Những bài cùng tác giả
Tokyo
là trạm dừng chân đầu trong chuyến công du Á châu
đầu tiên của T T Barack Obama. Lãnh đạo Nhật đã tiếp
đón Obama cùng lúc như một siêu sao và lãnh đạo thế
giới. Dân chúng Tokyo, tập trung dưới mưa dọc vệ
đường, chào đón đoàn xe tổng thống đi qua với tiếng
hô "Obama-san" thân ái. Báo chí địa phương tường
thuật, tổng thống Obama đã tiết lộ sở thích ăn cá
thu và thịt bò Kobe của ông. Ngay làn sóng chỉ trích
ồn ào của những "bloggers" hữu khuynh ở Mỹ về việc
Obama đã khấu đầu trước quốc vương Akihito cũng
chẳng tác động chút nào đến hình ảnh Obama như một
siêu sao ở Nhật. Các phụ tá của tổng thống cho biết
Obama chẳng mấy quan tâm chỉ trích của phe cực hữu.
 Tuy
nhiên, chẳng mấy chốc, Obama đã nhận thức được lòng
hâm mộ của người dân Á châu trên đường phố không
nhất thiết có thể giúp đem lại thành công trong
chính sách sau những cánh cửa khép kín của tòa
Kantei, Bạch Ốc của người Nhật, nói gì đến Nhân Dân
Đại Sảnh ở Bắc Kinh. Các
nhà phân tích chính trị ở Nhật đã đánh giá cao một
trong những mục tiêu của tổng thống Mỹ: đối thoại
thành khẩn với các tân lãnh đạo cởi mở của Nhật.
Dù
sao, chuyến công du cũng chỉ có thể che đậy phần nào
những dị biệt gần đây giữa hai bên, chẳng hạn vấn đề
di dời căn cứ không lực của thủy quân lục chiến,
đang tranh cải hiện nay, ở Futenma, hòn đảo phía Nam
Okinawa. T T Obama và Thủ Tướng Yukio Hatoyama đã
không thể giải quyết, chỉ đồng ý thiết lập và trao
trách nhiệm cứu xét vấn đề cho một nhóm chuyên
trách. Một
cựu quan chức ngoại giao Nhật, Kunihiko Miyake, hiện
là giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại Học Ritsumeikan
University ở Kyoto, đã khen ngợi: sự kiên nhẫn của
tổng thống đã giúp tránh làm vẩn đục thêm quan hệ
giữa hai nước. Theo ông, Hoa Kỳ và Nhật Bản hiện còn
nhiều dị biệt trong vấn đề lớn lao nhất giữa hai
quốc gia: tái cấu trúc liên minh trong kỷ nguyên
chiến tranh lạnh để thích ứng với hiện trạng khu vực
khi thế cân bằng quyền lực đã bị xáo trộn bởi sự
trổi dậy của Trung Quốc (TQ). Miyake
nói: "Hai quốc gia hiện đang 'đồng sàng nhưng dị
mộng'. Người Mỹ muốn liên minh ngày một mạnh mẽ hơn,
nhưng người Nhật lại muốn giảm thiểu quan hệ liên
minh". Ở Hoa
Kỳ, T T Obama đã phải chống đỡ chỉ trích của phe bảo
thủ: Tổng Thống rõ ràng đã tỏ ra quá yếu mềm trong
lập trường đóng quân ở Okinawa và đã khấu đầu trước
Nhật Hoàng. Sau
Tokyo, Obama đã dừng chân ở Singapore, tham dự hội
nghị Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương -APEC
(Asia-Pacific Economic Cooperation). Nét đặc trưng
của hội nghị là nguyên thủ các quốc gia với quốc
phục màu sắc sặc sỡ do nước đăng cai cung cấp.
Obama, với sắc phục mầu xanh, tươi cười trong ảnh
chụp kỷ niệm, đứng bên cạnh thủ tướng Singapore màu
đỏ và tổng thống Indonesia cũng màu xanh.
 Năm
nay, APEC được giới truyền thông đặc biệt lưu tâm
với những hàng "tít" lớn, mặc dù không mấy đúng với
những gì tổng thống Obama ước muốn. Với hạn chót sắp
đến với hội nghị về thay đổi khí hậu ở Copenhagen,
các lãnh đạo vội vả triệu tập phiên họp nhân buổi
điểm tâm để xác nhận họ chưa có thể giải quyết những
dị biệt sâu sắc về thời hạn. T T
Obama đã phải công bố trì hoãn một vấn đề ưu tiên
trong chính sách đối ngoại - thay đổi khí hậu, xác
nhận thỏa ước đối phó với hiện tượng hâm nóng toàn
cầu khó thể thành đạt trong năm nay. Bước kế tiếp,
Obama đã đến TQ. Nơi đây, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã
giàn dựng sự tiếp đón và sàng lọc số sinh viên được
quyền tiếp cận T T Obama ở Thượng Hải. Obama, tuy
vậy, vẫn gián tiếp chỉ trích một cách tế nhị sự kiểm
soát và hạn chế chặt chẽ mạng
internet và tự do ngôn luận, mặc dù không
nhắc, nói gì đến chỉ trích, chính quyền TQ.
Obama
và Hồ Cẩm Đào đã đánh giá hai ngày thương thảo giữa
họ như hiệu quả và đầy chất lượng, mặc dù rõ ràng
chẳng có tiến bộ đáng kể nào trong vấn đề Iran,
chính sách tiền tệ của TQ, hay nhân quyền. Robert
Gibbs, phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, trong một cử chỉ
bất thường, đã gửi đến các phóng viên một bản tuyên
bố (điều ông đã không làm ở hai điểm dừng chân trước
đó ở Tokyo và Singapore): chuyến công du đến TQ đã
diễn tiến tốt đẹp.Ở
Seoul, điểm dừng cân cuối cùng của Obama, không khí
có vẻ thoải mái hơn. Nam Hàn là một đồng minh lâu
ngày, luôn hợp tác với Mỹ trong chủ đề cốt lõi Bắc
Hàn, và chẳng có gì phải tranh cãi với Hoa Thịnh
Đốn. Trong
mọi trường hợp, T T Obama, mặc dù đã được tiếp đón
như luồng gió đổi mới từ Hoa Thịnh Đốn, đã va chạm
với các vấn đề thực tế khó giải quyết, như chính
sách tiền tệ (với TQ), mậu dịch (với Singapore, TQ,
Nam Hàn), an ninh (với Nhật), và siêu cường đang lên
(với TQ) - những vấn đề rắc rối khó khăn trong
chuyến công du Á châu đầu tiên. DƯỚI
LỚP SƠN THÂN HỮU, TRUNG QUỐC ĐÃ KHẲNG ĐỊNH TƯ THẾ
MỘT SIÊU CƯỜNG ĐANG LÊN
T T
Obama đã cố gắng trình bày chuyến công du đầu tiên
đến TQ như một bước tiến trong quan hệ mới với đại
cường cạnh tranh đang đi lên nhanh chóng. Nhưng điều
duy nhất thấy được - sau 6 giờ họp mặt, hai buổi
tiệc tối, và 30 phút gặp gỡ chính thức với đại diện
các cơ quan truyền thông trong đó Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào đã không dành thì giờ trả lời câu hỏi của các
phóng viên - là hình ảnh một TQ luôn sẵn sàng nói
"không" với Hoa Kỳ. Trong
mọi chủ đề - từ Iran: họ Hồ đã không công khai thảo
luận sự khả dĩ chế tài;
đến
chính sách tiền tệ: ông đã từ chối tái định giá đồng
nhân dân tệ theo hướng thị trường; cho đến nhân
quyền: một tuyên bố chung thẳng thắn công nhận hai
quốc gia đang có "nhiều dị biệt" - TQ không chút
nhượng bộ trước các đòi hỏi của Hoa Kỳ. Qua việc
khéo léo kiểm soát mọi chi tiết những dịp xuất hiện
của T T Obama bên trong TQ, chuyến công du chỉ biểu
lộ kỷ năng của TQ đẩy lùi mọi sức ép từ phía Mỹ.Theo
Eswar Prasad, một chuyên gia về TQ tại Cornell
University, "TQ đã giàn dựng, kiểm soát mọi chi
tiết các lần xuất hiện trước công chúng của T T
Obama một cách hiệu quả, khéo léo sắp xếp để các lời
tuyên bố của tổng thống không tương phản với lập
trường chính trị quan trọng của TQ, và kịp thời dập
tắt những vấn đề đang tranh cãi như nhân quyền và
chính sách tiền tệ. Trong một nước cờ tuyệt diệu,
các lãnh đạo TQ đã chuyển hướng các cuộc thảo luận,
từ các bất trắc toàn cầu do chính sách tiền tệ hối
đoái của TQ, qua những nguy cơ của chính sách tiền
tệ lỏng lẻo và các khuynh hướng bảo vệ mậu dịch ở
Mỹ". Các
quan chức Tòa Bạch Ốc quả quyết họ đã đạt được những
gì họ mong muốn trong chuyến công du: khởi đầu một
quá trình đối thoại với một quốc gia và nền kinh tế
khổng lồ đang lên. Họ lập luận, khác với tổng thống
tiền nhiệm George W. Bush, với một quốc gia có nền
văn minh xưa cũ như TQ, T T Obama tin, đến Bắc kinh
mà cứ vỗ ngực huyênh hoang là một hành động phản tác
dụng, chỉ làm mếch lòng người TQ. Họ nhấn mạnh: T T
Obama chỉ cần và, trong thực tế, đã thẳng thắn trình
bày quan điểm của mình trong các phiên họp tay đôi
riêng tư với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào. Robert
Gibbs, phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, cũng đã nói: "tôi
không chờ đợi, và tôi có thể nói thay Tổng Thống về
điểm nầy, chúng tôi nghĩ ... mọi sự có thể thay đổi
trong một chuyến thăm TQ hai ngày rưởi. Chúng tôi
hiểu còn nhiều việc phải làm và chúng tôi sẽ tiếp
tục làm việc cực lực để đem lại nhiều tiến bộ hơn".
Vài
chuyên gia về TQ ghi nhận: Obama đã không rời Bắc
Kinh tay không. Hai quốc gia đã ra tuyên ngôn chung
năm điểm, hứa hẹn cùng hợp tác trong nhiều địa hạt.
Bản tuyên ngôn kêu gọi đối thoại thường xuyên giữa
Obama và Hồ Cẩm Đào, và hai bên lưu tâm nhiều hơn
đến những ưu tư chiến lược của nhau. Tuyên ngôn cũng
cam kết cùng làm việc như hai đối tác trong các vấn
đề kinh tế, Iran, và thay đổi khí hậu. Tuy
nhiên, mặc dù giọng điệu hòa hoãn nhiều tuần trước
đây - Obama đã từ chối gặp mặt lãnh tụ tinh thần
Tây Tạng, Đức Dalai Lama, trước cuộc công du, để
tránh làm mếch lòng các lãnh đạo TQ - Obama vẫn chưa
dám chắc đã gặt hái được tiến bộ trong các vấn đề
cấp thiết trong nghị trình của Mỹ ở TQ hay các nơi
khác ở Á Châu. Theo
phe bảo thủ, các tổng thống Mỹ trước đây thường đòi
hỏi phải nắm chắc vài kết quả cụ thể trước mỗi
chuyến công du TQ. Với George W. Bush, đó là sự ủng
hộ mạnh mẽ đối với vấn đề ưu tiên số một trong chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ - cuộc chiến chống khủng
bố; và với Bill Clinton: thúc đẩy TQ gia nhập Tổ
Chức Thương Mãi Quốc Tế sau nhiều năm thương thảo.
Và khi một trong hai tổng thống đến thăm, lãnh đạo
TQ cũng thường biểu lộ thiện chí qua một nhượng bộ
khiêm tốn nào đó về nhân quyền. Lần
nầy, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã không theo gương Tổng
Thống Nga, Dimitri A. Medvedev. Sau nhiều tháng ve
vãn, vỗ về bởi Hoa Thịnh Đốn, Medvedev đã tuyên bố
sẽ cứu xét các biện pháp chế tài mạnh mẽ hơn đối với
Iran nếu các nỗ lực thương thảo không thành công
ngăn cản chương trình nguyên tử của Iran. Ngược
lại, chính quyền Obama hiện nay rất cần sự ủng hộ
của TQ nếu muốn các biện pháp chế tài khắt khe hơn
được Hội Đồng Bảo An LHQ chấp thuận. Tuy vậy, trong
buổi gặp gỡ báo chí chính thức hôm thứ ba
17-11-2009, Hồ Cẩm Đào, đứng bên cạnh Barack Obama,
đã không hề nhắc đến hai từ "chế tài". Thay
vào đó, họ Hồ đã nói, "điều rất quan trọng là
giải quyết chương trình nguyên tử Iran một cách
thích ứng qua đối thoại và thương thảo".
Và rồi, như để nhấn mạnh, ông nói tiếp: "Trong
lúc thương thảo, tôi đã nhấn mạnh với Tổng Thống
Obama, vì những dị biệt trong điều kiện của hai quốc
gia, việc hai bên chúng tôi có thể bất đồng về vài
vấn đề cũng chỉ là việc bình thường". Các
quan chức Tòa Bạch Ốc công nhận, họ đã không đạt
được những gì họ muốn từ Hồ Cẩm Đào về Iran, nhưng
họ tin phương pháp của Obama sẽ đem lại kết quả
trong trường kỳ. Một viên chức bình luận: "Chúng
tôi không muốn họ dẫn đường hay đổi hướng, chúng tôi
chỉ muốn họ không cản đường".
Obama
cũng không thể thuyết phục giới lãnh đạo TQ về các
vấn đề tiền tệ, hối đoái. TQ đã bị áp lực nặng nề
không những từ phía Mỹ mà còn từ Âu châu và vài quốc
gia Á châu, đòi hỏi xét lại chính sách giữ giá trị
đồng nhân dân tệ ở mức thấp giả tạo đối với đồng mỹ
kim để tăng xuất khẩu. Một số kinh tế gia nói, TQ
phải điều chỉnh giá trị đồng nhân dân tệ để tránh
trở lại tình trạng mất thăng bằng thương mãi và tài
chánh trầm trọng, nguyên nhân cuộc suy thoái kinh tế
tài chánh hiện nay.
Barack
Obama và Wen Jiabao
(Ôn Gia Bảo) ngày 18/11/2009
tại Pekin |
|
Ngày
17-11-2009 vừa qua, Obama cũng đã nhắc lại những lời
tuyên bố trước đây của TQ chịu để hối suất thay đổi
theo quy luật thị trường, ám chỉ tổng thống đã không
được TQ tái cam kết điều chỉnh hối suất theo hướng
thị trường trong nay mai. Có
nhiều lý do khiến Tòa Bạch Ốc đã chiều theo ý muốn
rõ ràng của TQ về một cuộc thăm viếng không tranh
cãi hay bút chiến thường khi đi kèm những lần gặp
mặt giữa lãnh đạo hai nước. Chính sách ngoại giao
của Obama được xây dựng trên nền tảng: Hoa Kỳ sẽ là
quốc gia chịu lắng nghe quan điểm của lãnh đạo các
nước, bạn cũng như đối nghịch, và không chỉ nhằm
đánh bóng hình ảnh của riêng mình. Trong một thư
điện tử tối thứ ba vừa qua, Robert Gibbs đã xác nhận:
"Không, chúng tôi đã không làm TQ trở thành một xứ
dân chủ trong ba ngày - có thể nếu chúng tôi vỗ ngực
nhiều lần, điều đó có thể xẩy ra. Nhưng nó đã không
xẩy ra trong 16 năm qua".
Kenneth Lieberthal, học giả ở Brookings Institution,
nguyên đặc trách các vấn đề TQ dưới thời T T
Clinton, cũng đã đồng ý: "Hoa Kỳ, trong thực tế,
đã có ảnh hưởng lớn đến tư duy của người dân TQ,
nhưng đó là ảnh hưởng qua cách ứng xử gương mẩu. Nếu
bạn tiến thêm một bước và bảo họ 'quý vị phải làm
theo chúng tôi', bạn sẽ đánh mất tác động của chính
bạn". Obama
rõ ràng đang tính toán: cách tiếp cận thầm lặng của
ông sẽ gặt hái được nhiều thành quả hơn là phương
cách thuyết giảng. Lieberthal nói, " Hiện còn quá
sớm để biết tác động cuối cùng sẽ như thế nào",
nhưng cũng quá sớm để loại bỏ như một cách tiếp cận
sai lầm. Phát
ngôn nhân của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Michael A.
Hammer, nói thêm: "Điều chúng ta đến để làm là
thẳng thắn trình bày quan điểm của mình về các vấn
đề quan trọng đối với chúng ta, không nhất thiết
theo cách tấn công, nhưng theo cung cách tương kính
của Obama".
Tuy
với giọng điệu hòa hoãn, T T Obama cũng đã chỉ trích
các lãnh đạo TQ về một số đề tài nhạy cảm.Hôm
thứ ba 17-11-2009, đứng cạnh Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, T
T Obama đã nêu vấn đề Tây Tạng, nơi các nhà cầm
quyền địa phương, được Bắc Kinh ủng hộ, đã xiết chặt
tự do tôn giáo. Obama đã nhắn nhủ: "Trong khi
chúng tôi công nhận Tây Tạng là một bộ phận của Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Hoa Kỳ ủng hộ sớm nối lại
đối thoại giữa chính quyền TQ và các đại diện của
đức Dalai Lama, để giải quyết những quan tâm và dị
biệt giữa hai phía". TƯƠNG
HỢP HAY TƯƠNG KHẮC
Cách
đây ít năm, Niall Ferguson và Moritz Schularick đã
sáng tạo ra từ Chimerica để mô tả tình trạng
đan xen, chồng chéo, giữa hai nền kinh tế TQ và Hoa
Kỳ, một phối hợp then chốt thúc đẩy phát triển kinh
tế toàn cầu. Chỉ với 13% diện tích toàn cầu và 25%
dân số thế giới, Chimerica, tuy vậy, đã chiếm 1/3
GDP toàn cầu và 2/5 tăng trưởng của thế giới từ 1998
đến 2007. Hai
tác giả đã có lý do khi chọn tên gọi Chimerica. Họ
cho biết, quan hệ giữa hai nền kinh tế đã khiến họ
nghĩ đến quái vật chimera trong thần thoại Hy
Lạp - một quái vật hợp chủng, thở ra lửa, có đầu sư
tử, thân dê, và đuôi rắn. Ngày nay, có thể chúng ta
đang chứng kiến sự dãy chết của quái vật Chimerica.
Thực vậy, vấn đề đang làm T T Obama phải suy tư trên
đường đến Á châu là nên khai tử hay tìm cách cứu
sống quái vật. Trong
những năm tháng cơm lành canh ngọt, Chimerica luôn
là hình thức đối tác đưa đến tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng của TQ, với lợi thế xuất khẩu của TQ và
khuynh hướng tiêu thụ quá mức hay bội-tiêu-thụ
của Hoa Kỳ. Nhờ sự
chung sống của Chimerica, TQ đã có thể tăng gấp bốn
GDP từ 2000 đến 2008, gia tăng xuất khẩu gấp năm
lần, nhập khẩu công nghệ tiền tiến phương Tây, và
tạo được hàng chục triệu công ăn việc làm trong kỹ
nghệ chế biến cho dân nghèo từ nhiều vùng thôn dã.
Đối
với Hoa Kỳ, Chimerica có nghĩa người Mỹ có thể an
tâm tiêu pha hoang phí, không phải lo tiết kiệm,
trong khi vẫn có thể duy trì lãi suất thấp và tỉ lệ
đầu tư ổn định. Bội-tiêu-thụ có nghĩa, từ 2000 đến
2008, Hoa Kỳ đã liên tục tiêu thụ trên mức lợi tức
quốc gia. Sản phẩm nhập khẩu từ TQ chiếm khoảng 1/3
số bội-tiêu-thụ. Trong
suốt thời gian đó, Chimerica hình như không phải một
quái vật, mà là một hôn nhân thần tiên. Mậu dịch
quốc tế bành trướng nhanh chóng và giá trị hầu hết
các loại tích sản tăng vọt. Tuy nhiên, tương tự như
hôn nhân giữa một bên luôn ưa thích tiết kiệm và bên
kia chỉ biết tiêu pha hoang phí, Chimerica không thể
chung sống dài lâu. Khủng hoảng tài chánh từ 2007 đã
gây sóng gió trong đời sống hôn nhân. Điều chỉnh
tình trạng mất quân bình giữa Hoa Kỳ và TQ - nguyên
nhân đổ vỡ của Chimerica - là điều thiết yếu nếu
muốn tái lập thăng bằng trong kinh tế thế giới. Sự
trổi dậy của kinh tế TQ là kết quả của chiến lược
tăng trưởng lấy xuất khẩu làm đầu tàu, theo gương
Tây Đức và Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến. Tuy nhiên,
tưởng cần phải lưu ý một dị biệt quan trọng: TQ đã
luôn kiểm soát giá trị đơn vị tiền tệ, đồng nhân dân
tệ, với kết quả là đã tích lũy được một số mỹ kim dự
trử khổng lồ. Khi s ố
xuất
khẩu của
TQ tăng vọt,
nhà cầm
quyền
Bắc
Kinh liên tục
mua mỹ
kim để
tránh sự
tăng giá của
đồng
nhân dân tệ,
buộc chặt
giá trị
đơn
vị
tiền tệ
ở
mức 8,28
nhân dân tệ
một
mỹ kim từ
giữa
thập kỷ
1980s cho đến
giữa thập
kỷ
1990s. Sau tháng 7-2005, TQ đã cho phép đơn
vị
tiền
tệ gia
tăng 17% giá trị trong vòng 3 năm,
để
rồi
tái định
hối
suất
ở mức
6,83 nhân dân tệ
một mỹ
kim khi suy thoái tài chánh toàn cầu
lên cao từ
2008.Khi
can thiệp vào thị trường tiền tệ và hối đoái, TQ
theo đuổi hai mục đích: (1) không để đồng nhân dân
tệ tăng giá đối với đồng mỹ kim, nhằm nâng cao tính
cạnh tranh của hàng xuất khẩu; (2) tích lũy ngoại tệ
dự trữ (mỹ kim là chính) nhằm giảm thiểu các bất
trắc do khuynh hướng hội nhập tài chánh toàn cầu
tiệm tăng, như kinh nghiệm nhiều xứ trong khủng
hoảng kinh tế Á châu vào những năm cuối thập kỷ
1990s. Kết quả: năm 2000, TQ đã tích lũy được 165 tỉ
ngoại tệ dự trữ; con số nầy nay đã lên tới 2.300 tỉ,
70% bằng mỹ kim. Chính
sách can thiệp đã làm biến thái giá trị các loại tư
bản toàn cầu, hạ thấp lãi suất dài hạn, và thổi
phồng bong bóng bất động sản ở Hoa Kỳ, với những hậu
quả tai họa. Trong cốt lõi, Chimerica đã phát sinh
một dòng tín dụng từ Cộng Hòa Nhân Dân TQ đến Hoa
Kỳ, khiến người Mỹ không cảm thấy nhu cầu phải tiết
kiệm và ỷ lại thái quá ở giá trị gia tăng giả tạo
của bất động sản và nhà ở, như một nguồn lợi tức và
tài sản. Điều
nầy đã không xẩy ra trong các thập kỷ 1950s và
1960s. Vào cao điểm tăng trưởng hậu chiến trong thập
kỷ 1960s, Tây Đức và Nhật Bản đã tích lũy một số
ngoại tệ dự trữ ít nhiều tỉ lệ thuận với GDP Hoa Kỳ,
giữ một tỉ suất ổn định khoảng 1% trước khi tăng lên
chút ít trong đầu thập kỷ 1970s. Ngược lại, ngoại tệ
dự trữ của TQ đã gia tăng từ 1% GDP Hoa Kỳ vào năm
2000, lên 5% năm 2005, và 10% năm 2008. Vào cuối
2009, tỉ suất nầy được dự phóng lên tới 12%.
Hiện
nay, kỷ nguyên Chimerica đang dần khép lại. Trước
làn sóng vở nợ và bong bóng bất động sản xìu xẹp,
người Mỹ sẽ phải cai nghiện hay từ bỏ lãi suất thấp
và tín dụng rẻ tiền. Chính quyền TQ hiểu rõ không
còn có thể trông cậy vào giới tiêu thụ Mỹ, đang nợ
nần quá nhiều, tiếp tục mua hàng TQ đại trà như
trước năm 2007. Và họ cũng không mấy thích và an tâm
giữ quá nhiều mỹ kim trong tích sản dự trữ trên dưới
2.000 tỉ hiện nay. Nhà cầm quyền TQ đã ràng buộc
đồng nhân dân tệ với đồng mỹ kim quá lâu, hơn bất cứ
ngoại cường nào khác trong lịch sử, và ngày một cảm
thấy căng thẳng và âu lo hơn. Tuy
vậy, cả hai thành viên Chimerica vẫn còn bị cám dỗ
duy trì tình trạng đối tác khập khiểng nầy. Mặc dù
người ta luôn nghe nhiều lời bàn luận về nhu cầu
giảm bớt các bất quân bình toàn cầu, bất quân bình
lớn nhất vẫn tiếp diễn. Năm
2009, mức khuy khiếm trong cân thương mãi Hoa Kỳ đối
với TQ vẫn ở mức 200 tỉ USD như năm trước. Và TQ lại
một lần nữa can thiệp vào thị trường tiền tệ, mua
thêm 300 tỉ USD, để duy trì giá trị đồng nhân dân tệ
ở mức thấp giả tạo, và nhờ đó, giữ sản phẩm xuất
khẩu ở mức giá rẽ. Cùng
lúc, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ hình như cũng
mong muốn không kém kéo dài thói quen vay mượn với
lãi nhẹ chừng nào quá trình hồi phục kinh tế còn bấp
bênh, bất kể tác động trên hối suất đồng đô la đối
với tiền tệ các nước khác. Khi các lãnh đạo Hoa Kỳ
nhấn mạnh họ mong muốn một đồng đô la mạnh, đó là
dấu hiệu chắn chắn họ đang muốn ngược lại. Và tại
sao người Mỹ lại muốn làm nản lòng người TQ đang mua
thêm các trái phiếu tính bằng đô la? Với số khuy
khiếm hàng nghìn tỉ mỹ kim, Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ rất
cần sự tiếp tay của càng nhiều người ngoại quốc càng
tốt. Tuy
nhiên, chấm dứt tình trạng chung sống của cặp
Chimerica, trong thực tế, sẽ có lợi cho người Mỹ, ít
nhất vì ba lý do. Trước
hết, điều chỉnh hối suất giữa hai đơn vị tiền tệ,
đồng mỹ kim và đồng nhân dân tệ, sẽ giúp tái định
hướng nền kinh tế Hoa Kỳ - nhất là giúp cải thiện
tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Hoa Kỳ ở TQ, nền
kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Thứ
hai, chấm dứt quan hệ Chimerica sẽ giúp giảm thiểu
sự lệ thuộc nguy hiểm của chính sách kinh tế Hoa Kỳ
vào những biện pháp kích cầu nội địa. Chính sách
tiền tệ Hoa Kỳ rõ ràng khó thể duy trì, và chính
sách lãi suất và in thêm tiền giấy thiếu trách nhiệm
của Cục Dự Trữ Liên Bang đã làm gia tăng một cách
giả tạo giá cả các loại tích sản, đặc biệt là bất
động sản. Sau
cùng, sự tái định giá đồng nhân dân tệ sẽ giúp giảm
bớt những bất trắc xung đột nghiêm trọng trong mậu
dịch quốc tế. Vấn đề là khi đồng mỹ kim mất giá so
với tiền tệ các xứ khác - nhất là đồng 'euro'
và đồng 'yen' Nhật - đồng nhân dân tệ cũng
mất giá theo, do đó, khuyếch đại lợi thế sẵn có của
TQ trên các thị trường toàn cầu. Gánh nặng điều
chỉnh hậu-khủng-hoảng đổ lên vai nhiều xứ bên ngoài
Chimerica một cách không cân xứng. Trừ phi đồng nhân
dân tệ được tái định giá, chúng ta có thể chờ đợi
một đợt sóng các biện pháp tự vệ hổn độn bởi các xứ
ngoài Chimerica. Hiện chúng ta đã thấy nhiều dấu
hiệu nguy hiểm. Trong
tháng 10-2009, Brazil đã áp đặt một sắc thuế trên
"tiền nóng" - những dòng chảy tư bản đầu tư
ngoại quốc quan trọng, đến rồi đi bất định - nhằm
giảm thiểu sự gia tăng giá trị nhanh chóng đơn vị
tiền tệ của mình, đồng real. Gần đây hơn, một
số các quốc gia Á châu cũng đã can thiệp để ngăn
ngừa đơn vị tiền tệ quốc gia tăng giá đối với đồng
đô la. Những trò chơi tiền tệ tương tự cũng đã từng
diễn ra trong thập kỷ kinh tế khó khăn nhất trước
đây, thập kỷ 1930s. Trong
lịch sử, khi sản xuất phí và lợi tức theo đầu người
trong nhiều xứ gia tăng, giá trị đơn vị tiền tệ các
xứ nầy cũng tự điều chỉnh thích ứng với đồng đô la.
Trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1978, chẳng hạn,
giá trị đồng deutsche mark của Đức đã gia
tăng lũy tích gần 60% đối với đồng đô la, trong khi
giá trị đồng yen của Nhật cũng tăng gần 50%.
Kinh nghiệm cho thấy các xứ xuất khẩu có thể chấp
nhận các đợt tái định giá hối suất quan trọng chừng
nào họ đồng thời còn được hưởng một sự gia tăng
trong năng suất, như trường hợp TQ hiện nay. Đúng
vậy, ngân hàng trung ương TQ đã gợi ý: TQ rất có thể
sẽ thay đổi cách ấn định hối suất theo mỹ kim qua
một hình thức quản lý hối suất nào đó, căn cứ trên
"các dòng chảy tư bản quốc tế và những vận chuyển
trong những ngoại tệ quan trọng trên thế giới".
Tuy
nhiên, cũng như những bình luận gần đây của lãnh đạo
TQ về việc thay thế đồng đô la trong vai trò ngoại
tệ dự trữ chính, đây cũng chỉ là lối đại ngôn, kiểu
ăn to nói lớn. Trong
chuyến công du TQ vừa qua, T T Obama đã không đáp
lại với cùng phong cách. Theo Obama, đây không phải
lúc để đọc những diễn văn hoa mỹ, mà thực sự cần đến
ngoại giao tinh tế. Hiện nay, Chimerica rõ rệt có
lợi cho TQ nhiều hơn cho Hoa Kỳ: tăng trưởng kinh tế
TQ - 10%; thất nghiệp Hoa Kỳ - 10%. Sự trao đổi còn
tệ hại hơn đối với phần còn lại của thế giới, kể cả
các thị trường xuất khẩu và đồng minh quan trọng của
Mỹ. Vấn đề
là: Hoa Kỳ có thể đưa ra một quà tặng hay lợi lộc
trao đổi nào để TQ chịu từ bỏ một hối suất thấp cố
định giữa đồng nhân dân tệ và USD luôn có lợi cho
TQ? Hoa Kỳ
phải giúp nhà cầm quyền Bắc Kinh hiểu rõ: những mất
mát trên giấy tờ đối với các loại tích sản dự trữ,
do những đổi thay trong hối suất, sẽ chỉ là cái giá
khiêm tốn phải trả cho những điều lợi họ đã gặt hái
được từ mô hình Chimerica - sự đổi đời từ một nước
nghèo khó thuộc thế giới thứ ba để trở thành một
siêu cường chỉ trong vòng chưa tới 15 năm. Trong mọi
trường hợp, những mất mát nầy cũng đã được bù đắp
gấp bội bởi sự gia tăng trong giá trị bằng đồng mỹ
kim của các loại tích sản khổng lồ tính theo đồng
nhân dân tệ của TQ. Cởi bỏ
thói quen can thiệp vào thị trường tài chánh cũng có
lợi cho TQ. Một đồng nhân dân tệ được đánh giá quá
thấp là một biến thái tài chánh then chốt trong kinh
tế thế giới hiện nay. Nếu tình trạng nầy kéo dài, TQ
sẽ gặp nguy cơ đánh mất nền tảng thành công kinh tế
của chính họ: một hệ thống mậu dịch tự do toàn cầu. Và đây
chính là món quà T T Obama có thể hiến tặng để đổi
lấy một tái định giá từ 20 đến 30% giá trị đồng nhân
dân tệ trong vòng 12 tháng tới: một cam kết rõ ràng
đối với toàn cầu hóa và tự do mậu dịch, và chấm dứt
nguy cơ chiến tranh quan thuế đang chớm nở giữa TQ
và Hoa Kỳ. Trong
suốt thời gian hiện hữu của Cộng Hòa Nhân Dân TQ,
Hoa Kỳ luôn là quốc gia nòng cốt duy trì trật tự
kinh tế thế giới cơ sở trên tự do lưu thông hàng hóa
và gần đây hơn, cả tự do lưu thông tư bản. Hoa kỳ
cũng đã tự nhân trách nhiệm giữ gìn an ninh trong
vùng Trung Đông giàu năng lượng nhưng luôn bất ổn.
TQ được hưởng lợi nhiều hơn bất cứ quốc gia nào
khác, và nay đã đến lúc phải đóng góp phần mình qua
việc điều chỉnh hối suất đồng nhân dân tệ theo quy
luật thị trường. Chimerica bao giờ cũng chỉ là
chimera - một quái vật kinh tế. Tái định giá đồng
nhân dân tệ sẽ giúp đem lại "an nghỉ cuối cùng" cho
Chimerica nay đã hết thời. THẾ
GIỚI MẤT QUÂN BÌNH
Các
cuộc công du quốc tế của lãnh đạo các quốc gia
thường chỉ là những việc làm mang tính tượng trưng.
Không ai chờ đợi T T Obama từ TQ trở về mang theo
các thỏa ước mới về chính sách kinh tế hay những gì
khác. Nhưng người Mỹ hy vọng sau khi các máy quay
phim và máy ảnh ngừng hoạt động, Obama và các lãnh
đạo TQ sẽ thảo luận thẳng thắn về chính sách tiền tệ
của nước chủ nhà. Vấn đề bất quân bình mậu dịch quốc
tế sẽ ngày một tệ hại. Và viễn ảnh một cuộc va chạm
không ai mong muốn có thể bùng nổ trừ phi TQ bằng
lòng điều chỉnh đồng nhân dân tệ theo giá thị
trường. Hầu
hết các đơn vị tiền tệ các nước đều được thả nổi.
Giá trị tương đối sẽ lên xuống tùy các lực chi phối
thị trường. Điều đó không nhất thiết có nghĩa chính
quyền các quốc gia luôn theo đuổi chính sách bất can
thiệp: đôi khi các quốc gia hạn chế các dòng chảy tư
bản ra bên ngoài khi người dân đồng loạt rút tiền từ
ngân hàng để mua ngoại tệ, như Iceland đã làm trong
năm 2008, hay có biện pháp làm nản lòng những dòng
chảy tiền nóng vào trong nước khi e ngại giới đầu cơ
ngoại quốc đang tìm cách thao túng, lủng đoạn kinh
tế, như Brazil đang làm hiện nay. Tuy nhiên, lúc
bình thường, phần lớn các nước chỉ ước ao duy trì
giá trị đơn vị tiền tệ nước mình thích hợp với các
lực kinh tế căn bản dài hạn. TQ là
biệt lệ lớn. Mặc dù xuất siêu hay thặng dư mậu dịch
kếch sù và giới đầu tư ngoại quốc luôn mong muốn vào
làm ăn kinh doanh trong nền kinh tế tăng trưởng
nhanh chóng - những lực kinh tế lẽ ra đã nâng cao
giá trị đồng nhân dân tệ - nhà cầm quyền TQ luôn duy
trì giá trị đơn vị tiền tệ của mình ở mức thấp giả
tạo. Họ làm vậy bằng cách đổi tiền quốc gia lấy USD,
do đó, đã tích lũy một số mỹ kim dự trử khổng lồ. Trong
những tháng gần đây, TQ đã theo đuổi một đường lối
có thể xem như chính sách phá giá phương hại cho các
nước ngoài (beggar-thy-neighbor devaluation), giữ
hối suất giữa đồng nhân dân tệ và đồng mỹ kim cố
định ngay cả khi đồng mỹ kim mất giá nhanh chóng đối
với các ngoại tệ mạnh khác. Điều nầy đã đem lại cho
hàng xuất khẩu của TQ một lợi thế cạnh tranh ngày
một lớn đối với hàng xuất khẩu của các nước khác,
nhất là giới sản xuất trong các xứ đang phát triển. Điều
đặc biệt nguy hiểm trong chính sách tiền tệ của TQ
là tình trạng suy thoái kinh tế thế giới hiện nay.
Lãi suất thấp và kích cầu hình như đã giúp tránh
được cuộc đại khủng hoảng kinh tế thứ hai. Tuy
nhiên, các nhà làm chính sách hiện chưa thể tạo được
số chi tiêu, tư và công, đủ lớn để giải quyết nạn
thất nghiệp hàng loạt. Và chính sách giữ giá trị
tiền tệ thấp giả tạo của TQ đã khuyếch đại và làm
vấn đề thất nghiệp thêm trầm trọng, và trong thực
tế, đã chuyển dịch số cầu tối cần thiết từ các xứ
bên ngoài TQ vào túi các nhà xuất khẩu TQ đang chiếm
lợi thế cạnh tranh giả tạo và bất chính. Sự
biến thái trong mậu dịch quốc tế rất có thể sẽ kéo
dài và làm suy thoái kinh tế hiện nay thêm trầm
trọng. Thực vậy, trong năm qua, kích cỡ thực sự của
"vấn đề TQ" đã bị che mờ bởi các yếu tố tạm thời.
Trong thời gian tới, chúng ta có thể thấy thặng dư
mậu dịch (xuất siêu) của TQ và khuy khiếm mậu dịch
(nhập siêu) của Hoa Kỳ sẽ tăng cao. Theo
luận cứ của Richard Baldwin và Daria Taglioni, Viện
Graduate ở Geneva, sự mất quân bình mậu dịch, thặng
dư của TQ và khuy khiếm của Hoa Kỳ, gần đây đã giảm
thiểu nhiều so với các năm trước. Họ lập luận,
"những cải thiện trong bất quân bình toàn cầu phần
lớn là ảo tưởng - hiệu ứng phụ tạm thời của sự sụp
đổ mậu dịch lớn nhất thế giới từng trải nghiệm". Thực
vậy, tầm cở suy sụp mậu dịch quốc tế 2008-9 đã là sự
cố đáng ghi vào lịch sử những kỷ lục thế giới. Điều
được phản ảnh là phần lớn mậu dịch ngày nay liên
quan đến việc mua bán các sản phẩm chế biến bền lâu;
và đối diện với suy thoái tài chánh nghiêm trọng và
những bất trắc đi kèm , giới tiêu thụ và các công ty
đã trì hoãn mua sắm những thứ hàng không cần thiết
tức khắc. Làm
cách nào để thực tế nầy có thể giúp giảm thiểu ngạch
số khuy khiếm thương mãi của Hoa Kỳ? Nhập khẩu những
sản phẩm như xe hơi sụp đổ; xuất khẩu của Mỹ cũng
suy sụp; nhưng Hoa Kỳ đã đi vào suy thoái với nhập
khẩu vượt quá xa xuất khẩu, tác động thuần là ngạch
số khuy khiếm nhỏ hơn. Tuy
nhiên, khi suy thoái trên đà giảm thiểu hay chấm
dứt, quá trình nầy sẽ đảo ngược. Phúc trình thương
mãi trong trung tuần tháng 11-2009 cho thấy một sự
tăng vọt trong ngạch số khuy khiếm trong mậu
dịch(nhập siêu) giữa tháng 8 và tháng 9. Và chắc sẽ
còn nhiều phúc trình tương tự. Thử
hình dung tháng nầy qua tháng khác, những hàng tít
tin hàng đầu về khuy khiếm thương mãi của Hoa Kỳ bên
cạnh thặng dư thương mãi của TQ với nổi đau của nhân
công Hoa Kỳ bị thất nghiệp! Các lãnh đạo TQ chắc hẳn
phãi thực sự âu lo trước viễn ảnh đó! Thay
vì thuyết giảng Hoa Kỳ phải tăng lãi suất và cắt
giảm khiếm hụt ngân sách ( có nghĩa thất nghiệp
ở Hoa Kỳ sẽ gia tăng), các lãnh đạo TQ sẽ có lợi hơn
khi chấp nhận đối đầu với nhu cầu thay đổi chính
sách tiền tệ của chính mình. Nhưng hiện nay hình như
họ đang say mê với trò chơi rất nguy hiểm. GS
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
01-12-2009
|