên 55% số gia tăng tiêu thụ
thịt trên thế giới. Với hơn 1.000 xe hơi mới đăng ký
mỗi ngày chỉ trong phạm vi thành phố Bắc kinh mở
rộng, nhiều đoạn đường chính trong hệ thống xa lộ
gần như luôn luôn bị ùn tắc. Với 70% các thành phố
bị ô nhiểm, phí tổn để duy trì không khí trong lành
và nước sạch, ước tính lên đến gần 100 tỉ mỗi năm
(hay 5,8% GDP), và bệnh đường hô hấp và nhiều bệnh
khác gia tăng nhanh chóng. Đây là 4 mối lo chính của
TQ:
(1) Nhiều công ty quốc nội không đem lại lợi nhuận
thích ứng (do đó rất dễ bị thương tổn khi có biến
động bất lợi trong các thị trường chính).
(2) Bất bình đẳng trong xã hội ngày một gia tăng; và
hố cách biệt giữa những vùng phát triển và những
vùng thiếu phát triển trong nước (với 11 vùng cực
Tây chỉ dành được 13% GDP, trong khi 10 vùng ven
biển lại chiếm đến 58%).
(3) Sự lệ thuộc ngày một tăng vào những tài nguyên
năng lượng từ bên ngoài. Trung quốc hiện đã là nước
tiêu thụ năng lượng lớn thứ hai trên thế giới, nhưng
số cầu vẫn tiếp tục gia tăng, 135% đối với dầu hỏa
và 260% với hơi đốt từ nay cho đến năm 2025. (Vào
năm 2020, 25% nhu cầu phải được đáp ứng bằng dầu
lửa, 10% bằng hơi đốt, và 4% bằng năng lượng nguyên
tử).
(4) Sự xuống cấp nhanh chóng của đất canh tác và
nguồn nước (90% nguồn cung cấp nước ở đô thị và 62%
sông ngòi bị ô nhiễm, trong khi tổng phí tổn cung
cấp nước lên khoảng 1% GDP).
Người Trung quốc vững tin, hầu hết những vấn đề trên
đều có thể giải quyết nhờ ở sáng tạo kỷ thuật. Về
điểm nầy,'chúng ta rõ ràng có nhiều lòng tin hơn Tây
phương'. Tuy nhiên, họ cũng thấy cần thực hiện nhiều
điều chỉnh xã hội và hành chánh và 'phát triển vừa
phải và công bình', một việc làm 'rất khó khăn nhưng
thiết yếu'. Trong bối cảnh đó, nhiều lúc họ tỏ ra
băn khoăn còn nhiều điều phải học hỏi từ Âu châu,
chứ không phải chỉ phương cách xây dựng những nhà
máy năng lượng hạt nhân tốt nhất. Như di sản của
biện chứng Marxist, một trí thức Thượng Hải nhìn Âu
châu như một xã hội trung lưu nhiều hơn là Hơa Kỳ
(căn cứ trên tiêu chí lợi tức được phân phối bình
đẳng hơn). Lịch sử Âu châu 'được định hình bởi sự
nổi trội của tầng lớp trung lưu giống như những gì
Trung quốc đang trải nghiệm hiện nay. Chúng tôi đặt
nhiều hy vọng ở một sự tăng trưởng theo chiều hướng
nầy'. Vài nhà bình luận đã nêu rõ sự gặp gở giữa 'sự
khôn ngoan của chiến lược năm quân bình' trong Kế
Hoạch Ngũ Niên thứ 11 (2006-10) và 'ý tưởng của Âu
châu tìm kiếm một thế quân bình giữa hiệu quả kinh
tế và công bằng xã hội, cũng như giữa nhu cầu của
nền kinh tế và xã hội và môi trường'.
Nếu những ý tưởng nầy được sớm phát biểu cụ thể, có
lẽ là nhờ một số chuyên gia Trung quốc quan tâm học
hỏi các cơ chế điều hành thị trường nội bộ của EU và
quản trị các quỹ cơ cấu. Như một chuyên gia ở Bắc
Kinh đã phát biễu: 'về nhiều phương diện, Trung quốc
cũng đa dạng và tản quyền (diverse and
decentralized) như Âu châu' và với tầm cở của mình,
'có thể tìm thấy ở Ủy Hội Âu châu một nguồn cảm hứng
và kinh nghiệm tiềm năng'. Tháng 10-2006, một Bản
Ghi Nhớ (Memorandum of Understanding) đã được ký kết
giữa Ủy Hội Âu châu và Ủy Hội Cải Cách và Phát Triển
Quốc Gia của Trung quốc (Chinese National
Development and Reform Commission), khởi động một
cuộc nghiên cứu toàn bộ các vùng ở Trung quốc.Trung
quốc và Âu châu cũng đàm luận về những thách thức
đặt ra cho một dân số già cỗi. Trung quốc đối diện
với một dân số bất lợi không mấy khác với Âu châu.
Dân số Trung quốc sẽ lên tới 1,44 tỉ vào nặm 2025,
sau đó sẽ bắt đầu sụt giảm, xuống lối 1,39 tỉ vào
năm 2050. Tháng 9-2006, Trung quốc và Âu châu tham
dự một hội nghị bàn tròn đầu tiên về an sinh xã hội
và khởi động Dự Án hợp tác EU-Trung quốc về Cải Cách
An Sinh Xã Hội, nhằm nghiên cứu các áp lực ngân sách
liên quan đến hệ thống hưu bổng và các hệ thống y tế
và giúp phát triển một hệ thống an sinh xã hội khả
thi rất thiết yếu cho Trung quốc. Đây là một địa hạt
có thể trao đổi rộng rãi và có thể đưa tới một sự
tham gia lớn lao hơn của Âu châu trong các khu vực y
tế của Trung quốc.
9. Sự đánh giá của Trung quốc về kinh tế Âu châu
Như vậy, người Trung quốc lạc quan hay bi quan về
tương lai kinh tế của Âu châu? Câu trả lời là cả
hai. Họ sẵn sàng công nhận tiềm lực lớn lao của EU
hơn những nhà quan sát Mỹ và Ấn Độ . Họ thán phục cơ
sở thương mãi và khoa học đặc trưng của các quốc gia
thành viên EU. Trong phạm vi đồng Euro và viễn ảnh
tiếp tục quá trình mở rộng EU, họ tin tưởng Âu châu
có sẵn những công cụ đặc trưng để sửa chữa sai lầm
và nâng cao thịnh vượng, cũng như thích ứng với
những nguy cơ tiềm tàng trong kinh tế thế giới như
sự lan tràn chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Nhưng họ nghi
ngờ khả năng của EU trong nổ lực thống nhất về chính
trị thiết yếu cho sự duy trì và tăng cường những ưu
điểm vừa nói. Theo họ, Âu châu còn có nhiều nhược
điểm ngày một nghiêm trọng hơn - nhất là trong hệ
thống giáo dục, đặc biệt là cấp đại học, và thiếu
tham vọng trong địa hạt khoa học và kỷ thuật, những
nhược điểm đưa đến tình trạng thiếu quyết đoán, đôi
khi dị ứng hoặc chống đối các công nghệ mới quan
trọng về thương mãi. Điều đó là nguyên nhân đưa đến
tình trạng thiếu tinh thần kinh doanh và sẵn sàng
chấp nhận chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Tóm lại, vị thế
kinh tế khách quan chung của EU rõ ràng là hùng mạnh
trong căn bản. Các khó khăn của Âu châu phần lớn có
thể tìm thấy trong phạm trù chính trị và văn hóa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHÍNH TRỊ ÂU CHÂU
1. Đối tác Trung quốc-Âu châu: hướng tới một khung
hợp tác mới
Tháng 5-2005, TQ và EU đã cử hành kỹ niệm thứ 30
ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là một dấu
mốc rất ít ý nghĩa, bởi lẽ quan hệ song phương đúng
nghĩa chỉ thực sự bắt đầu với cuộc họp thượng đỉnh
EU-Trung quốc đầu tiên vào năm 1998, một phần lớn do
người Âu châu đang có nhu cầu nâng cao uy tín của
đồng Euro sắp ra đời. Từ đó, họp thượng đỉnh đã trở
thành một sự kiện hàng năm. Năm 2003, thỏa ước thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược được ký kết, tiếp
theo sau việc Trung quốc chỉ định đại sứ đầu tiên
bên cạnh EU vào năm trước. Văn kiện chính sách 2003
của Ủy Hội Âu châu đính kèm thỏa ước nêu rõ kế hoạch
hành động đầu tiên nhằm khởi động đối thoại chính
trị , bao gồm việc duyệt xét các cơ chế hiện hữu và
quản trị cấp vùng và toàn cầu cũng như các vấn đề an
ninh. Trước đó, hai bên cũng đã có trao đổi bán
chính thức các văn kiện vào năm 1994 và 2002 và
nhiều thảo luận kế tiếp liên quan nhiều vấn đề như
các cuộc họp cơ cấu với các ngoại trưởng các quốc
gia thành viên EU (nhất là Bộ ba EU - EU Troika),
với các trưởng phái bộ và các chuyên viên kỷ thuật.
Ngoài ra cũng có các cuộc Đối thoại về Nhân quyền
năm 1995, và hợp tác khoa học năm 1998. Quan hệ
EU-TQ cũng đã được quy định trước đó trong thỏa ước
ký năm 1985, chủ yếu về thương mãi nói chung và vài
đề mục kinh tế, mặc dù vẫn là khung pháp lý chính
hiện nay.Tuy nhiên, kể từ năm 2003, và sau khi hợp
tác kinh tế song phương ngày một gia tăng, tiến bộ
phần nào đã nhanh chóng hơn.
Đặc biệt đáng chú ý là những tiến triển sau:
. Tuyên bố chung về các vấn đề môi trường đạt được
sau phiên họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2005, khởi
động một đối tác nhằm đối phó với hiện tượng thay
đổi khí hậu qua sự hợp tác thiết thực và thành đạt
một số kết quả cụ thể. Bản tuyên bố chung nầy được
xem như bổ túc cho Thỏa Ước Khung LHQ về Thay Đổi
Khí Hậu và Hiệp Nghị Thư Kyoto.
. Thỏa thuận hợp tác của TQ trong chương trình vệ
tinh vận tải hàng hải Galileo của EU, ký kết vào
tháng 10 -2003, và được khai triển thành đối thoại
về khoa học và kỷ thuật không gian vào tháng 7-2006.
. Thỏa ước 8-12-2004: tuyên bố chung về vấn đề kiểm
soát và cấm phổ biến vũ khí.
. Thỏa ước 2005, tăng cường trao đổi về giáo dục
trong khuôn khổ chương trình Erasmus-Mundus và hội
thoại TQ-EU.
. Khởi động thương nghị Thỏa ước Đối Tác và Hợp Tác
mới vào ngày 18-01-2007 ở Bắc Kinh, nhằm thay thế
Thỏa Ước Thương Mãi và Hợp Tác Kinh Tế EEC-TQ 1985.
Hiệp định khung nầy dự liệu bao gồm 22 khu vực và
chuyên đề, kể cả năng lượng, môi trường, thương mãi,
nhân quyền, và phản ảnh sự tiến bộ trong quan hệ
song phương từ kinh tế đến chính trị.
2. Tại sao nhịp tiến triển lại chậm ?
Thành tích khiêm tốn nầy là do TQ thiếu hiểu biết
sâu xa về bản chất của EU. Một vài bình luận gia Âu
châu nêu rõ sự kiện không có một định nghĩa chính
thức cho cụm từ "đối tác chiến lược" trong thỏa ước
được đề nghị, như tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết
nầy. Một nhà quan sát khác lại cho rằng người TQ
thường thích nhấn mạnh những điểm tương đồng hơn là
những vấn đề gây tranh cải, vì vậy, rất khó thương
thuyết đúng vấn đề. Trong thực tế, người TQ thường
khá thoải mái với áp lực nhẹ nhàng hiện nay từ phía
người Âu về nhân quyền, một đề tài tranh cải cổ
điển. Đối thoại EU-TQ về nhân quyền, chẳng hạn, vẫn
tiếp tục mặc dù đối thoại với Hoa kỳ đã đình chỉ từ
năm 2001-02. TQ cũng chẳng xem sự căng thẳng thương
mãi là một vấn đề, mặc dù điều nầy đang thay đổi.
Người TQ giải thích những vấn đề nầy chủ yếu là do
EU chưa sẵn sàng thay đổi giai đoạn 15 năm áp đặt,
khi TQ gia nhập WTO vào năm 2001, trong thời gian
nầy TQ được xem như một nền kinh tế phi-thị-trường.
Nhưng vài nhà bình luận Âu châu có khuynh hướng xem
đây như một vấn đề kỹ thuật liên kết với những lo
ngại ngày một gia tăng về quyền sở hữu trí tuệ, hơn
là một chướng ngại quan trọng đối với thỏa ước chiến
lược.
Nếu người ta muốn nhận chân một đề tài quan trọng
trong nhãn quan người TQ, đó chính là vấn đề cấm vận
vũ khí do Tây phương áp đặt sau vụ đàn áp phong trào
đòi dân chủ ở Bắc Kinh và vài noi khác ở TQ năm
1989. Đối với các quan sát viên TQ, việc EU chưa đáp
ứng được điều kiện tháo gở cấm vận chứng tỏ trong tư
duy chiến lược, người Âu châu không cảm thấy thoải
mái với TQ. Điều đó cũng xác nhận hai cảm nhận căn
bản của người TQ. Trước hết, nó phản ảnh những quan
hệ chiến lược chặt chẻ giữa EU và Hoa Kỳ. Như một
chuyên gia TQ nhận xét: 'Chúng tôi nghĩ sau chiến
tranh lạnh, quan hệ nầy đáng lẽ đã phải chuyển biến
theo chiều hướng tách bạch rõ ràng hơn giữa chính
sách đôi bên, nhưng trong thực tế, điều nầy đã không
xẩy ra'. Cảm nhận thứ hai còn quan trọng hơn. Nó
chứng tỏ sự vướng mắc, khó khăn trong thương nghị
với EU hoặc trực tiếp như một thực thể, qua 'Ủy Hội
hay Hội Đồng, hoặc qua các phiên họp thượng đỉnh
thường niên, hoặc gián tiếp qua thương nghị với từng
thành viên quan trọng riêng lẻ'. TQ đã chờ đợi thái
độ chống đối cấm vận của Tổng Thống Pháp Chirac,
chẳng hạn, đã có thể đem lại một sự thay đổi chính
sách. Vả chăng, người TQ cảm thấy 'nếu họ đã không
thành công trong thương nghị với tất cả các quốc gia
Âu châu về vấn đề cấm vận vũ khí và không hiểu rõ
quá trình quyết định tập thể của Âu châu về vấn đề
nầy, thì đó chính là do EU như một thực thể, chứ
không phải TQ, đã thiếu ý chí phát huy sự hợp tác và
đối thoại chính trị đứng đắn'. Họ cũng lập luận tháo
gở cấm vận sẽ giúp thu hẹp ngạch số khuy khiếm
thương mãi vì Âu châu có thể bán cho TQ các công
nghệ phi-quốc-phòng TQ đang cần, nhưng hiện nay, bị
ngăn cản vì những lý do chính trị hơn là lý do an
ninh.
3. Trường hợp công nghệ
Nhiều người TQ quả thật rất ca ngợi khả năng kỹ
thuật của Âu châu. Họ tin hợp tác trong địa hạt nầy
là đáng theo đuổi và ít rắc rối hơn là với người Mỹ.
Môi trường
Địa hạt nổi trội nhất chính là môi trường. Người TQ
công nhận vai trò quán quân và lãnh đạo thế giới của
Âu châu trong nổ lực đối phó với vấn đề thay đổi khí
hậu và ô nhiễm. Năm 2005, Đối Tác Thay Đổi Khí Hậu
TQ-EU được khởi động, bao gồm hợp tác trong việc
phát triển, dàn trải và chuyển giao công nghệ 'low
carbon', như kỹ thuật tiền tiến đốt than không gây ô
nhiễm, kiểm soát nắm bắt và tồn trử carbon (advanced
near-zero emissions coal burning and carbon capture
and storage). Thỏa ước còn dự liệu thăm dò tiềm năng
năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, vài bình luận gia TQ
thấy cần phân biệt rõ ràng giữa các sáng kiến khoa
học và kỹ nghệ vừa nói với sự tranh cãi rộng lớn hơn
về vị trí của TQ trong việc đối phó với hiện tượng
hâm nóng toàn cầu và ô nhiễm. Họ công nhận đường lối
phát triển đất nước trong tương lai phải hiệu quả về
năng lượng, và tình trạng ô nhiễm ở TQ chắc chắn sẽ
gia tăng và phải được kiểm soát chặt chẻ. Những âu
lo về chất lượng không khí trong thời gianThế Vận
Hội, tổ chức vào tháng 8-2008, đã thúc đẩy TQ đề
xuất, trong tháng 6-2007, chiến lược quốc gia đầu
tiên về hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Chiến lược dự
liệu sẽ cắt giảm 50 triệu tấn lượng khí thải carbon
dioxide vào năm 2010. TQ ước lượng sẽ vượt qua Hoa
Kỳ về lượng khí thải vào năm 2008. Tuy nhiên, những
biện pháp cứu chữa không thể phương hại đến tiến độ
phát triển của nền kinh tế TQ. Như Thủ Tướng Ôn Gia
Bảo đã tuyên bố trong dịp thủ Tướng Đức Angela
Merkel viếng thăm, tháng 8-2007: 'TQ đã chịu một
phần trách nhiệm trong hiện tượng thay đổi khí hậu
từ 30 năm nay, trong khi các xứ kỹ nghệ khác đã phát
triển nhanh trong 200 năm qua'. Một nhà ngoại giao
kỳ cựu cũng nhận xét: 'TQ đang ở trong một vị thế
tương tự như vị thế của Âu châu trong hai thập kỷ
1960s và 1970s, và sẽ phải tìm giải pháp để đối phó
với những vấn đề ô nhiễm. Đây là lãnh vực trong đó
EU và TQ có nhiều tiềm năng hợp tác chặt chẻ và rộng
lớn, cũng như để đối đầu. Chúng ta phải ra sức xây
đắp tiềm năng thứ nhất và tránh tai vạ thứ hai'.
Năng lượng hạt nhân
Một địa hạt, trong đó người TQ rất phấn khởi trước
sự tiến bộ trong chương trình hợp tác với Âu châu,
là năng lượng hạt nhân(thermonuclear fusion). Quyết
định của TQ tham gia vào dự án Lò Phản ứng Nguyên Tử
Thực Nghiệm Quốc Tế (International Thermonuclear
Experimental Reactor - ITER) năm 2003 (góp một tỉ mỹ
kim trong khi EU tài trợ 50% trong tổng số 12,8 tỉ
quỷ tài trợ dự án) cho thấy ưu tiên ngày một cao TQ
dành cho an ninh năng lượng và tác động của tình
trạng lệ thuộc vào nhiên liệu than dầu (fossil
fuels) trên môi trường . Tháng 8-2007, TQ là thành
viên cuối cùng đã chuẩn y thỏa ước thành lập tổ chức
ITER. Vài người Âu châu tỏ ý lo ngại TQ có thể dùng
tổ chức nầy để chính thức hóa chương trình hạt nhân
riêng của mình.Tuy nhiên, các bình luận gia TQ đã
nói rõ, TQ được đón nhận vì thành quả nghiên cứu của
chính mình trong địa hạt nầy. Tháng 9-2006, dự án
EAST superconducting Tokamak thuộc Viện Vật Lý
Plasma, Hàn Lâm Viện Khoa Học ở tỉnh Hefei, đã thí
nghiệm thành công 'plasma discharge' lần đầu. Các
nhà bình luận cũng nhấn mạnh khía cạnh môi trường
của chương trình nghiên cứu hạt nhân chỉ là một phần
trong quyết định của TQ hợp tác với Âu châu về môi
trường.
Không Gian
Tháng 10-2003, TQ đồng ý gia nhập chương trình hệ
thống vệ tinh vận tải Galileo, dự trù sẽ đi vào hoạt
động năm 2013. (TQ là nước ngoài EU đầu tiên tham
gia, tiếp đó còn có Israel, Ukraine, Ấn Độ, Nam Hàn
và Morocco). TQ cam kết 200 triệu euro vào dự án,
bằng phần đóng góp của các thành viên EU chính. Điều
nầy đã đưa đến một loạt các dự án hợp tác giữa EU và
TQ trong chương trình không gian và các địa hạt liên
hệ. Một lần nữa, các bình luận gia Âu châu lên tiếng
báo động điều nầy có thể giúp TQ phát triển hệ thống
vệ tinh vận tải độc lập riêng của họ (hệ thống
Beidou, lên đến 30 vệ tinh với quỹ đạo trung bình
quanh địa cầu, và như vậy, đủ khả năng cạnh tranh
thương mãi với hệ thống EU). Người TQ giải thích
những e ngại đó (theo họ là thiếu cơ sở) chỉ phản
ảnh những bất đồng quan điểm giữa người Âu châu với
nhau về vấn đề tài trợ chương trình Galileo. Họ cũng
cho biết TQ đã dành nhiều tài nguyên cho chương
trình nghiên cứu không gian, một lãnh vực họ tin Âu
châu cũng nên quan tâm đầy đủ hơn. Từ lần phóng vệ
tinh có người lái vào năm 2003, TQ đã khai triển một
chương trình tham vọng hơn. Chương trình bao gồm
nhiều chuyến thám hiểm không-phi-hành-gia lên mặt
trăng , để thăm dò đá giàu hàm lượng khí helium-3,
một tiềm năng nhiên liệu cần thiết trong các lò phản
ứng hạt nhân, và một chuyến gửi phi hành gia đổ bộ
lên mặt trăng trong vòng 15 năm sắp tới (ngày
24-10-2007, tàu vũ trụ Chang'e I với quỹ đạo quanh
mặt trăng đã được phóng trên hỏa tiển cải tiến Long
March 3-A từ giàn phóng vệ tinh Xichang Satellite
Launch Center), cũng như các kế hoạch xây dựng một
cảng không gian qui mô mới ở phía Nam đảo Hainan.
Cảng không gian nầy còn là một hệ thống phòng thủ
không gian, như đã chứng tỏ qua vụ thử nghiệm hỏa
tiển chống vệ tinh vào tháng 1-2007.
Trường hợp quốc phòng
Mặc dù cấm vận vũ khí, TQ vẫn tranh thủ sự hợp tác
của Âu châu trong một số địa hạt liên hệ đến quốc
phòng. Đặc biệt quan trọng là vấn đề kiểm soát nạn
lan tràn vũ khí. Năm 2004, EU và TQ đã đưa ra một
tuyên bố chung. Một đề án tiếp theo vào năm 2006
nhằm huấn luyện các viên chức quan thuế trong việc
nhận diện và truy tầm các hàng hóa và vật liệu nhạy
cảm cũng như trao đổi kinh nghiệm thực tế trong việc
thực thi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và khuyến
cáo xem xét các sáng kiến chung EU-Á châu qua sự
tham gia của diễn đàn ASEAN. Ngoài ra còn có sự trao
đổi khiêm tốn về quân trang, quân dụng ngoài vũ khí
(bị cấm vận). Tổng giá trị các giấy phép thuộc loại
nầy lên đến 340 triệu euro năm 2004 - quan trọng
nhất là 169 triệu với Pháp, 148 triệu với Anh. Ngân
sách quân sự chính thức của TQ đã gia tăng từ 15 tỉ
năm 2000 đến 46,4 tỉ năm 2007, với một tỷ lệ gia
tăng 17,8% từ 2006, mặc dù vài nhà quan sát xem
những con số trên đã loại ra ngoài những chi tiêu
liên hệ đến quốc phòng như những tạo mãi từ nước
ngoài.
Hơn nữa, sự quan tâm ngày một gia tăng của TQ, từ
một cường quốc trên bộ đến một cường quốc trên biển,
đã đưa đến những trao đổi với hải quân một số quốc
gia Âu châu. Như một nhà bình luận giải thích, TQ
rất tò mò về các truyền thống hàng hải và kinh
nghiệm chiến lược của Âu châu, vì lẽ như một xứ lệ
thuộc vào giao thương hàng hải để phát triển, TQ
phải đối đầu với sự đe dọa lớn lao nhất cho sự
trường tồn từ những khu vực bên ngoài biên giới của
mình, và vì vậy, cần có một hải quân hùng mạnh để
bảo vệ quyền lợi của chính mình. Hải quân TQ có một
trọng tải 790.000 tấn so với 475.000 tấn của Anh, và
308.000 tấn của Pháp. Mùa hè 2007, các tàu chiến TQ
đã có một cuộc du hành kéo dài 87 ngày, kể cả thăm
viếng Liên Bang Nga, Anh quốc, Pháp, và Tây Ban Nha.
Các tàu hải quân TQ đã cùng hải quân hoàng gia Anh
tổ chức một cuộc diễn tập đầu tiên với sự tham dự
của một hàng không mẩu hạm, và là cuộc tập trận
chung đầu tiên ở Đại Tây Dương. Sau đó, hải quân TQ
còn có tập trận chung lần đầu tiên ở Địa Trung Hải
với hải quân Pháp, lấy tên Hữu Nghị TQ-Pháp 2007. (
Năm 2006, Hải quân TQ cũng đã tham gia những cuộc
diễn tập tìm kiếm và cứu nạn chung với hải quân Hoa
Kỳ ở ngoài hải phận Hawaii vào tháng 9 và Nam Hải
tháng 11).
Vài chuyên gia ngoại giao TQ nói rõ là, trong hiện
tình, sự quan tâm của TQ với Âu châu trong địa hạt
quân sự sẽ theo mẩu mực với Hoa Kỳ, bởi lẽ trên
phương diện chiến lược, họ không có đủ lý do để phân
biệt giữa Âu châu và Mỹ. Một ví dụ điển hình là sự
hổ trợ rõ rệt của Anh và Pháp đối với sự quan tâm
của Hoa Kỳ trước những tham vọng hạt nhân của Bắc
Hàn và Iran. Hai quốc gia hạt nhân của Âu châu đều
hùa theo giọng điệu của Hoa Kỳ cả trong hai trường
hợp: vai trò của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng, và
giọng điệu gay gắt của Hoa Kỳ đối với quan hệ của
chính quyền TQ với Tehran . Âu châu rất có thể
chuyển biến theo chiều hướng thống nhất và có một
lực lượng quân sự hùng hậu hơn, lúc đó TQ mới xét
lại quan hệ của mình. Đó là điều đương nhiên. Tuy
nhiên, họ tin điều nầy khó thể sớm xẩy ra. Hậu quả
của sự khả dĩ nầy có lẽ sẽ giảm bớt gánh nặng an
ninh cho Hoa Kỳ, bởi lẽ người TQ không thể tưởng
tượng trong một trạng huống nào đó, Âu châu sẽ đi
ngược lại người Mỹ. Thực vậy, một chuyên gia Bắc
Kinh còn nghĩ rằng TQ không nên loại bỏ một sự khả
dĩ theo đó quan hệ an ninh hiện nay giữa Hoa Kỳ và
các nước thành viên của NATO một ngày đẹp trời nào
đó có thể biến dạng đến trìnhđộ Âu châu có thể giữ
vai trò đàn anh.
5. Trường hợp thế lực mềm
Sự quan tâm rõ rệt và ngày một gia tăng cuả TQ đến
'thế lực cứng' đã thuyết phục các nhà quan sát Âu
châu là TQ có rất ít thì giờ để nghĩ đến 'thế lực
mềm', thứ thế lực chính của Âu châu trong sinh hoạt
thế giới. Thực vậy, rất nhiều người chỉ trích thành
tích của Âu châu trong vùng Balkan và Trung Đông.
Như một bình luận gia đã nói, 'ít ra cho đến nay, EU
hoặc hoàn toàn vô hiệu, hoặc phải được người Mỹ tiếp
sức, hoặc phục tùng người Mỹ'. Người ta cũng có thể
nghĩ như vậy về sự xét đoán của người TQ đối với sự
quan tâm của Âu châu về khủng hoảng Dafur. 'Phê bình
TQ, một gương mặt mới đến từ phía bên kia của thế
giới - về sự thất bại của chính Âu châu trong một
vùng kế cận mình, ở đó Âu châu đã giữ một vai trò áp
đảo trong nhiều thế kỷ - là một điều sai lầm. Và
cũng là một sai lầm khi Âu châu mong đợi Hoa Kỳ quan
tâm hay nhảy vào hợp tác xuyên-Phi châu'.
Điều nầy càng khiến Âu châu âu lo hơn , nhất là
quyền lợi kinh tế TQ, gia tăng nhanh ở Phi châu nói
chung, đặc biệt ở vùng sub-Sahara, đang giúp duy trì
các chế độ thối nát toàn trị phương hại cho nhân
quyền và dân chủ. Bên cạnh việc TQ đang tài trợ và
xây 1.500 cây số ống dẫn dầu đến cảng
Marsa-el-Bashair ở Sudan, TQ còn đầu tư đáng kể,
hoặc mua hoặc cho vay để dành quyền khai thác, các
tài nguyên thiên nhiên ở Gabon, ở Cộng Hòa Dân Chủ
Congo và Zambabwe. Một vài chuyên gia TQ sẵn sàng
giải thích sự kiện nầy như là 'đạo đức giả của Âu
châu'. Nhưng một phản ứng phổ thông khác là nhấn
mạnh sự kiện TQ luôn duy trì nguyên tắc không can
thiệp vào nội tình các xứ khác, 'ở châu Phi, điều đó
không có nghĩa là thờ ơ, nhất là đối với khủng hoảng
nhân đạo hoặc các điều kiện chính trị thuận lợi cho
khủng bố'.
Cuộc họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2006 khuyến cáo
thiết lập một đối thoại định kỳ cấp cao về Phi châu.
Từ đó, vài chuyên gia đã cho thấy cũng có tiềm năng
'trao đổi về các dự án hỗn hợp, như các chương trình
hạ tầng cơ sở quan trọng'. Các nhà quan sát TQ rất
muốn nêu rõ 'TQ có kinh nghiệm có lợi cho các quốc
gia đang phát triển', và điều quan trọng là phải
dành ưu tiên tuyệt đối cho phát triển kinh tế. Những
thẩm định gần đây của TQ về Palestine, Iraq, Bắc
Hàn, Iran, Sudan và Burma, đều nhấn mạnh sự cần
thiết phải giải quyết các vấn đề chung về nghèo đói
và thiếu phát triển như là điều kiện tiên quyết cho
bất cứ mục tiêu chính trị nào khác. Chẳng hạn, 'đầu
tư của TQ ở Phi châu đã có thể đem lại nhiều phát
triển kinh tế trong thập kỷ qua hơn tất cả các số
viện trợ của Tây phương'. Thực vậy, cơ sở của ý niệm
nầy là lòng tin của TQ rằng 'mọi phát triển kinh tế
bất cứ ở đâu cũng giúp cho phát triển và tiến bộ của
chính TQ', nhất là trong những xứ gần TQ hoặc TQ có
nhiều quyền lợi thương mãi. Mặc dù cách tiếp cận nầy
'hoàn toàn loại bỏ phương cách thay đổi chế độ như
Hoa KỲ đã áp dụng ở Iraq', đây chính là phương cách
'đã cho phép TQ tham dự nhiều hơn trong các công tác
gìn giữ hòa bình'. Khoảng 1.000 quân nhân TQ đã được
gửi tới Lebanon. Quan hệ của các quân nhân nầy với
các đối tác người Âu đã được mô tả là 'rất hữu ích'.
Vài nhà bình luận TQ hình như nghĩ rằng tất cả những
điều nầy đã tạo nên sự xuất hiện một thứ chủ thuyết
'thế lực mềm của TQ' và một sự gặp gở trong chủ
thuyết chính sách ngoại giao giữa EU và TQ. Theo một
nhà phân tích hàng đầu TQ: 'người Âu cũng đặt nặng
tầm quan trọng của phát triển kinh tế và thương mãi
như một khí cụ cơ bản của ảnh hưởng của họ và cũng
chia sẻ cách nhìn của chúng tôi về tầm quan trọng
của trao đổi văn hóa và duy trì sự đa dạng văn hóa'.
Điểm nầy có thể tạo 'một căn bản cho sự hiểu biết
thông cảm sâu xa hơn'.
6. Vai trò của Âu châu ở Tây phương
Những cảm nghĩ vừa nói thường dễ tìm thấy trong
nhiều phát biểu của người TQ, 'cũng giống như các
đối tác EU, các nhà tư duy chiến lược TQ nghĩ về
quan hệ quốc tế tương lai trong khuôn khổ đa cực' -
'một khuôn khổ duy nhất, theo họ, sẽ có thể bảo đảm
sự ổn định và tính khả dĩ tiên liệu' cần thiết cho
TQ 'trổi dậy trong hòa bình' với tới 'địa vị thích
hợp' giữa các cường quốc hay các khu vực trong thế
kỷ 21. Tuy nhiên, trong thực tế, Weltanschauung của
TQ trong cốt lỏi là luỡng cực. Như một nhà phân tích
chính sách đối ngoại TQ nhận xét: 'tay chơi duy nhất
thật sự quan trọng đối với TQ là Hoa KỲ. Chúng tôi
cũng muốn thấy một Âu châu hùng mạnh hơn trên thế
giới'. Âu châu có thể trở thành một trong những cực
của một trật tự đa cực nào đó, nhưng 'yếu tố Hoa kỳ
đang là một chướng ngại ngoại lai lâu dài làm vướng
víu bất cứ một đối tác chiến lược nào giữa EU-TQ'.
Những khoảnh khắc Âu châu tách khỏi Hoa kỳ như
trường hợp đa số các thành viên EU trong vụ xâm
chiếm Iraq luôn được hoan nghênh. Hy vọng nhiều khi
được bộc lộ, hoặc ít ra hiểu ngầm, một thái độ tương
tự có thể xẩy ra trước một khủng hoảng ,ví dụ, ở
Taiwan. Trong mọi trường hợp, 'Âu châu không được
xem như có thể là một đối trọng, hoặc một thay thế,
của Hoa Kỳ'.
Trạng huống nầy bắt nguồn từ EU thiếu cả hội nhập
nội bộ lẫn thế lực đối ngoại. Âu châu hiện diện như
'một ý tưởng hơn là một thế lực'. Với những giới hạn
như vậy, quả thật rất khó lòng để xem Âu châu như
một lực lượng thống nhất và chặt chẽ trên thế giới.
Lý do là TQ hiện vẫn duy trì 27 chính sách riêng rẽ
bên sau đối tác chiến lược Âu châu đang theo đuổi
với TQ. Điều quan trọng hơn đối với TQ là xây đắp
quan hệ song phương với từng quốc gia Âu châu, mỗi
xứ có những phương cách làm việc riêng với chính
quyền TQ. Theo Kishore Mahbubani, khoa trưởng trường
Đại Học Lý Quang Diệu ở Singapore, TQ đã 'nổi dậy
như một tay chơi địa chính trị hết sức khôn lanh
trên thế giới', trong khi 'EU chỉ là một diễn viên
địa chính trị với một cơ cấu khập khiểng què quặt'.
Nhiều chuyên gia TQ xem Âu châu 'quá thủ thân, hướng
nội và dành quá nhiều năng lực vào việc giải quyết
những vấn đề nội bộ' thay vì 'hướng ngoại tham dự
vào những sinh hoạt toàn cầu', là 'phương cách tốt
nhất để vượt qua những khó khăn vừa nói'. Yếu tố căn
bản là 'người Âu châu phải hoàn toàn thức tỉnh trước
sự trổi dậy của Á châu nói chung, và TQ nói riêng'.
Tuy nhiên, rõ ràng là Âu châu không có lợi lộc căn
bản nào để hành động cạnh tranh với Hoa Kỳ vì cả hai
đều là thành tố của Tây phương. Như một người TQ đã
nói: 'Xét cho cùng, trong nhiều khía cạnh, chúng
tôi, người TQ, không phân biệt người Âu và người Mỹ
về phương diện văn hóa, cũng như về văn hóa, người
Âu cũng không phân biệt người TQ với người Nhật'.
Nhận xét trên có nghĩa, người TQ vững tin, sự sắp
hàng của Nhật với Hoa KỲ hiện nay (một việc làm, nói
theo từ ngữ thời chiến tranh lạnh, đã biến Nhật
thành một bộ phận của 'Tây phương'), khi có thời cơ,
sẽ được thay thế bởi 'một tình hữu nghị thắm thiết
và hòa bình' với TQ (một biến chuyển một lần nữa
giúp Nhật trở về cương vị một phần của 'Đông
phương'). Điều nầy cho thấy có thể có một sự song
hành trong sự chuyển biến khả dĩ (possible
evolution) trong quan hệ Nhật-Mỹ và Hoa-Nhật. Từ năm
1945, và có lẽ sớm hơn thế, Nhật đã vượt qua TQ,
cũng như Hoa Kỳ đã vượt qua châu Âu. Tuy nhiên, ngày
nay, TQ đã lấy lại 'vị trí lãnh đạo truyền thống về
văn hóa, kinh tế và chính trị'. Liệu một điều tương
tự có thể đến với Âu châu hay không? Đã hẵn là có
thể, khi so sánh giữa mặc cảm tự ti và tự tôn lẫn
lộn trong sự xét đoán hổ tương Hoa-Nhật và Âu
châu-Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu điều nầy xẩy ra, sự hồi
sinh của Âu châu so với Hoa Kỳ, ít ra trong phạm vi
chính trị, có lẽ phải mất một thời gian lâu dài hơn
trong quan hệ Hoa-Nhật. 'Trong hiện tình, tất cả
những gì TQ có thể hy vọng là tạo một không gian
đồng thuận đủ để giúp EU tỉnh táo không hành động
trái với quyền lợi của chính mình, nhờ đó, có thể
ảnh hưởng tốt đến chính sách của Hoa Kỳ'.
7. Nhận thức thay đổi của Âu châu và Trung quốc về
Đông và Tây
Một số bình luận gia cho TQ đã có một định nghĩa quá
uyển chuyển về Đông và Tây. Họ giải thích điều nầy
như 'quyết tâm của TQ không để cho các khu vực quan
trọng khác trên thế giới vô tình trôi dạt vào quỹ
đạo ảnh hưởng của Hoa Kỳ'. Một chuyên gia khác lại
cho đây là một dạng hiện đại của ý thức hệ Maoist
'Hổ Trợ của Phương Nam' (a modernized version of the
Maoist 'South Solidarity' ideology) của thập kỷ
1960s và 1970s. Sự giao hảo của TQ với Phi châu
sub-Sahara đã được ghi nhận. Quan hệ với Bắc Phi và
vùng Trung Đông cũng khá quan trọng. Ngoài những
sáng kiến đã được bàn đến trước đây, ở Sudan và
Lebanon, công ty Thăm Dò Dầu Khí Quốc Gia TQ đã đầu
tư vào nhà máy khai thác dầu Zarzaitine ở Algeria,
với khả năng sản xuất 1,3 -2,5 triệu tấn dầu mỗi
năm, và sẽ khởi công xây nhà máy lọc dầu gần Adrar.
TQ cũng có sự hiện diện đáng kể ở Libya, lắp đặt một
đường ống dẫn dầu và hơi đốt dài 500 cây số. Ngoài
ra, từ lâu TQ đã có nhiều trao đổi , đầu tư và quyền
lợi quan trọng về dầu khí, cả về bán vũ khí cho
Saudi Arabia, và trên hết, với Iran.
Âu châu và Hồi giáo, cả hai đều được người TQ hiểu
như những thành tố của thế giới địa lý và tôn giáo
của văn minh Tây phương, vì vậy, Bắc Phi và Trung
Đông là những phân bộ trong quỷ đạo chiến lược của
Âu châu. Tuy nhiên, hậu quả đặc trưng của tình trạng
nầy là gì thì chưa rõ ràng. Có lẽ, như một quan sát
viên ở Singapore đã nói thẳng thắn: 'Hồi giáo là một
vấn đề của Âu-Mỹ'. Tuy nhiên, một cái nhìn như vậy
hình như đã quên bẳng không những kinh nghiệm của Ấn
Độ mà cả kinh nghiệm dài lâu và cực kỳ quan trọng
của TQ về thiểu số Hồi giáo, chưa nói gì đến
Malaysia và Indonesia - những kinh nghiệm rõ ràng vô
cùng quan trọng đối với quyền lợi của TQ.
Sự kiện TQ sẵn sàng tin tưởng Tây phương đang thay
đổi có lẽ đã được chứng minh một cách rõ ràng nhất
qua quan hệ với Nam Mỹ. So với Phi châu, quan hệ nầy
sâu xa hơn rất nhiều, mặc dù châu Mỹ La Tinh rõ rệt
là gần gũi với văn hóa Âu châu hơn hẵn Phi châu
sub-Sahara. Gần 50% FDI của TQ tập trung ở Nam MỸ và
nhiều người tiên liệu thương mãi hai chiều sẽ đạt
100 tỉ trong vòng 5 năm tới. TQ cũng hoan nghênh ảnh
hưởng gia tăng của Á châu ở Nam Mỹ nói chung ( chẳng
hạn, tháng 9-2007, Nhật đã ký một thỏa ước đối tác
kinh tế chiến lược và thương mãi tự do với Chile,
thỏa ước đầu tiên loại nầy trong vùng, trong khi
Brazil là xứ thứ 11 cho đầu tư trực tiếp của Nhật),
như một 'báo hiệu cho những gì sẽ xẩy ra trong
trường kỳ, ngay cả ở Bắc Mỹ' với 'những hậu quả địa
chính trị vô cùng quan trọng'.
Điều TQ quan tâm hơn cả là sự hội nhập và liên kết
chặt chẻ của Á châu, nhất là Đông Á. Vài người xem
đây là cách giải quyết chính sách bao vây họ cảm
nhận qua quan hệ ngày một gần gủi hơn giữa Nhật và
Ấn Độ. Một số khác giải thích theo chiều hướng ý
thức hệ, như một sự thức tỉnh của tinh thần liên đới
Á châu.Theo Wu Jianmin, viện trưởng Viện Đại Học
Ngoại Giao Trung Quốc, quan hệ Hoa-Nhật cần được un
đúc trong tinh thần 2.000 năm lịch sử giao thương
giữa hai nước. Suốt thời gian đó, bang giao giữa hai
quốc gia xét chung khá tốt. TQ nên đi theo dòng suối
hòa bình với Nhật. Khi làm như vậy, gương thành công
lớn lao của EU - đã làm cho chiến tranh ở Âu châu
không thể xẩy ra, đặc biệt là giữa Pháp và Đức -
được xem như rất đáng noi theo.Theo một chuyên gia
khác, sự chấm dứt chiến tranh lạnh ở Âu châu, và sự
tái thống nhất của Đức cũng là những kinh nghiệm
điển hình khác cho bán đảo Triều Tiên, và quan hệ
của Triều Tiên với TQ và Nhật. Như vậy, kinh nghiệm
dùng hội nhập kinh tế như một phương tiện giải quyết
những thù nghịch chính trị và bất ổn là một nguồn
cảm hứng để theo đuổi một sự hợp tác chặt chẻ hơn
giữa TQ và Nhật Bản, cũng như ý tưởng hội nhập lớn
lao hơn cho phần còn lại của Á châu.
8. Sự bánh trướng của EU
Chính vì lý do nêu trên, các chuyên gia TQ rất quan
tâm đến cơ chế mở rộng EU. Một số xem đây như lợi
thế chính trị và kinh tế lớn nhất của EU đối với Hoa
Kỳ. Họ còn thấy con đường mở rộng Âu châu hơn nữa là
yếu tố quyết định cho qui chế tương lai như một thực
thể hùng cường có ảnh hưởng toàn cầu. Tuy nhiên, một
số khác lúc đầu lại băn khoăn trước sự gia nhập của
các quốc gia cộng sản Đông Âu trước đây (bởi lẽ điều
nầy phương hại đến nhận thức của họ về EU như một
câu lạc bộ của các nước giàu). Mặc dù ngại ngùng còn
dai dẳng, hiện nay, ngày một nhiều người hơn công
nhận diễn tiến mở rộng là một thành công và viễn ành
quá trình mở rộng tiếp tục là một biểu lộ tiềm lực
lớn lao của Âu châu. Vài chuyên gia còn hăm hở trước
triễn vọng gia nhập EU của Thổ Nhi Kỳ, xem đó như
một diễn tiến tự nhiên. Một số khác lại nhấn mạnh có
lẽ TQ còn hiểu rõ hơn Âu châu: 'Thổ Nhị Kỳ không chỉ
là một cầu nối với Trung Đông mà cả với Trung Á'.
Cùng một cảm nghĩ và mong mỏi cũng được bày tỏ về
mối quan hệ gần gũi hơn của Âu châu với các xứ trong
vùng Maghreb, Tây Bắc Phi châu, và có lẽ với nhiều
xứ khác ở Trung Đông. Một nhà quan sát TQ còn muốn
EU nên cố gắng nhiều hơn để giao hảo với cả Israel
song song với các xứ Hồi giáo, để cân bằng ảnh hưởng
với Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là liệu EU rồi
ra có mở rộng đến tất cả các xứ Đông Âu, Belarus và
Ukraine và, lâm thời, có lẽ cả Liên Bang Nga?
Như vậy, phải chăng TQ xem Nga như Âu châu? Nga luôn
là đối tác truyền thống của TQ, xứ cung cấp vũ khí
và năng lượng quan trọng hơn cả. Nga đã cung cấp 80%
vũ khí nhập khẩu của TQ và là nước cung cấp dầu lớn
thứ năm trong năm 2006. Trong năm 2005, TQ và Nga đã
có cuộc tập trận chung lớn đầu tiên kể từ khi Mao
Trạch Đông cắt đứt quan hệ với Liên Bang Xô Viết.
Nhiều người nghĩ,'trong mắt người Nga, mối lợi bán
vũ khí cho TQ chưa chắc đã tương xứng với nỗi lo âu
về quyền kiểm soát Siberia trong tương lai - mối lo
âu ngày một gia tăng với sự hiện diện ngày một đông
đảo người Hoa trên lãnh thổ Nga, nhất là
Vladivostok, Khabarovsk, Irkutsk, và ngay cả Moscow.
Phía TQ cũng có nhiều e ngại. Mặc dù có nhiều thỏa
ước quan trọng với Nga trong những năm gần đây,
chẳng hạn thỏa ước năm 2006 thiết lập một đường ống
dẫn 80 tỉ thước khối hơi đốt mỗi năm nội trong 5
năm, Bắc Kinh cũng khá dè dặt khi lệ thuộc quá nhiều
vào số năng lượng do Nga cung cấp. Quan hệ của TQ
đối với Nga liên kết chặt chẻ với quan hệ với Trung
Á . TQ rất tin tưởng sự liên kết nầy trong Tổ Chức
Hợp Tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation
Organization - SCO). Tuy nhiên, như một bình luận
gia Âu châu nhận xét, từ khi thành lập vào năm 2001,
SCO đã phát triển được rất ít sự hợp tác tăng cường
nầy.
Vài chuyên gia TQ hình như tin nền kinh tế Liên Bang
Nga vẫn ở trong tình rạng mất thăng bằng, lệ thuộc
quá nhiều vào sản xuất năng lượng và rất dễ tổn
thương trước những hậu quả bất lợi của một dân số
sụt giảm. Giới thức giả Nga cũng bị đánh giá là bất
cập trước những thách thức hồi sinh của một quốc gia
vĩ đại. Những nhược điểm nầy, mặc dù gây nghi ngờ về
khả năng duy trì địa vị một đại cường, vẫn chưa phải
là chỉ dấu cho thấy trong tương lai Nga sẽ hướng
nhiều hơn về Tây phương hay Đông phương. Các chuyên
gia thường trú ở Bắc Kinh nghiêng về giả thuyết của
TQ - Nga là Âu châu. Điều nầy có nghĩa là sau
Ukraine, Nga rất có thể trở thành một đối tác thân
cận , ngay cả một thành viên của EU. Đã hẵn, một khi
Nga gia nhập EU, nếu điều đó thực sự xẩy ra, đó sẽ
là một thành tựu lớn và tích cực của Âu châu. Tuy
nhiên, các nhà quan sát thường trú ở Thượng Hải, có
lẽ chú tâm về kinh tế nhiều hơn là xu hướng chính
trị hay văn hóa, tin tưởng Nga đã thất bại như là
một quốc gia dân chủ kiểu Tây phương. Mặc dù Nga có
thể tự xem là Âu châu hay chưa có quyết định, Nga
chắc chắn đang chuyển dịch về hướng Á châu.
9. Triển vọng của EU
Nhu cầu một viễn kiến chiến lược mạch lạc cho Âu
châu
Những phân tích trên đây hình như chỉ đưa đến một
nhận thức chính trị thiếu mạch lạc về Âu châu, một
nhận định cùng lúc rất bi quan và cũng rất lạc quan.
Nói chung, các chiến lược gia TQ cảm nhận một Âu
châu thống nhất hơn có thể thích ứng dễ dàng vào
quan niệm một thế giới hài hòa của TQ. Mặc dù duy
trì những quan hệ song phương với từng nước thành
viên riêng lẻ có nhiều điều lợi, nhiều người TQ vẫn
nghĩ cuối cùng họ thà giao hảo với một Âu châu thống
nhất, một Âu châu có chung một tiếng nói. Một số
đồng ý với các bình luận gia Âu châu, theo đó, nếu
Âu châu không muốn bị lép vế bởi Hoa Kỳ trong những
giao dịch với TQ, Âu châu phải đủ sức thay đổi đường
lối đơn thuần kỷ thuật để bao trùm cả khía cạnh
chính trị , nhưng điều nầy chỉ thực hiện được khi
khai triển được một tiếng nói chung về chính sách
ngoại giao mạnh mẻ hơn cho Âu châu. Nói chung, thỏa
ước cải cách định chế mới là một bước tiến đáng kể
theo chiều hướng nầy. Với sự giải quyết các vấn đề
thủ tục gặp phải trong quá trình mở rộng Liên Hiệp,
điều đó sẽ cho phép Liên Hiệp điều hành nội bộ một
cách hiệu quả hơn. Thỏa ước dự liệu nhiệm kỳ chủ
tịch EU là hai năm rưởi, tối đa hai nhiệm kỳ, và một
quan chức đại diện chính sách ngoại giao cao cấp với
quyền hạn gia tăng, sẽ đem lại cho Âu châu thêm một
cơ chế quan trọng cần thiết trong lãnh vực đối
ngoại.
Quốc phòng, đồng Euro, và mở rộng Liên Hiệp
Ba địa hạt chính sách đặc biệt sau đây sẽ quyết định
uy tín của EU trong những năm tới:
(1) Tiến bộ trong việc hình thành chính sách an ninh
và ngoại giao chung cho Âu châu. TQ sẽ đặc biệt quan
tâm đến chiều hướng biến chuyển thuận lợi cho Âu
châu trong cán cân quyền lực giữa người Âu và người
Mỹ bên trong NATO , với một thành tố Âu châu hùng
mạnh hơn, và vai trò những định chế EU trong việc
hoạch định và thi hành một chính sách thống nhất và
mạch lạc về ngoại giao và an ninh chung . Điều nầy
đòi hỏi trước hết những quan hệ chặt chẻ hơn giữa
Anh quốc và Pháp.
(2) Tiến bộ của đồng Euro như một phương tiện dự trử
toàn cầu ( nhiều chuyên gia xem đây như là một tiến
bộ chính trị cũng như kinh tế).
(3) Nhịp độ và kích thước mở rộng Liên Hiệp. TQ mong
muốn được thấy tiến trình mở rộng sẽ diễn tiến theo
chiều hướng gia tăng thay vì giảm bớt trình độ kết
hợp nội bộ và mục tiêu đối ngoại mạch lạc và rõ
ràng. Trong trung hạn, một xứ đặc biệt quan trọng là
Ukraine, như một bước tiến tới một quan hệ EU-Nga
chặt chẻ hơn.
Tưởng cũng cần nhắc lại là nhiều nhà quan sát TQ vẫn
nghi ngờ EU có đủ khả năng vượt qua các nhược điểm
vừa nói. Âu châu rất chia rẽ và đang gặp nhiều khó
khăn trong giai đoạn chuyển tiếp. Tuy nhiên, nhiều
người tin với thời gian, những khó khăn nầy có thể
được khắc phục. Vì vậy, mặc dù không ai có thể tiên
đoán thời gian chuyển tiếp sẽ kéo dài bao lâu, nhưng
cuối cùng, tương lai của Âu châu vẫn luôn sáng sủa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ VĂN HÓA ÂU CHÂU
1. Tha hóa hay Di thất văn hóa (Cultural
estrangement)
Một sự kiện rõ ràng là mặc dù rất quí mến người Âu,
người Hoa từ lâu đã tích lũy một số cảm nghĩ khó
chịu mang tính lịch sử - một di thất hay tha hóa văn
hóa nhuốm màu sắc nghi ngờ. Cảm nghĩ khó chịu nầy
đôi khi được bộc lộ dưới hình thức giận dữ trước sự
đưa tin của các cơ quan truyền thông Âu châu về một
số vấn đề như nhân quyền, sản phẩm nhái, tình báo kỹ
nghệ, hay ô nhiễm môi trường . Họ tin, đối với các
cơ quan truyền thông Âu châu, 'TQ chẳng bao giờ làm
được điều gì đúng'.Người Hoa đặc biệt có cảm nhận
các nhà bình luận Âu châu về TQ 'thường không mấy
quan tâm đến văn hóa hoặc lịch sử TQ' và 'càng ít
quan tâm hơn đến những khía cạnh phức tạp và mâu
thuẩn trong quá trình phát triển của TQ hiện nay'.
Như một chuyên gia đối ngoại TQ đã nói, 'thái độ cao
ngạo đó được xem như quá tầm thường và nhàm chán'.
Ngược lại, người ta rất ưa thích những nổ lực của Âu
châu giao lưu với văn hóa TQ đương đại, như 'Năm
Trung Quốc' ở Pháp vào các năm 2003-04, tiếp theo đó
là những chương trình tương tự ở Ý năm 2006 và Liên
Bang Nga năm 2007. Như Kerry Brown, một chuyên gia
Âu châu về TQ, đã gợi ý, 'một Năm Âu châu ở Trung
Quốc cũng cần được cổ súy'.
Mặc dù những sáng kiến vừa nói trong từng quốc gia
là đáng trân quí, nhiều người TQ nghĩ 'có nhiều địa
hạt và cơ hội để hợp tác chân thành giữa EU và TQ
trong lãnh vực văn hóa'. Như một sử gia TQ đã phát
biểu:' Chúng tôi cảm thấy phần lớn sự ngộ nhận hiện
nay giữa chúng ta và người Âu bắt nguồn từ chỗ Âu
Châu gặp khó khăn nắm bắt tầm cở những gì chúng ta
đang làm để hiện đại hóa đất nước, và từ đó, tầm cở
những trở lực chúng ta phải vượt qua. Điều nầy hình
như không phải là một vấn đề đối với người Mỹ'. Nếu
người Âu hiểu được 'tầm cở dự án to lớn hội nhập
toàn lục địa của họ', nếu họ dấn thân nhiều hơn vào
dự án của họ ở cấp quần chúng, ngay cả ở cấp thức
giã, 'họ sẽ có thể thấu hiểu được nhiều hơn về TQ'.
Trong hiện tình, nhiều người nghĩ sự ngộ nhận được
hiểu đang làm cho Tây phương - và một lần nữa, đặc
biệt là Âu châu - e ngại sự trổi dậy của TQ'. Và sợ
hải không phải là 'một cơ sở tốt cho giao lưu văn
hóa rộng sâu hơn'.
2. Trung Quốc và Liên Hiệp Âu châu: âm và dương của
văn minh thế giới
Cơ sở của cái gọi là Weltanschauung 'luỡng cực' của
TQ là ý niệm có hai thành tố căn bản của văn minh
nhân loại, thành tố Đông phương do TQ đại diện và
thành tố Tây phương do văn hóa Âu châu đại diện. Cả
hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Toàn cầu hóa
đã đưa đến giao lưu văn hóa, nhưng đồng thời cũng
làm gia tăng ý nghĩa của dị biệt văn hóa.Theo một
nhà quan sát TQ, hậu quả văn hóa chính của sự trổi
dậy cuả TQ là phá vở huyền thoại (myth) của cái gọi
là "chung điểm của lịch sử"(end of history) như là
một 'trường phái chủ thắng nông cạn của Tây phương'
(superficial Western triumphalism). Trong mọi trường
hợp, nhiều người Hoa tin, kể từ ngày kỷ nguyên thuộc
địa cáo chung, đa số người Âu, trái với một số người
Mỹ, đã từ bỏ sự bất bình thường nầy. Họ xem EU, một
phần, đã được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ sự đa
dạng văn hóa và là một phản ứng chống lại quá khứ đế
quốc của Âu châu, một quá khứ chỉ đưa đến thảm họa,
ngay chính bên trong châu Âu.
Nét đặc trưng của văn minh Âu châu được nhận diện
qua cội nguồn tôn giáo của nó . Người Âu đánh giá
thay đổi (tiến bộ) cao hơn là ổn định, bởi lẽ họ tin
tưởng ở ý nghĩa thiêng liêng mang tính định mệnh của
lịch sử (a divinely determined meaning to history).
Điều nầy trái ngược với người Hoa luôn trân trọng
giá trị của ổn định (hài hòa) hơn là thay đổi. Nền
tảng của văn minh TQ là ở triết lý. Văn hóa Âu châu
hiện có chiều hướng bớt tin vào 'thay đổi' và đánh
giá 'ổn định' cao hơn - điều nầy khá nguy hiểm, bởi
lẽ, mặc dù Âu châu ngày nay về hình thức là thế tục,
các giá trị vốn bắt nguồn từ tôn giáo có thể tái
khẳng định, như trường hợp quan tâm của Âu châu đến
khoa học hiện đang sụt giảm. Trái lại, TQ có thể trở
nên quá thiết tha với thay đổi , và lơ là với ổn
định - đây cũng là điều khá nguy hiểm, vì thiếu
những giá trị vốn bắt nguồn từ triết lý, những giá
trị có thể tự tái khẳng định và bào mòn tính nhất
trí của xã hội. Như vậy, cả hai nền văn minh cần trở
về cội nguồn nhiều hơn. Nói một cách khác, Âu châu
và TQ cần giao lưu trao đổi văn hóa nhiều hơn. Được
vậy, người Âu có thể thấu hiểu những ý niệm của
người Hoa phân biệt rạch ròi giữa ổn định đơn thuần
với hài hòa; và người Hoa cũng có thể hiểu rõ những
ý niệm của người Âu phân biệt giữa thay đổi đơn
thuần với tiến bộ.
3. Giao lưu văn hóa giữa Âu châu và Trung Quốc
Về phía TQ, phương tiện chuyển tải sự khả dĩ hiểu
biết lẫn nhau là phát huy tư tưởng của nhà triết học
quốc gia lỗi lạc người Hoa - Khổng Phu Tử. Sau khi
tố cáo cuộc Cách Mạng Văn Hóa trong thập kỷ 1960s,
học thuyết Khổng Tử (Confusianism) đã dần dà hồi
phục được địa vị một cách bình lặng và hiện được xem
như một học thuyết triết lý quốc gia. Vào ngày
28-9-2007, sinh nhật thứ 2557 của Khổng Tử đã được
chính thức cử hành lần đầu tiên kể từ ngày đảng Cộng
Sản lên cầm quyền. Riêng buổi lễ tại Qufu, nơi sinh
của ngài, đã được cử hành một cách trang trọng với
sự hiện diện của các hậu duệ của chính vị sư tổ. Sự
kiện nầy bắt nguồn từ việc chính quyền ngày một âu
lo TQ đương đại cần một ý niệm mới để phát huy các
giá trị căn bản chung và đem lại sự đoàn kết quốc
nội kể từ ngày chủ nghĩa Maoism tan loảng thành Chủ
Nghĩa Xã Hội với Những Nét Đặc Thù của TQ (Socialism
with Chinese Characteristics). TQ vô cùng hãnh diện
với lịch sử thống nhất dài lâu độc nhất vô nhị của
mình. Nhưng sự đa dạng của TQ cũng rất đáng chú ý và
ngày nay, trong nhiều phương diện, với sự cách biệt
giàu nghèo ngày một gia tăng và ảnh hưởng của công
cuộc hiện đại hóa giữa các vùng, còn lớn hơn cả
EU.Thật là một điều đáng ngạc nhiên khi các chuyên
gia TQ luôn dò hỏi: 'ý niệm đoàn kết của Âu châu là
cái gì? Phải chăng đó là giấc mơ của các nhà lập
Liên Hiệp Âu Châu - EU?'.
Người TQ đã khai triển một mạng lưới các Viện Khổng
Học (Confucius Institưtes), bắt đầu ở bên trong TQ,
và từ năm 2004, ở hải ngoại. Nguồn hứng khởi cho
sáng kiến nầy đến từ sự quan sát các phong trào
tương tự ở Anh quốc, Pháp và Đức, với tới nhiều quốc
gia trên khắp thế giới - như British Council,
Alliance Francaise, Goethe-Institut. Cho đến năm
2007, tất cả có đến 190 Viện Khổng Học đã mở cửa
trên thế giới , kể cả 10 ở Anh và 5 ở Pháp. TQ dự
định thành lập trên 1.000 Viện như thế vào năm 2020.
Vài nhà bình luận tin những viện như thế được xem
như một phương tiện để nâng cao 'thế lực mềm' văn
hóa TQ trên thế giới. Người TQ rất quan tâm đến việc
tìm kiếm những phương cách tốt hơn , chẳng hạn, để
phổ biến phim ảnh, sách báo ,nhất là ở Âu châu, và
khuyến khích nhiều du khách Âu châu đến thăm viếng
xứ sở của họ. Trong những năm gần đây, TQ chỉ xuất
khẩu một số lượng hạn chế phim ảnh , trong khi sách
báo chỉ vào khoảng chưa đến 1% con số của Hoa Kỳ và
Âu châu vào năm 2004. Ngược lại, theo Tổ Chức Du
Lịch Thế Giới, TQ sẽ trở thành điểm đến lớn thứ hai
của thế giới vào năm 2010, trên cả Tây Ban Nha, và
thứ nhất vào năm 2020, nếu không sớm hơn, vượt qua
Pháp. Cũng như các tổ chức tương tự của Âu châu,
ngày nay, vai trò chính của các Viện Khổng Học bên
ngoài TQ là dạy tiếng Hoa. (Chính vì điểm nhấn nầy,
các quốc gia Âu châu đã không thể phối hợp những
hoạt động văn hóa của họ một cách chặt chẻ ở TQ).
Tuy nhiên, theo các nhà bình luận TQ và Âu châu, các
mạng lưới đại diện văn hóa nầy có thể tạo thành hạ
tầng cơ sở cho một sự tương tác sâu xa hơn giữa TQ
và EU.
Một phương cách để làm được việc nầy có thể là đi
theo gương của Trường Thương Mãi Quốc Tế TQ-Âu châu
ở Thượng Hải (được thành lập năm 2004 và tài trợ bởi
Ủy Hội Âu châu và chính quyền TQ). Tháng 1-2007, hai
bên đã đồng ý thành lập thêm Trường Luật Khoa Âu
châu-TQ (với 23,5 triệu tài trợ từ EU). Một phương
cách khác là nới rộng sáng kiến gần đây (9-2007) của
Charles de Gaulle Foundation, bảo trợ những quan hệ
văn hóa giữa những nhà lãnh đạo trẻ Pháp-Hoa thành
một sự giao lưu cho toàn khối EU. Phần lớn các nhà
nghiên cứu TQ đều đồng ý, địa hạt quan trọng nhất
cho sự hợp tác Âu châu-TQ là nhu cầu bảo vệ sự đa
dạng văn hóa trong một thế giới toàn cầu hóa. Một
nhu cầu khác là trao đổi văn hóa rộng lớn hơn.
Jean-Pierre Raffarin, nguyên thủ tướng Pháp, đề nghị
EU nên thiết lập một Chương Trình Khổng Học với TQ,
theo mẩu Chương Trình Eramus, nhằm bảo trợ những
quan hệ trong giới đại học trong toàn bộ Âu châu.
4. Trung Quốc đánh giá cao văn hóa Âu châu
Mặc dù phần lớn được đại diện bởi người Anh, người
Pháp và người Đức, Âu châu có một ảnh hưởng văn hóa
sâu rộng, chí ít là trong giới kinh doanh thượng lưu
TQ. Các tỉ phú TQ xây những biệt thự theo kiểu Điện
Versailles. Giai cấp trung lưu mới bị ám ảnh bởi
những sản phẩm xa hoa Âu châu và đi nghỉ thư giản ở
Âu châu. Như một nhà quan sát TQ nhận định, người
Hoa gần gũi với ý tưởng về lối sống Âu châu hơn là
lối sống Mỹ. Tuy nhiên, vì những lý do thực tế, năm
2005 Hoa Kỳ đã là nơi được các sinh viên TQ lựa chọn
đến du học. Số sinh viên TQ du học ở Âu châu trong
thực tế đã sụt giảm. Các nhà bình luận TQ thường hay
tỏ ý mong muốn Âu châu cải tiến chế độ phân chia số
hộ chiếu giữa các xứ thành viên để xử lý song
phương. Họ đặc biệt thích mở rộng khu vực các thỏa
ước Schengen (ký kết năm 1985 và 1990 tại Schengen,
Luxembourg). Nếu khu vực nầy bao gốm cả Anh quốc, đó
sẽ là một cải tổ mang tính rất tích cực đối với sinh
viên, nhân công, và du khách TQ.
Đã hẵn vẫn còn rất nhiều nghi vấn về chiều rộng cũng
như chiều sâu của mối giao lưu văn hóa thực sự của
TQ với Âu châu. Chẳng hạn, khi được hỏi họ ước mơ gì
cho tương lai xứ sở của họ, nhiều người Hoa rất sẵn
sàng cho biết họ muốn có dân chủ hơn. Nhưng khi đi
sâu vào vấn đề, ước mơ đó khác xa với các quan niệm
của người Âu về chính quyền đại diện và phổ thông
đầu phiếu, cũng như pháp trị. Nếu những phương tiện
để thành đạt ước mơ thường bị hiểu lầm, thì ngược
lại, cứu cánh - lối sống Âu châu - họ lại nhận thức
rõ ràng và ưa thích. Như một vị thức giả ở Bắc Kinh
giải thích: 'Mô hình Âu châu với chúng tôi là mô
hình công bằng xã hội và sự quân bình giữa chất
lượng môi trường và hiệu quả kinh tế. Mô hình nầy
khác với Hoa Kỳ và gần gủi với lý tưởng của chúng
tôi vế một trật tự hài hòa'. Điều nầy cho thấy lịch
sử về các nhận thức văn hóa hình như đã hoàn tất một
tiến trình vòng tròn. Trước đây một số người Âu hâm
mộ TQ, như Ruggieri, Leibniz, Montesquieu và
Voltaire, tin họ tìm thấy nhiều giá trị và nguyên
tắc của TQ rất gần với lý tưởng của họ hơn là ngay ở
Âu châu. Ngày nay, các trí thức TQ hình như đang
khen đáp lễ. Liệu điều nầy có đem lại cho người Hoa
những kết quả chất lượng như Âu châu trước đây,
chúng ta phải chờ xem.
5. Những nền văn minh lớn bị thương tổn nhưng không
bao giờ mai một
Chẳng bao lâu sự khâm phục và hâm mộ của người Âu
đối với TQ vào thế kỷ 18 đã phải nhường chỗ cho sự
khinh thường hay thương hại vào thế kỷ 19. Nhiều
người TQ ngày nay tự hỏi Âu châu đương đại phải
chăng 'là một lâu đài của lịch sử hay của tương
lai'. Với họ, Âu châu tỏ ra thụ động, hướng nội,
thoái hóa,và mệt mỏi, còn quá trù phú để mạo hiểm,
quá êm ấm để chấp nhận đổi thay, một lục địa đã đánh
mất tham vọng và vị trí của mình trên thế giới'. Hay
như một nhà phân tích chính sách ngoại giao đã nhận
xét: 'Thật đáng buồn khi thấy Âu châu gặp khó khăn
vì chia rẽ nội bộ. Chỉ ở cấp EU, các quốc gia thành
viên mới có thể có ảnh hưởng và một chỗ đứng trong
trật tự thế giới tương lai, cả về mặt kinh tế lẫn
địa chính trị, và có đủ sức mạnh cần thiết để trở
thành một đối tác chiến lược với TQ'. Nhiều nhà bình
luận TQ cảm thấy Âu châu đang đối diện với một nhu
cầu khẩn thiết phải hồi sinh, một quá trình đòi hỏi
phải tự tái khẳng định bản sắc của mình trong đó di
sản và giá trị cơ đốc kế thừa từ Thời Đại Khai Sáng
là một thành tố quan trọng'. Xét cho cùng, 'đó chính
là chất keo văn hóa của Âu châu , một yếu tố quyết
định khả năng duy trì uy thế một đại cường trên thế
giới'.
Những cảm nghĩ đó cũng không mấy khác sự thẩm định
bi quan, hay thực tế, của các nhà quan sát ngoài Âu
châu về EU và Âu châu như một tập thể. Đó cũng là
thẫm định thường gặp ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật, châu Mỹ
La Tinh và Đông Nam Á. Nhưng chỉ có nhận định của TQ
là đặc biệt và độc nhất về phương diện sau: ngay cả
nếu Âu châu, trong đoản kỳ hay trung hạn, không
thành đạt được một sự đoàn kết chặt chẻ hơn và một
tham vọng thiết yếu cho một đại cường trên thế giới,
'điều đó cũng chưa phải là chung cuộc'. Chính TQ
trước đây cũng trong cùng tình cảnh: Một nền văn
minh lớn, đã một lần bị mờ nhạt, nhưng bây giờ 'đã
tìm lại được sức mạnh bẩm sinh của mình', bừng dậy
một lần nữa 'lên đúng vị trí nổi trội tự nhiên của
mình'. Âu châu là nền văn minh duy nhất TQ công nhận
có thể sánh vai với chính mình. Đến một thời điểm
nào đó, sự kiện nầy sẽ trở thành quyết định trong
sinh hoạt của thế giới.
Appendix
1. EU-25-China trade
Year |
Exports(billion) |
%
change |
Imports
(billion) |
% of
change |
EU-25 Trade deficit with China(billion) |
2002 |
34.9 |
|
89.6 |
|
-54.7 |
2003 |
41.2 |
18 |
105.4 |
18 |
-64.2 |
2004 |
48.2 |
17 |
127.5 |
21 |
-79.3 |
2005 |
51.6 |
7 |
158.5 |
24 |
-106.9 |
2006 |
63.5 |
23 |
191.8 |
21 |
-128.3 |
Source: Eurostat ( September 2007)
2. Mainland China’s imports with major trading
partners
Largest trading Partners |
2006 (billion $) |
% growth |
% of total 2006 |
Japan
|
115.7 |
15 |
15 |
EU(then 25) |
90.3
|
23
|
11 |
Korea |
89.8 |
17 |
11
|
Asean10 |
89.5 |
19
|
11 |
Taiwan
|
87.1 |
17 |
11 |
USA |
59.2 |
22 |
7 |
Latin America |
34.2 |
28 |
4 |
Africa
|
28.8
|
37 |
4 |
Hong Kong |
10.8 |
-12 |
1 |
Source: Customs General Administration of the
People’s Republic of China (December 2006)
3. Mainland China’s exports with major trading
partners
Largest trading Partners |
2006(billion $) |
% growth |
% of total 2006 |
USA |
203.5 |
25 |
21 |
EU(then 25) |
182.0 |
27
|
19 |
Hong Kong |
155.4 |
25 |
16 |
Japan |
91.6 |
9 |
9 |
Asean10
|
71.3 |
29 |
7 |
Korea |
44.5 |
27 |
5 |
Latin America
|
36.0 |
52 |
4 |
Africa
|
26.7 |
43 |
3 |
Taiwan |
20.7 |
25 |
2 |
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USA
25-9-2008
-----------------------------------------------------------
Chú
thích:
Karine Lisbonne-de Vergeron tốt nghiệp Đại
Học London School of Economics, HEC-Paris và Bocconi
University Milan, chuyên về quan hệ quốc tế và chính
trị Âu châu, nhất là khía cạnh bản sắc văn hóa. Phúc
trình nầy là kết quả một công trình nghiên cứu từ
tháng 5 đến tháng 9 năm 2007 sau 22 cuộc phỏng vấn,
mỗi lần dài 2 giờ, ở Trung Quốc, phần lớn với các
nhà làm chính sách, các học giả và các vị lănh đạo
doanh nghiệp.
Phúc trình đồng thời được xuất bản Ở Anh, năm 2007,
bằng Anh ngữ, bởi Royal Institưte of International
Affairs Chatham House, 10 St James's Square, London
SW1Y4LE; và ở Pháp, năm 2007, bằng Pháp ngữ, bởi
Fondation Robert Schuman, 29, boulevard Raspail -
75007 Paris, France.
NOTES
1 Hubert Védrine, Rapport pour le président de la
République sur la France et la mondialisation,
Fayard, October 2007.
2 According to the International Monetary Fund,
October 2007 forecast. It is expected that its GDP
growth will slow between 10.5% and 10% in 2008.
3 Measured at purchasing power parity, according to
the Economist Intelligence Unit. Other experts
estimate that China will have increased its current
GDP by three times by 2025, and will become second
then behind the United States. (Le Monde en 2025,
directed by Nicole Gnesotto and Giovanni Grevi,
Robert Laffont, October 2007.)
1 Chinese economic views of Europe
1 According to Chinese estimates (Customs General
Administration of the People’s Republic of China,
Mainland China, Statistics with the World), from
January to September 2004, bilateral trade amounted
to $128 billion, above the $122 billion for China’s
trade with the United States over the same period.
2
Eurostat.http://ec.europa.eu/trade/issues/bilateral/countries/china/index_en.htm.
Chinese statistics are consistently lower than US
and European sources on account of the exclusions of
re-exports through Hong Kong.
3 The GSP scheme allows the EU to grant autonomous
trade preferences to imports from a list of
beneficiary developing countries.
4 The European Commission’s delegation in China,
trade statistics. http://www.delchn.cec.eu.int/en/.
5 Xinhua.net, 10 January 2007.
6 The European Union Chamber of Commerce in China,
China’s Position Paper 2007-2008, October 2007.
7 Eurostat, EU-25 Foreign Direct Investment in
Brazil, Russia, India, and China, No. 111-2007, 13
September 2007.
8 Statistics from Invest in China,
http://www.fdi.gov.cn/.
9 French economic mission in China, Les
investissements chinois en France et en Europe, 18
October 2006.
10 According to Chinese statistics (Customs General
Administration of the People’s Republic of China,
Mainland China, Trade Statistics with the EU (then
25)).
11 Statistics from the German embassy in China.
12 Le Monde, 5 December 2005.
13 ‘EPR chinois: la commande finalisée
prochainement’, Challenges, 20 September 2007.
14 Already, China is set to replace Germany as the
third-largest national economy in the world by the
end of 2007, having overtaken Britain as the
fourth-largest in 2005. In the next 10-15 years or
so, most analysts predict that it will surpass Japan
to achieve second place and by 2020 will have
matched the US and the EU, finally overtaking the
United States a decade later on a purchasing power
parity basis, when it will also have the largest
technology sector in the world.
15 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’,
Survival, IISS Quarterly, Vol. 49, No. 3, Autumn
2007, p. 203.
16 The US Congress has legislation pending
penalizing China for its currency controls.
17 China is currently running both an external
commercial and financial surplus.
18 Whilst China has accumulated in excess of $750
billion of FDI, important sectors still remain
restricted, notably the limitations on investment in
certain industries such as automotive telecoms,
petrochemicals and energy, and finance. In the
latter, foreign companies are limited to a 20%
shareholding or up to 25% through an international
consortium. Technical barriers are still placed in
the way of foreign companies and there is an
emerging trend towards unequal treatment by some
Chinese regulatory bodies. (The European Union
Chamber of Commerce in China, China’s Position Paper
2007-2008, October 2007.)
19 On 18 October 2007, the G7 called for the
revaluation of the Chinese currency.
20 In speech delivered by Peter Mandelson, EU
Commissioner for external trade, at the European
Parliament in Strasbourg on 10 July 2007.
21 From January to May 2007, the EU deficit with
China increased by nearly 53% (primarily due to a
138% increase to reach €61.1 billion. Eurostat, in
External and Intra-European Union Trade, monthly
update, Monthly statistics, Issue number 9/2007 and
French economic mission in China in ‘Note de
conjonctưre Chine’, Economic Review, August 2007.
22 Since 2002, it has depreciated by 30% against the
euro, with a deprecion of 1.8% from January to
August 2007. By contrast, it has steadily
appreciated against the dollar since July 2005 by
around 8.8%.
23 For example, a few experts wondered whether Peter
Mandelson’s influence as Commissioner for external
trade had diminished since the departưre of Tony
Blair from the office of British Prime Minister. Or
they would analyse the dispute between France and
Germany over the monetary policy of the European
Central Bank as the critical determinate of the
euro/dollar exchange rate.
24 In 2006, China displaced Japan as the largest
foreign exchange reserves in the world, estimated to
$1.43 trillion in September 2007, a 5% growth from
June 2007 (then estimated at $1.33 trillion). It is
believed that over 70^ of these are held in US
dollars, mostly in Treasury bonds.
25 While it is obvious that full convertibility of
the renminbi would require further improvements in
China’s banking sector, most European experts do not
see this as being a prerequisite for a managed
revaluation of 10% or 20%. There is even less
sympathy for the other two arguments for inactivity,
which the Chinese sometimes advance: that they
resisted Western calls for a devaluation during the
1998-99 Asian financial crisis and were vindicated,
and that the successful US campaign to force the
revaluation of the yen in the 1970s led to the
Japanese asset bubble of the 1990s. Neither case
really bears comparison with China’s current
circumstances.
26 Such predictions assume the disappearance
certainly of sterling and probably also of the yen.
27 This follows a spectacular rise in Chinese
strategic investments abroad – for example, in May
2007, $3 billion in the American private equity
group Blackstone and in July 2007 a 3.1% in the
British Barclays Group for €2.2 billion.
28 On 28 September 2007, Joaquín Almunia, the
European Commissioner for economic and monetary
affairs, indicated that sovereign wealth funds
investment will be restricted in Europe unless they
are more transparent.
29 How this squares with Chinese assessments of the
modalities of a potential Asian currency union is
unclear.
30 This would be ‘the modern geopolitical meaning
for China of “the Middle Kingdom”’.
31 The Association of South East Asian Nations
currently comprises Brunei, Cambodia, Vietnam,
Thailand, Singapore, Philippines, Burma, Malaysia,
Laos and Indonesia.
32 Given the scale of China’s requirements, some
analysts expect these to be overtaken by joint
energy projects. Important recent agreements include
that signed during the Sino-Japanese Energy Forum
held in April 2007 by Nippon Oil and China National
Petroleum Corporation for joint oil and gas
exploration production and supply both in China and
overseas; and that between Japan’s Sumitomo
Corporation and Kyushu Electric Power Corporation
the China Datang Corporation to build and operate
wind power generators in Inner Mongolia.
33 Garteh Price, China and India: Cooperation and
Competition, Asia Programme Briefing Paper, Chatham
House, May 2007.
34 See also Jaram Ramesh, Making Sense of Chindia,
India Research Press 2005.
35 There is also the redevelopment of the old
Stilwell Road connecting China and India through
Burma, currently being restored as a highway to
boost bilateral trade. China and also India, are
expected to help rebuild the Burmese Section
(Financial Times, 19 October 2007).
36 To date, the most considered proposal has come
from the Asian Development Bank, which mooted an
Asian Currency Unit (ACU) based on a weighted index
of the currencies of ASEAN + 3 countries i.e.
included Japan, South Korea and China.
37 ‘New attempt at East Asia financial cooperation’,
People’s Daily, 6 February 2006.
38 ‘Asean deal with China paves way for free-trade
zone’, The Times, 15 January 2007.
39 ‘New free-trade harbor area approved for trade
with ASEAN’, China Daily, 11 October 2007.
40 French economic mission in China, in ‘Note de
conjunctưre Chine’, Economic Review, August 2007.
41 In 2004, research and development amounted to
1.93% of the EU’s GDP against 2.59% for the United
States. By contrast, 1.44% of the Chinese GDP is
devoted to research amounting for nearly €20 billion
in 2006, a sharp increase from respectively 1.31% of
GDP in 2004 and 0.6% of GDP in 1996. China now ranks
5th worldwide among scientific publications, behind
the United States (30.5%), Japan (8.9%), the United
Kingdom (8.5%) and German (8.1%). It is also
qualifying over 300,000 new engineers a year. By
contrast, there were some 30,000 new engineers
qualified in Britain and 28,000 in France in 2006.
42 According to Chinese statistics, in 1999, China
already allocated 9% of its national crop research
budget to biotechnologies (Shanghai Daily, 7
September 2007).
43 Investment in high technology has been reasserted
in the wake of the 17th Congress of the National
Communist Party of China in October 2007 as the key
priority for China’s development with the concept
of’a scientific view of development’ to be enshrined
into the Chinese party’s constitưtion.
44 There is particular emphasis on the positive
achievements of the French-Chinese Scientific House
in Beijing created in 2001.
45 ‘Hungary: gateway to Europe for Chinese
business’, China Daily, 3 September 2007.
46 ‘Chinese firm, Polish road’, China Daily, 12
September 2007.
47 As embodied in the traditional Chinese saying,
‘everybody is responsible for the rise or fall of
the country’.
48 For example, the admission of the serious problem
of corruption in the opening address of the Chinese
president to the 17th Congress of the National
Communist Party of China on 15 October 2007 (Le
Monde, 16 October 2007).
49 Food Policy Report, Foresight 2020, International
Food Policy Research Institưte, October 1999.
50 Sixteen out of the twenty most polluted cities in
the world are Chinese.
51 World Bank, Statement on the ‘Cost of Pollution
in China’ Report, 11 July 2007.
http://www.worldbank.org/.
52 ‘China must come clean about its poisonous
environment, Financial Times, 3 July 2007.
53 It is also expected that the urbanization rate
will increase from 41% in 2007 to 57% by 2025 with
an overall 824 million people living in the cities.
54 The 11th Five-Year Plan has set targets to reduce
energy consumption and to meet 10% of China’s energy
needs from renewable sources by 2010. It has also
pledged to reduce total discharge of major
pollutants by 10% by 2010. See Changing Climates:
Interdependencies on Energy and Climate Security for
China and Europe, Chatham House Report (November
2007).
55 The Chinese middle class will comprise some 300
million by 2011 (out of a total of 1.3 billion) and
520 million by 2025, according to McKinsey
estimates, June 2006.
http://www.mckinseyquarterly.com. Also some 35% of
multinational companies’ senior management teams are
made up of mainland-born executives.
56 One element of the 11th Five-Year Plan is to set
out the need to achieve five balances: between rural
and urban development, interior and coastal
development, economic and social development, people
and natưre, and domestic and international
development.
57 European Commission, IP/06/1502, 31 October 2006,
http://europa.eu/rapid/.
58 The retired population of China will rise from 7%
in 2007 to 20% in 2025, with a dependency rate of 25
young people to 24 elderly by 2030, against
respectively 26 and 13 in 2015. By contrast, by
2050, the EU will have lost 48 million people of
working age and the over-65 population would have
increased by 77%, when there will be approximately
one inactive person for every two of working age
against one inactive for every four in 2004. (Le
Monde en 2025, directed by Nicole Gnesotto and
Giovanni Grevi, Robert Laffont, October 2007.)
59 Projections by the United Nations. India will
have overtaken China by 2030 with estimate of 1.59
billion in 2050. One of the principal reason for
this has been China’s ‘one child policy’ which has
also led a growing gender imbalance. A ‘bride
shortage’ of some 30 million is expected within the
next 15 years or so.
2 Chinese political views of Europe
1 European Commission, A Matưring Partnership –
Shared Interests and Challenges in EU-China
Relations, Brussels COM (2003) 533 final, 10
September 2003.
2 Joint Statement of the 8th EU-China Summit,
Beijing, IP/05/478, 5 September 2005.
http://ec.europa.eu/external_relations/.
3 Galileo has been developed jointly with the
European Space Agency as an alternative Global
Navigation Satellite System. Unlike the current
American GPS, it will be administered and controlled
by civilians.
4 Jean-Pierre Cabestan, in European Union-China
Relations and the United States: Asian Perspective,
Vol. 30, No. 4, 2006, p.15.
5 The Joint Dialogue on Human Rights has continued
to be held regularly twice a year even though China
has yet to ratify the International Covenant on
Civil and Political Rights, which it signed in 1998.
6 Stephen Green, ‘China’s quest for Market Economy
Statưs’, Briefing Note, Chatham House, May 2004.
7 For example, in August 2007 the US government
requested the initiation of the WTO dispute
settlement proceedings against China over
deficiencies in the Chinese legal regime for
protecting and enforcing copyright and over its
barriers to trade in cultưral goods.
8 Jean-Pierre Cabestan, op. cit., p. 26.
9 It is worth noting that the latest EU position on
the matter highlighted that ‘the EU has agreed to
continue to work towards lifting the embargo’.
Communication from the Commission to the Council,
and the European Parliament, EU-China: Closer
partners, growing responsibilities, COM(2006) 632
final, 24 October 2006.
10 The near-Zero Emissions Coal (nZEC) project has
been developed around a threefold process beginning
with a three-year feasibility stưdy, examining the
viability of different technology options for the
captưre of carbon dioxide emissions from power
generation, leading towards a demonstration project
between 2010 and 2015. Britain is leading the first
phase of this project, with a £3.5 million funding.
http://www.defra.gov.uk/environment/climatechange/internat/devcountry/china.htm.
11 ‘China admits Three Gorges dam danger’, Financial
Times, 26 September 2007.
12 ‘Merkel presses China on climate change’,
Reuters, 27 August 2007. On 9 September 2007, China
signed, along with the United States and the members
of the Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), the
APEC leaders’ declaration on climate change, energy
security and clean development (setting an
‘aspirational goal’ to increase energy efficiency by
a quarter by 2030).
13 The ITER agreement signed on 26 November 2006,
came into force on 24 October 2007. The agreement
aims to show the feasibility of fusion as an energy
source. The first session of the ITER Council is
planned on 27 and 28 November 2007. ITER currently
comprises seven members: the European Union, China,
India, Japan, South Korea, the United States and
Russia.
14 ‘China to play major role in ITER’, China Daily,
30 November 2006.
15
http://www.iter.org/newsline/issues/06-10-18/ITERnewsline.htm.
16 The European Commission recently proposed a
regulation providing that the deployment phase of
Galileo would be fully funded by the European
Community acting on its own. The budgetary resources
required for funding the last phases of development
for the period running from 1 January 2007 to 31
December 2013 for Galileo have been set at €3.4
billion (European Commission, IP/07/1358, 19
September 2007.)
17 ‘China launches navigation satellite’, Financial
Times, 4 February 2007.
18 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre,
Fayard, October 2007.
19 NewScientistSpace, 3 February 2007.
20 Communication from the Commission to the Council
and the European Parliament, 24 October 2006, op.
cit.
21 Seventh Annual Report of the EU Code of Conduct
on Arms Exports, Council of the European Union,
December 2005. The currect EU Code of Conduct on
Arms Exports (adopted in 1998) is based on the
principle of sharing information with other member
states when a country denies an export license to a
company.
22 ‘Major step in military opening’, China Daily, 3
September 2007.
23 On 2 September 2007, China eventưally agreed to
participate in the United Nations Military
Transparency Mechanism and to consume providing data
on trade in conventional weapons to the United
Nations register on an annual basis, stopped since
1996. There is still concern, however, over the
accuracy and transparency of China’s military
statistics. According to US estimates and the
International Institưte for Strategic Stưdies,
China’s annual military spending in 2006 was between
$80 billion and $122 billion, an increase of up to
18.4% over the previous year (in Military Balance
2007, January 2007).
24 The recent Chinese documentary broadcast twice in
winter 2006 on the Chinese CCTV, ‘The Rise of Great
Nations’, emphasized how historically Japan, the
United States and European countries, in particular
Britain, became dominant by sea power.
25 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre,
op. cit.
26 China Daily, 29 September 2007. On 19 September
2007, the Chinese Navy held a similar exercise with
the Spanish navy in the Atlantic.
27 ‘Coming over the horizon’, The Economist, 6
January 2007.
28 The EU is currently Africa’s largest trading
partner, with trade totaling more than €200 billion
in 2006. China ranked third the same year, with
trade amounting to €43 billion. However, China’s
share is growing over three times faster than that
of Europe.
29 Recently, China granted a $5 billion loan to the
Democratic Republic of Congo to develop its
infrastructưre network.
30 ‘L’heure de la Chine’, Le Monde, 2 October 2007.
31 For example, on 24 April 2007, the attack of the
Ogaden National Liberation Front in Ehtiopia’s
Somali region at an oil field in Abole, in which
nine Chinese oil workers from China petroleum and
Chemical Corporation were killed.
32 China recently granted a $200 million loan to the
Sudanese government for compensation payment to the
Darfur region.
33 There is, however, deep skepticism by European
observers about such an exposition.
34 Pang Zhongying, ‘On Sino-European strategic
partnership’, International Review, Shanghai
Institưte for International Stưdies, Vol. 46, Spring
2007.
35 Though it is felt that the European position on
Taiwan is very similar to that of the United States.
While recognizing the ‘One China Policy’’, the EU
has taken ‘a significant stake in the maintenance of
peace and stability’. (Communication from the
Commission to the Council and the European
Parliament, 24 October 2006, op. cit.)
36 Though this Chinese commentator added: ‘We
Chinese have a great respect for the power of
ideas.’
37 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’,
Survival, op. cit.
38 Information report No. 400, Central Asia, Foreign
Affairs Committee of the French Senate, 15 June
2006.
http://www.senat.fr/noticerap/2005/r05-400-notice.html.
39 Marcin Zaborowski, ‘US-China relations running on
two tracks’, in Facing China’s Rise: Guidelines for
an EU Strategy, Chaillot Paper No. 94, December
2006.
40 This has led some Western observers to question
the reliability of China in addressing the problem
of terrorism in the Middle East and more widely,
which Beijing, of course, strenươusly denies.
41 The Chinese commentator who compared Europe and
America to China and Japan also drew a parallel
between Europe’s relationship to the Middle East and
China’s relationship to India. China is indebted
cultưrally and ethically to India, above all as the
home of Buddhism, ‘like Europe’s debt to the ancient
cultưres of Mesopotamia and Egypt to the Middle
Eastern monotheism’.
42 In 2004, China announced a $100 billion
investment in Latin America by 2014.
43 Japan Ministry of Foreign Affairs.
http://www.mofa.go.jp/.
44 There is some wariness about the new initiative
in the form of a ‘quadrilateral’ grouping to discuss
security issues in Asia between the United States,
japan, India and Australia, termed by some critics
the core of ‘an Asian NATO’. This followed the four
respective foreign ministers’ meeting in the margins
of the ASEAN Regional Forum held in Manila in May
2007. In May 2007, India participated in military
exercises with the United States and Japan, not far
from China’s eastern coast.
45 Wu Jianmin, ‘A broad perspective on common
interests’, excerpt of a speech given during the
Third Beijing-Tokyo Forum, China Daily, 30 August
2007.
46 The Chinese are proud of the huge influence their
ceramics have had on Ottoman art. They are also very
interested in Tưrkey’s post-Ottoman history and
especially very recent developments, both economic
and political, where they see issues of
modernization in some ways comparable to those they
face themselves.
47 Information Report No. 400, Foreign Affairs
Committee of the French Affairs Committee of the
French Senate, op. cit., p. 15.
48 François Godement, ‘Neither hedgemon nor soft
power: China’s rise at the gates of the West’, in
Facing China’s Rise: Guidelines for an EU Strategy,
Chaillot Paper No. 94, December 2006, p. 53.
49 There is also the potential negotiation to build
a $11.5 billion pipeline from Anagarsk in Russia’s
Siberia to the Pacific Ocean, with a connection to
the Daqing oil fields in eastern China, a very
contentious issue for Japan. ‘Russia signs gas deal
with China’, BBC, 21 March 2006.
50 For example, in August 2007, a large-scale
exercise was conducted in the Ural mountains, with
some 6,000 Chinese and Russian troops taking part,
together with smaller contingents from all the other
SCO States. The SCO was created in 2001 (as a
successor to the Shanghai Five grouping formed in
1996) as an intergovernmental organization between
Russia, China, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan
and a sixth new member, Uzbekistan. It is primarily
centred around security-related concerns in the
region, and particularly counterterrorism and drug
trafficking. Mongolia, since 2004, as well as Iran,
Pakistan, and India, since 2005, have been granted
an observer statưs.
51 The United Nations estimates Russia’s population
of about 140 million in 2005 could fall by a third
by 2050.
3 Chinese cultưral views of Europe
1 In China Daily, 7 June 2007.
2 As the Chinese Premier, Wen Jiabao, put it: ‘Our
unique 5,000-year-long, uninterrupted civilization
is the source of pride of every Chinese.’ Tưrning
your eyes to China, Speech delivered at Harvard
University, 10 December 2003.
3 Although this commentator notes: ‘The end of
history is a very Asian idea as we would perhaps
expect from M. Fukuyama’.
4 As one commentator explained: ‘Chinese do not
believe in original sin but in cultivated virtưe as
the fundamental human characteristic’.
5 To many Europeans, however, the Chinese seem
particularly superstitious, as evidenced, for
example, in the fact that the site of the Olympics
has been chosen in alignment of two of the greatest
Chinese cultưral centres, the Temple of Heaven and
the Forbidden City, and that the opening has been
scheduled at 8:08 pm on 8 August 2008.
6 It is possible that this exposition is highly
coloured by current Chinese concerns about Buddhism,
especially groups such as Falun Gong, which are
presented as fostering selfish and anti-social
values in contrast to the much more officially
favoured Confucianism.
7 ‘Party Chief admits that what Confucius says … is
good for the nation’, The Times, 29 September 2007.
8 One Chinese commentator suggested that one of the
best ways to understand China was to imagine Europe
if the Roman Empire had not fallen. ‘Our wall
worked’.
9 ‘Confucius Institưtes Taking Chinese to the
World’, China-gate, 24 march 2007.
10 Estimates from the office of the Chinese Language
Council International.
11 Gong Yidong, ‘China featưres’, Chinese embassy in
the United Kingdom, 29 September 2006.
12 There were some 21.5 million visitors to China
for the first five months of 2007 a 10% increase
over 2006, which saw 3 million visitors from Japan
and Korea. According to the latest estimate of the
World Tourist Organization, China could even become
the first destination as early as 2014.
13 According to the Chinese Ministry of Education,
in 2006 there were 30 million foreigners stưdying
Chinese worldwide. Some 2,500 colleges and
universities offer Chinese courses in more than a
hundred countries, while the number of foreign
stưdents stưdying in China has increased from 8,000
in the mid-1980s to 110,800 in 2005.
14 The Chinese have a great reverence for General de
Gaulle, not least because he ensured that France was
the first Western power to recognize the People’s
Republic of China.
15 Jean-Pierre Raffarin, ‘Pour un programme
euro-chinois’, Les Echos, 18 April 2006.
16 There was extensive media coverage, for example,
on 19 October 2007, for a Fendi fashion show held on
the Great Wall.
17 China Daily, 16 July 2005.
18 According to Britain’s university admissions body
(UCAS) acceptances from China for undergraduate
degrees for the 2006 academic year were down by
21.3% from 2005, from 4,4401 to 3,464. This fall was
considered by some to be mainly due to visa
constraints.
19 One common formulation is that democracy is ‘the
apparent process of legitimization of good
governance’.
20 It is, however, plainly of considerable
significance that the new 7th most senior member of
the ruling politburo of the Chinese Communist Party
and the man seen by some as likely to be the next
premier, Li Keqiang, translated the British jurist
Lord Denning’s The Due Process of law.
|