Mạng lưới căn cứ quân sự Hoa Kỳ: một tai họa

Vietsciences- Nguyễn Trường                   09/12/2009

 

Những bài cùng tác giả

Với mạng lưới các căn cứ quân sự tốn kém mang tính đế quốc, Hoa Kỳ ngày một tiến gần đến bờ phá sản.

Ngày 27-5-2009, Bộ Ngoại Giao đã khởi sự xây một tòa đại sứ mới ở Islamabad, Pakistan, với kinh phí dự trù 736 triệu USD. Đây là cơ sở ngoại giao lớn thứ hai, nếu không cần thêm chi phí phụ trội, chỉ kém tòa đại sứ ở Baghdad, Iraq.

Bộ Ngoại Giao còn dự tính mua lại khách sạn năm sao Pearl Continental ở Peshawa, gần biên giới Afghanistan, dùng làm trụ sở  Lãnh Sự Quán và chỗ ở cho nhân viên. Không may, ngày 9-6-2009, quân cảm tử phe Tabiban đã dùng xe vận tải quân sự chứa đầy chất nổ tấn công, gây 18 tử thương và ít ra 55 bị thương, cũng như trọn một cánh của khách sạn sụp đổ. Từ đó, không có tin tức gì về khả năng xúc tiến việc tậu mãi.

Le corps d'une victime extrait le 10 juin 2009 des décombres de l'hôtel Pearl

Trong mọi trường hợp, các chi phí nầy đã không được phản ảnh trong ngân sách quân sự vốn đã quá lớn, mặc dù toàn bộ kiến trúc không hề được thiết kế để làm cơ sở ngoại giao - nơi dân bản xứ đến xin chiếu khán và là trụ sở của các viên chức Hoa Kỳ đại diện cho các giới doanh thương và ngoại giao.

Trong thực tế, những cơ sở mệnh danh là sứ quán hoặc lãnh sự quán nầy sẽ là nơi cư trú với thành quách an toàn, tương tự các thành trì đồn trại thời Trung Cổ, nơi các gián điệp, quân đội, nhân viên tình báo, và ngoại giao theo dỏi quần chúng thù nghịch trong những khu vực chiến sự. Người ta có thể tiên đoán một cách chắc chắn đây cũng sẽ là nơi đồn trú của một số thủy quân lục chiến và cả những bải đáp trực thăng để lâm thời di tản nhanh chóng.

Đã hẳn các viên chức ngoại giao, phục vụ trong các vùng thiếu an ninh, cảm thấy an toàn hơn khi làm việc trong những thành trì kiên cố, nhưng đồng thời,  cũng như dân bản xứ, đều hiểu rõ họ là một bộ phận trong mạng lưới đế quốc của Hoa Kỳ. Không ai ngạc nhiên khi các lực lượng chống Mỹ xem các cơ sở ngoại giao không khác các đồn bót , dù được bảo vệ nghiêm ngặt, như những mục tiêu dễ tấn công hơn là các cứ điểm quân sự rộng lớn.

HOA KỲ: MỘT ĐẾ QUỐC QUÂN SỰ TỐN KÉM

Câu hỏi cần được đặt ra là người Mỹ có thể làm được gì với trên dưới 800 căn cứ quân sự rải rác trong nhiều xứ khắp địa cầu? Trong khi Quốc Hội và chính quyền Obama đang tranh cãi về các chi phí cứu trợ các ngân hàng, chương trình bảo hiểm y tế, giải quyết ô nhiểm, và các chi tiêu quốc nội cần thiết khác, không một ai gợi ý đóng cửa một số căn cứ mang tính đế quốc chẳng ai ưa thích và tốn kém, để tiết kiệm ngân sách đang thâm thủng nặng nề.

Đã thế, các căn cứ nầy ngày một trở nên tốn kém hơn. Chẳng hạn, ngày 23-6 vừa qua, tin tức báo chí cho biết Kyrgyzstan, Cộng Hòa Trung Á Xô Viết trước đây, trong tháng hai năm 2009, loan báo sẽ không cho phép quân đội Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng căn cứ không quân Manas Air Base (được mướn làm căn cứ yểm trợ cuộc chiến Afghanistan từ 2001), nhưng rồi đã được thuyết phục tái tục thỏa ước với giá thuê hàng  năm tăng gấp ba, từ 17,4 triệu lên 60 triệu, chưa kể hàng triệu tiền tu bổ các tiện nghi phi trường và vặt vảnh khác. Lý do là vì chính quyền Obama, do cam kết mở rộng chiến tranh trong vùng, đang cần căn cứ không quân nầy để tiếp liệu cho cuộc chiến Afghanistan.

Đã hẳn việc nầy đã được chính quyền các xứ bị chiếm đóng, thường không mấy ưa thích Hoa Kỳ, lưu ý. Chẳng hạn, người Ecuador đã yêu cầu người Mỹ rời khỏi căn cứ Manta Air Base vào tháng 11-2009. Thật vậy, Ecuador cũng có niềm kiêu hảnh của họ, đó là chưa nói họ không thích nhìn người Mỹ gây nhiễu loạn ở Honduras, Colombia và Peru. Tuy nhiên, cũng rất có thể, họ muốn lợi dụng cơ hội để kiếm thêm nhiều tiền.

Cũng vậy,  người Nhật, trong hơn 57 năm qua, đã phải gánh chịu tài trợ các căn cứ quân sự của Mỹ ngay trên lãnh thổ của mình. Gần đây, họ đã thỏa hiệp với Mỹ di chuyển một số thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Okinawa qua Guam, lãnh thổ thuộc Mỹ. Trong quá trình thực hiện, người Nhật phải trả không những chi phí vận chuyển, mà cả chi phí xây cất những cơ sở mới ở Guam cần thiết cho số quân mới đến.

Liệu người Nhật có thể, theo gương Kyrgyzstan, đòi hỏi người Mỹ phải tự trang trải động thái nầy?  Hay ít ra liệu họ có thể ngưng tài trợ quân nhân Mỹ, thường hãm hiếp phụ nữ Nhật (trung bình hai nạn nhân mỗi tháng), hay gây đau khổ cho dân Nhật sinh sống chung quanh 38 căn cứ Mỹ ở Okinawa. Đây chắc chắn là điều người Okinawa luôn hy vọng và cầu mong ngay từ khi người Mỹ đến chiếm đóng vào năm 1945.

Mặc dù nghị trình đối nội của T T Obama đầy tham vọng, một vấn đề, chưa được công khai ghi nhận, hiện mang khả năng triệt tiêu mọi nổ lực cải cách của ông: các quan hệ mang tính đế quốc  với các nước ngoài - một đế quốc quá tốn kém với các căn cứ quân sự đi kèm. Tuy vậy, người Mỹ vẫn chưa chịu hiểu, sử dụng bừa bải bộ máy quân sự, ngày một bành trướng quá mức, vào các sứ mệnh không thích hợp, không sớm thì muộn, sẽ đem lại ba loại hậu quả tai hại: tham vọng  ngoài tầm với, chiến tranh triền miên, và vở nợ - khó tránh một sụp đổ tương tự như Liên Bang Sô Viết trước đây.

Theo kiểm kê chính thức của Ngũ Giác Đài năm 2008 về các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, mạng lưới đế quốc Hoa Kỳ bao gồm 865 cơ sở quân sự trong hơn 40 quốc gia và lãnh thổ hải ngoại. Người Mỹ đã bố trí trên 190.000 quân trong 46 quốc gia và lãnh thổ.

Tính đến cuối tháng 3-2008, Hoa Kỳ vẫn còn duy trì 99.295 nhân viên quân sự làm việc và sinh sống ở Nhật: 49.364 quân nhân, 45.753 thân nhân, và 4.178 nhân viên dân sự. Khoảng 13.975 trong số nầy tập trung trên đảo Okinawa nhỏ bé, nơi tập trung quân nước ngoài lớn nhất ở Nhật.

Tháng 3 vừa qua, Bob Herbert, báo New York Times, ghi nhận, tệ nạn hãm hiếp và các hình thức tấn công tình dục khác là một sỉ nhục lớn cho quân đội Mỹ. Và cũng chẳng có bằng chứng là vấn đề ghê tởm nầy, dù được che đậy, đang giảm bớt. Herbert còn nói:

"Những dữ kiện mới do Ngũ Giác Đài công bố đã cho thấy tỉ số gia tăng gần 9% trong số tấn công tình dục  -2.923, và 25% do các nữ quân nhân phục vụ ở Iraq và Afghanistan báo cáo [trong năm qua]. Thử tưởng tượng sự kiện thật kỳ lạ là khi các nữ quân nhân Mỹ vừa phải trải nghiệm căng thẳng nơi tiền tuyến vừa phải âu lo tự vệ chống lại các nguy cơ hãm hiếp và xâm phạm tình dục đến từ các đồng đội chiến đấu ngay bên cạnh"[1].

Vấn đề càng trầm trọng hơn khi quân Mỹ đồn trú trong các căn cứ hải ngoại bên cạnh các  thường dân bản xứ, như những người chiếm đóng nước ngoài luôn dòm ngó họ. Chẳng hạn, bạo động tình dục của lính Mỹ đối với phụ nữ vượt khỏi vòng kiểm soát ở Okinawa, một tỉnh nghèo nhất của Nhật, ngay từ ngày quân đội, thủy quân lục chiến, không quân, đến chiếm đóng thường trực cách đây 64 năm.

Okinawa là nơi đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhất là sau vụ hai thủy quân lục chiến và một thủy thủ bắt cóc, hãm hiếp, và sát hại một nữ sinh 12 tuổi.

Vần đề hãm hiếp thường xẩy ra khắp nơi chung quanh các căn cứ quân sự Mỹ trên các châu lục và có lẽ đã góp phần làm gia tăng sự thù ghét người Mỹ ở hải ngoại, bên cạnh chính sách của chính quyền Bush hay sự bóc lột kinh tế và khai thác nguyên liệu trong các xứ nghèo khó. 

Quân lực Hoa Kỳ cũng chẳng làm gì để bảo vệ chính các nữ quân nhân của họ hay quyền lợi dân bản xứ vô tội không may sinh sống kế cạnh các quân nhân Mỹ thường thiếu kỷ luật và đạo đức, và phân biệt chủng tộc. Theo Herbert, thành tích truy tố các phạm nhân hãm hiếp không những tồi tệ mà còn tàn nhẫn. Trong những lãnh thổ do quân lực Hoa Kỳ chiếm đóng, bộ tư lệnh cấp cao và Bộ Ngoại Giao luôn tìm cách đạt cho kỳ được loại Thỏa Ước Quy Chế Quân Nhân - SOFAs - theo đó chính quyền bản xứ phải từ bỏ thẩm quyền tài phán đối với quân nhân Mỹ phạm tội. SOFAs cũng tạo mọi dễ dàng cho quân đội di chuyển các quân nhân phạm tội ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị chính quyền bản xứ bắt giữ.

Đề tài nầy đã được phản ảnh rõ ràng trong vụ một giáo viên người Úc, thường trú nhân kỳ cựu ở Nhật. Tháng 4-2002, cô bị hiếp bởi một thủy thủ phục vụ trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk, tại căn cứ hải quân Yokosuka. Cô đã nhận diện và tố cáo phạm nhân với nhà chức trách Nhật Bản và Hoa Kỳ. Thay vì câu lưu và truy tố phạm nhân, nữ nạn nhân lại bị gây phiền nhiểu và làm nhục bởi cảnh sát. Trong khi đó, Hải quân Hoa Kỳ cho nghi phạm giải ngũ và giúp phạm nhân trốn tránh luật pháp Nhật bằng cách thuyên chuyển đương sự về Mỹ sinh sống cho đến ngày nay.

Trong quá trình đi tìm công lý, nữ giáo viên người Úc đã khám phá: gần năm mươi năm trước đây, vào tháng 10-1953, hai chính phủ Nhật và Mỹ đã ký một phụ ước bí mật - một phần của SOFA - theo đó Nhật thỏa thuận từ bỏ quyền tài phán của mình khi tội phạm "không mang tầm quan trọng quốc gia đối với Nhật"[2]. Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến phần phụ ước, vì e ngại, nếu không, nhà cầm quyền Mỹ sẽ phải đối diện với sự khả dĩ trao khoảng 350 binh phạm mỗi năm cho Nhật vì tội phạm tình dục.

Từ đó, Hoa Kỳ đã thương thảo các điều khoản tương tự trong các SOFAs với Canada, Irland, Italy, và Denmark. Như đã được ghi rõ trong sách bỏ túi về luật chi phối các quân nhân ở nước ngoài[3], những điều khoản dự liệu trong SOFA với Nhật đã trở thành chuẩn mực trong các SOFAs trên khắp thế giới.

Ở Nhật, trong số 3.184 nhân viên quân sự xâm phạm tình dục từ 2001 đến 2008, 83% không hề bị truy tố. Ở Iraq, Hoa Kỳ chỉ mới ký một SOFA rất giống với thỏa ước hậu chiến đầu tiên với Nhật: nói rõ hơn, các nhân viên và nhà thầu quân sự bị tố cáo phạm tội ngoài công vụ sẽ do người Mỹ tạm giam trong khi người Iraq tiến hành các thủ tục điều tra. Đã hẳn, đây là cơ hội tốt nhất để di chuyển các nghi phạm ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị kết tội.

Trong nội bộ quân đội, nhà báo Dahr Jamail, tác giã cuốn "Bên Ngoài Khu Green Zone: Những Bản Điện Tin của Nhà Báo Độc Lập từ Iraq Bị Chiếm Đóng"[4]  đã nói đến "văn hóa tấn công tình dục vô tội vạ" (culture of unpunished sexual assaults) và "số vụ đưa ra tòa án mặt trận thấp đến kinh ngạc", (shockingly low numbers of courts martial) liên quan đến hãm hiếp và các hình thức xâm phạm tình dục trong giới quân sự. Helen Benedict, tác giã cuốn "Người Lính Cô Đơn: Cuộc Chiến Riêng  của Nữ Quân Nhân Phục vụ ở Iraq"[5]  đã đơn cử các con số trong phúc trình năm 2009 của Pentagon về các vụ xâm phạm tình dục trong quân đội: 90% các vụ hãm hiếp trong quân đội không bao giờ bị truy tố, và, khi bị truy tố, hậu quả đối với can phạm cũng không đáng kể.

Nói một cách công bằng, quân đội Hoa Kỳ đã tạo một sân chơi tình dục toàn cầu cho nhân viên quân sự và bảo vệ phần lớn các can phạm  né tránh hậu quả của hành vi phạm pháp. Do đó, năm 2006, một nhóm cựu nữ quân nhân Mỹ đã sáng lập "Mạng Lưới Hành Động của Cựu Nữ Quân Nhân"[6]. Mục tiêu là phổ biến lời kêu gọi không một phụ nữ nào nên gia nhập quân đội (no woman should join the military). Có lẽ giải pháp tốt nhất là hồi hương số binh sĩ thường được rèn luyện theo lối suy nghĩ dân bản xứ luôn thấp kém hơn và không am hiểu môi trường văn hóa địa phương. Nói rõ hơn, Hoa Kỳ nên giải thể mạng lưới căn cứ quân sự mang tính đế quốc.

Cố nhiên, việc giải thể mạng lưới đế quốc đòi hỏi một thời gian lâu dài. Chalmers Johnson liệt kê những bước khởi đầu người Mỹ nên theo đuổi:

1. Các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên thế giới phải chấm dứt gây ô nhiểm môi trường. Người Mỹ cũng cần ngưng áp đặt các SOFAs miễn trừ trách nhiệm cho chính mình trong công tác trùng tu và bảo vệ môi trường.

2. Từ bỏ chính sách đế quốc, nhờ đó, sẽ chấm dứt gánh nặng duy trì các căn cứ quân sự và các phí tổn cơ hội đi kèm - những việc lẽ ra đã có thể làm với tài nguyên nhân, tài, vật, lực sẵn có.

3. Chủ nghĩa đế quốc thường đưa đến việc sử dụng tra tấn.Trong hai thập kỷ 1960s và 1970s, người Mỹ đã giúp lật đổ các chính quyền dân cử ở Brazil và Chile, kế đến đã hổ trợ các chế độ tra tấn, trước khi trực tiếp tra tấn các tù binh ở Iraq và Afghanistan . Từ  bỏ chủ nghĩa đế quốc sẽ thực sự chấm dứt chính sách tra tấn của Mỹ ở hải ngoại.

4. Cần cắt giảm các chi phí do thân nhân, các nhân viên dân sự của bộ quốc phòng, cùng các cơ sở y tế, cư trú, tiêu khiển ...đi theo các căn cứ quân sự khắp nơi trên thế giới.

5. Cần chấm dứt huyền thoại do tập đoàn quân sự kỹ nghệ quảng bá: các căn cứ quân sự đem lại công ăn việc làm, nghiên cứu khoa học, và quốc phòng - huyền thoại đã bị phá vỡ bởi nhiều công trình nghiên cứu kinh tế nghiêm túc.

6. Như một quốc gia dân chủ biết tự trọng, Hoa Kỳ cần chấm dứt vai trò xứ xuất khẩu hàng đầu: vũ khí; quân trang; huấn luyện  sĩ quan các quốc gia trong thế giới thứ ba về kỷ thuật tra tấn, đảo chánh, lính đánh thuê cho Hoa kỳ. Chẳng hạn, đóng cữa School of the Americas, ở Fort Benning, Georgia, nơi huấn luyện các sĩ quan Mỹ La Tinh.

7. Bải bỏ chương trình huấn luyện sĩ quan trừ bị (Reserve Officers' Training Corps) và các chương trình nhằm phát huy chủ nghĩa quân sự trong học đường.

8. Vãn hồi kỷ luật và trách nhiệm trong quân lực bằng cách cắt giảm việc sử dụng các nhà thầu dân sự, những công ty quân sự tư nhân, và các viên chức làm việc cho quân đội bên ngoài dây chuyền chỉ huy, quân luật, và tòa án quân sự.

9. Cắt giảm quân đội và cần có các biện pháp săn sóc thương bệnh binh đối phó với những hội chứng bệnh lý hậu chiến.

10. Từ bỏ việc sử dụng lực lượng quân sự một cách không thích đáng như những phương tiện chính yếu nhằm thành đạt các mục tiêu đối ngoại.

Hoa Kỳ hiện nay không mấy khác Anh quốc vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến: tìm mọi cách củng cố một đế quốc chưa bao giờ cần thiết và không đủ sức cáng đáng, sử dụng nhiều phương sách tương tự các phương sách của các đế quốc từng thất bại trước đây, kể cả các cường quốc Phe Trục và Liên Bang Sô Viết. Hoa Kỳ có thể rút bài học kinh nghiệm của Anh quốc năm 1945, tự nguyện từ bỏ chính sách đế quốc, thay vì đợi bị buộc phải bỏ cuộc vì chiến bại, như trường hợp của Nhật và Đức, hay  chiến tranh giải phóng ở các xứ thuộc địa làm suy nhược như Pháp và Hòa Lan.

Hoa Kỳ nên theo gương người Anh trước đây. Điều đáng tiếc là hiện nay người Anh đang đi giật lùi, cộng tác với người Mỹ trong cuộc chiến Afghanistan.

CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN-PAKISTAN: MỘT TAI HỌA TỰ TẠO KHÁC

Một trong những lầm lỗi chiến lược của Hoa Kỳ ở Afghanistan là đã không học được bài học kinh nghiệm của Anh quốc và Nga Sô, những xứ đã thất bại trong kế hoạch bình định Afghanistan, sử dụng những biện pháp quân sự tương tự với người Mỹ hiện nay. Trong những năm 1849 - 1947, người Anh hàng năm đã gửi quân viễn chinh đến các bộ lạc Pashtun trong khu vực các Lãnh Thổ dọc Biên Giới Tây Bắc (North-West Frontier Territories) - biên giới giữa Afghanistan và Pakistan - mệnh danh là đường ranh Durand Line. Đây là biên giới ấn định bởi Sir Mortimer Durand, Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh đặc trách Ấn Độ.

Cả Anh Quốc lẫn Pakistan chưa bao giờ thực sự kiểm soát được khu vực nầy. Như nhà sử học Louis Dupree đã viết trong tác phẩm "Afghanistan" (Oxford University Press, 2002): "Các bộ lạc Pashtun, hầu như bẩm sinh đã là những chuyên gia du kích sau nhiều thế kỷ kháng chiến chống ngoại xâm và chống đối lẫn nhau khi không có người ngoại nhập tìm cách mở rộng Pax Britannica đến vùng quê núi đồi của họ"[7]. Khoảng 41 triệu người Pashtun sống trong một vùng không ranh giới rõ rệt dọc đường ranh Durand Line và không trung thành với chính quyền trung ương của cả Pakistan lẫn Afghanistan.

Vùng nầy ngày nay được biết như Khu Vực Bộ Lạc Dưới Quyền Quản Trị Liên Bang (Federally Administered Tribal Areas - FATA) của Pakistan, trực thuộc Islamabad, và được chia làm 7 tiểu vùng, mỗi vùng  đặt dưới quyền cai trị của một viên chức chính trị tương tự thời thuộc địa Anh. Trước đây cũng như bây giờ, khu vực FATA, được biết dưới tên Waziristan và là trú khu của bộ lạc Pastun, là khu vực chống đối dữ dội nhất.

Paul Fitzgerald và Elizabeth Gould, hai tác giả có nhiều kinh nghiệm về Afghanistan, trong cuốn "Lịch Sử Vô Hình: Câu Chuyện Chưa Hề Kể về Afghanistan"[8],  đã viết:

"Nếu các quan chức ở Hoa Thịnh Đốn không nhớ lịch sử trong vùng, người Afghanistan luôn nhớ. Người Anh dùng không lực bỏ bom các làng Pashtun sau Đệ Nhất Thế Chiến và đã bị lên án. Khi người Xô Viết dùng phi cơ Mig và trực thăng chiến đấu trang bị hỏa tiển Mi-24 Hind oanh kích vùng nầy trong thập kỷ 1980s, họ bị xem như các tội phạm. Nếu Hoa Kỳ dùng hỏa lực hùng hậu một cách bừa bải và tàn bạo, bất kể công lý và đạo đức thế giới, họ sẽ bị người dân Afghanistan và thế giới Hồi giáo chống đối  nhiều hơn"[9].

Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục dùng bạo lực, nhưng viện cớ số thường dân thương vong chỉ là hậu quả ngoài ý muốn (collateral damage), hay do lỗi cá nhân. Sử dụng các phi cơ không người lái, điều khiển bởi máy vi tính từ các căn cứ quân sự trong vùng sa mạc Arizona và Nevada với độ chính xác tối thiểu, người Mỹ đã sát hại hàng trăm, có lẽ hàng nghìn thường dân Pakistan và Afghanistan. Chính quyền Afghanistan và Pakistan đã nhiều lần cảnh cáo người Mỹ là đang làm mếch lòng chính người dân mà họ rêu rao đang giúp đem lại dân chủ.

Tháng 5-2009, khi được cử làm tư lệnh Afghanistan, tướng Stanley McChrystal đã ra lệnh hạn chế các cuộc không tập, kể cả của CIA, ngoại trừ trường hợp cần thiết để bảo vệ quân đội đồng minh. Không may, vì những bất cập trong dây chuyền chỉ huy, ngày 23-6-2009, người Mỹ đã thực hiện một cuộc không kích bằng phi cơ không người lái đúng vào đoàn người tham dự đám tang,  sát hại ít nhất 80 người trên lãnh thổ Pakistan. Các cơ quan truyền thông dòng chính và các kênh truyền hình của Mỹ không hề phản ảnh sự cố nầy. Họ chỉ tập trung đưa tin về các quan hệ tình ái của Thống Đốc bang South Carolina và cái chết đột ngột của ca sĩ Michael Jackson.

Các cuộc hành quân của Mỹ ở Afghanistan và Pakistan thường căn cứ trên tin tức tình báo sai lạc trong hai xứ, các định kiến ý thức hệ ủng hộ hay chống đối  các phe khác nhau, và sự hiểu biết thiển cận về những gì người Mỹ hy vọng thành đạt. Như Fitzgerald và Gould đã nêu rõ, trái với tin tức tình báo của Mỹ tập trung vào Afghanistan, Pakistan mới  là trung tâm của vấn đề. Cả hai đã nói thêm:

"Quân đội Pakistan và Tình Báo Liên Ngành...từ 1973, luôn giữ vai trò then chốt trong việc tài trợ và chỉ huy - ban đầu các lực lượng thánh chiến [chiến binh chống Sô Viết trong thập kỷ 1980s]...và, về sau, Taliban. Chính quân đội Pakistan đang kiểm soát vũ khí nguyên tử, đang cản trở sự phát triển các định chế dân chủ, đang huấn luyện các chiến binh Taliban về chiến thuật tấn công cảm tử, và chỉ huy các lực lượng nầy đánh lại quân Mỹ và NATO đang bảo vệ chính quyền Afghanistan"[10].

Quân đội Pakistan và cánh tình báo gồm nhiều tín đồ Hồi giáo nhiệt thành bảo trợ phe Taliban-Afghanistan, theo đúng nhu cầu nghị trình riêng, mặc dù không nhất thiết nhằm thúc đẩy thánh chiến Hồi giáo. Mục tiêu của họ luôn nhằm: loại ảnh hưởng của Nga hay Ấn Độ  khỏi Afghanistan, cung cấp địa bàn huấn luyện và tuyển mộ các du kích quân thánh chiến để hoạt động ở những nơi như Kashmir, chế ngự  cánh Hồi giáo Afghanistan quá khích, và huy động tài chánh từ Saudi Arabia, các tiểu vương quốc trong Vịnh Ba Tư, và Hoa Kỳ, để trang trải phí tổn và huấn luyện  các chiến binh tự do trong thế giới Hồi giáo. Chính sách liên tục của Pakistan luôn nhằm hổ trợ các chính sách thầm kín của Tình Báo Liên Ngành và ngăn chặn ảnh hưởng của quốc gia thù nghịch và cạnh tranh chính - Ấn Độ.

Đại Tá hưu trí Douglas MacGregor, cố vấn tại Trung Tâm Thông Tin Quốc Phòng ở Hoa Thịnh Đốn, tóm tắt cuộc chiến vô vọng của Hoa Kỳ ở Nam Á, như sau: "Bất cứ điều gì chúng ta làm cũng sẽ không thể thuyết phục được 125 triệu người Hồi giáo ở Pakistan đứng chung chiến tuyến với một Hoa Kỳ liên minh với hai quốc gia rõ ràng chống Hồi giáo: Do Thái và Ấn Độ"[11].

Lần tăng quân của Obama hồi giữa năm 2009 vào Nam Afghanistan và nhất là vào tỉnh Helmand, một cứ điểm trọng yếu của Taliban, khiến nhiều người nhớ lại những lần yêu cầu tăng viện liên tục và lời hứa của tướng William Westmoreland: nếu chấp nhận gia tăng cường độ chiến tranh và số thương vong chút ít, người Mỹ chắc chắn sẽ bẻ gảy ý chí kiên trì của phe "Việt Nam nổi dậy" (Vietnamese insurgents). Đây là một đánh giá hoàn toàn sai lầm bản chất cuộc chiến ở Việt Nam, cũng như ở Afghanistan hiện nay.

Hai mươi năm sau khi hồng quân chiến bại và rút khỏi Afghanistan, vị tướng chỉ huy người Nga sau cùng, Boris Gromov, đã đưa ra lời tiên đoán: Tai họa sẽ tới với hàng chục nghìn quân Obama mới gửi tới Afghanistan, cũng như đã xẩy ra  với 15.000 quân Liên Bang Sô Viết thương vong trong cuộc chiến Afghanistan. Người Mỹ cần thú nhận họ đang phí thì giờ, sinh mạng, và tài nguyên ở một vùng họ chưa bao giờ hiểu rõ các động lực chính trị, và tiếp tục phạm phải sai lầm.

 

HOA KỲ KHÔNG CÒN ĐỦ KHẢ NĂNG THEO ĐUỔI THAM VỌNG ĐẾ QUỐC

Ngay sau khi đắc cử tổng thống, trong dịp công bố một số thành viên trong nội các mới, Barack Obama đã quả quyết "chúng ta phải duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất hành tinh"[12]. Vài tuần lễ sau, ngày 12-3-2009, trong buổi nói chuyện ở Đại Học Quốc Phòng, Hoa Thịnh Đốn, Obama một lần nữa nhấn mạnh, "Bây giờ xin mọi người đừng hiểu lầm, quốc gia nầy sẽ duy trì vị trí áp đảo quân sự. Chúng ta  sẽ có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới"[13]. Và trong  lần nói chuyện đầu niên học với các sinh viên sĩ quan Viện Hàn Lâm Hải Quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Academy) ngày 22-5-2009, Obama lại nhấn mạnh "chúng ta sẽ duy trì vai trò áp đảo quân sự và các bạn là lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất thế giới"[14].

 

Điều Obama quên ghi nhận là Hoa Kỳ không còn đủ khả năng duy trì bá quyền toàn cầu, và cố tình tin ngược lại chỉ chuốc lấy tai họa.

Theo các kinh tế gia và các nhà khoa học chính trị trên khắp thế giới, Hoa Kỳ khó thể tiếp tục giữ vai trò bá quyền toàn cầu,  một khi, trước mắt mọi người,  nước Mỹ chỉ còn là một cường quốc kinh tế què quặt. Một quốc gia trong tình trạng đó khó thể thượng tồn trong lịch sử các đế quốc. Robert Pape thuộc University of Chicago, tác giả tập nghiên cứu quan trọng "Quyết tử để Quyết Thắng: Luận Lý Chiến Lược của Chủ Nghĩa Khủng Bố Cảm Tử"[15], đã viết:

"Nước Mỹ đang trên đường suy sụp vô tiền khoáng hậu. Các vết thương tự tạo, do cuộc chiến Iraq, công trái ngày một gia tăng, ngạch số khuy khiếm trong cân thương mãi [nhập siêu] ngày một trầm trọng, và nhiều suy nhược kinh tế quốc nội khác, đã làm Hoa Kỳ mất hết thực lực trong thế giới tri thức và kỷ thuật phổ biến nhanh chóng ngày nay. Nếu các xu thế hiện nay tiếp diễn, chúng ta sẽ nhìn lại những năm dưới thời Bush như tiếng chuông báo tử của bá quyền Hoa Kỳ"[16].

Hình như đế quốc quân sự Mỹ ẩn chứa một cái gì mâu thuẩn, phi lý, có thể nói mang tính ác mộng. Jay Barr, một luật sư chuyên về phá sản, đã mô tả trạng huống nầy, sử dụng phương pháp tương tự nội suy (insightful analogy):

Dù thanh lý hay tái tổ chức, một con nợ muốn được bảo vệ qua thủ tục phá sản phải cung cấp bảng liệt kê các chi phí, nếu được xét là phải chăng, sẽ được khấu trừ vào lợi tức, trước khi đi đến số tài sản khả dụng có thể dùng vào việc thanh toán cho các chủ nợ. Giờ đây thử tưởng tượng một người nộp đơn xin được bảo vệ theo luật phá sản nhưng lại nại lý do không thể trả được nợ vì số tiền cần thiết để duy trì ít ra cũng đến 737 cơ sở ở hải ngoại hiện không đem lại tí lợi nhuận nào... Cố nhiên anh ta không thể đủ điều kiện để được bảo vệ bởi luật phá sản mà không phải trao phần lớn các tích sản của mình cho các chủ nợ, kể cả các bất động sản quý giá ở hải ngoại nơi các cơ sở của anh đang tọa lạc"[17].

Nói một cách khác, Hoa Kỳ không mấy quan tâm đến hiểm họa phá sản. Thay vào đó, người Mỹ vẫn tiếp tục làm ngơ  đà xuống dốc kinh tế và lúc một tiến gần đến hiểm họa vở nợ.

Nick Turse, tác giả cuốn "Tập Đoàn Quân Sự: Bằng Cách Nào Giới Quân Sự Xâm Lấn Vào Đời Sống Hàng Ngày Của Chúng Ta"[18], ước tính, người Mỹ có thể thu được 2,6 tỉ USD nếu bán tích sản ở căn cứ Diego Garcia ở Ấn Độ Dương, và 2,2 tỉ khác với Guantanamo Bay ở Cuba. Đó mới chỉ là hai trong số trên 800 căn cứ quân sự lớn ở hải ngoại. Việc từ chối cắt giảm phần lớn các căn cứ vừa nói phản ảnh óc tưởng tượng quá nghèo nàn của các cấp lãnh đạo.

Tháng 5-2009, Cục Quản Lý và Ngân Sách (Office of Management and Budget) tiên đoán, vào năm 2010, ngân sách của Hoa Kỳ sẽ thiếu hụt ít nhất cũng 1.750 tỉ. Đây là chưa kể dự phóng ngân sách Ngũ Giác Đài khoảng 640 tỉ, và các chi phí trong hai cuộc chiến tốn kém ở Iraq và Afghanistan. Tổng số khuy khiếm sẽ lên đến mức phải mất vài thế hệ mới trả hết các chi phí liên quan các cuộc phiêu lưu của Bush. Con số nầy lên tới 13% GDP của Mỹ hiện nay. Tưởng nên nhắc lại, điều kiện để một quốc gia Âu châu có thể gia nhập Khu Vực Euro là khuy khiếm ngân sách không được quá 3% GDP.

Cho đến nay, T T Obama đã công bố một số cắt xén manh mún, tiết kiệm được 8,8 tỉ, trong số chi tiêu về vài loại vũ khí không mấy cần thiết, kể cả hủy bỏ loại phi cơ chiến đấu F-22. Ngân sách Ngũ Giác Đài năm tới, trong thực tế, còn cao hơn cả ngân sách cuối cùng trong kỷ nguyên Bush. Những cắt xén quan trọng hơn trong chi phí quân sự rõ rệt rất cần thiết trong nay mai nếu chính quyền Obama có ý định duy trì bộ mặt một chính quyền có trách nhiệm về tài chánh.

CẦN GIẢI THỂ MẠNG LƯỚI CĂN CỨ QUÂN SỰ MANG TÍNH ĐẾ QUỐC

Điều đáng buồn là  rất ít đế quốc trong quá khứ đã tự nguyện từ bỏ chính sách thuộc địa để thay vào đó các chương trình nhằm phát huy các định chế chính trị độc lập, tự trị. Hai ví dụ quan trọng gần đây nhất là đế quốc Anh và Liên Bang Sô Viết. Nếu Hoa Kỳ không học được kinh nghiệm của Anh và Nga Sô, sự suy tàn và sụp đổ của đế quốc Mỹ sẽ là một điều khó tránh.

Hồi đầu tháng 10-2009, chính quyền Obama cho biết khuy khiếm trong ngân sách liên bang trong tài khóa 2009 lên tới 1.400 tỉ mỹ kim, lớn nhất kể từ 1945, tương đối với kích cỡ nền kinh tế.

Con số, mặc dù thấp hơn số dự phóng mấy tháng trước đây, đã làm nổi bật những thách thức trong nổ lực giảm thiểu ngạch số khuy khiếm trong những năm tháng sắp tới, nhất là khi Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội đang xem xét những bước mới nhằm kích thích nền kinh tế hiện đang hồi phục chậm chạp. Những trở ngại chính trị trong quá trình tìm giải pháp đang phơi bày trước công luận khi hai đảng đang đổ trách nhiệm cho nhau về ngạch số khuy khiếm gia tăng.

Theo thông cáo chung của Bộ trưởng Ngân Khố, Timothy F. Geithner, và Giám Đốc Cục Quản Lý và Ngân Sách, Peter R. Orszag, ngạch số khuy khiếm 1.400 tỉ USD trong tài khóa 2009, vừa chấm dứt ngày 30-9-2009, đã lên đến 10% GDP, so với 459 tỉ hay 3,2% GDP trong tài khóa 2008.

Các kinh tế gia nói chung thường đồng ý khuy khiếm hàng năm không nên vượt quá 3% GDP, và đó cũng là mục tiêu T T Obama quyết tâm thành đạt vào cuối nhiệm kỳ đầu -  năm 2013.

Ở mức 10% GDP, khuy khiếm trong tài khóa 2009 đã lên cao nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến (21,5%), do đó, đã trở thành một vấn đề kinh tế và chính trị lớn hơn bất cứ năm nào từ cuối thập kỷ 1980s.

Các nhà đầu tư tài trợ số nợ nầy, kể cả Trung Quốc và vài xứ khác, rất nóng lòng chờ đợi dấu hiệu chính quyền Mỹ sẽ sớm cân bằng được ngân sách.

Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy người Mỹ cũng ngày một âu lo và quan tâm nhiều hơn đến nghị trình đầy tham vọng của Obama, kể cả tái cơ cấu hệ thống bảo hiểm y tế. Cùng lúc, nhiều người Mỹ cũng đang đòi hỏi chính quyền  giúp đỡ thêm , và đang đối diện với tỉ suất thất nghiệp 10.2% (10-2009),  cao nhất trong 26 năm qua, và dự báo còn tiếp tục gia tăng cho đến giữa năm 2010.

Orszag còn ám chỉ  tình trạng bối rối trong chính sách tài chánh của chính quyền  khi nói: "Trong khi chúng ta đang chuyển đổi  từ cứu trợ để phục hồi, tổng thống công nhận chúng ta cần phải đưa xứ sở trở lại con đường tài chánh ổn định lâu dài"[19]. Ông cho biết các đề nghị theo hướng nầy sẽ là một phần trong ngân sách năm tới cho tài khóa 2011.

Tài khóa 2009 bắt đầu từ tháng 10-2008 khi T T George W. Bush đang đối diện với hiểm họa sụp đổ của hệ thống tài chánh và đang chuẩn bị luật cứu trợ 787 tỉ USD. Sau khi nhận nhiệm vụ, các viên chức chính quyền Obama đã tính toán lại:  con số khuy khiếm thực sự đã lên tới 1.200 tỉ USD thay vì 787 tỉ.

Theo Geithner và Orszag, khuy khiếm trong tài khóa 2009 phần lớn là sản phẩm của các chính sách tài chánh và thuế vụ thừa hưởng từ chính quyền tiền nhiệm và nay trở nên  trầm trọng  với suy thoái kinh tế  tài chánh đang tiếp diễn lúc một sâu xa hơn khi Obama mới bắt đầu nhiệm kỳ.

Con số khuy khiếm 1.400 tỉ do chính quyền Obama đưa ra đã dựa theo số ước tính vào đầu tháng 10-2009 của Sở Ngân Sách  Quốc Hội. Con số khuy khiếm thực sự hơi thấp hơn mỗi bên ước tính trong tháng 8-2009, khi Sở Ngân Sách Tòa Bạch Ốc dự phóng 1.800 tỉ khuy khiếm và Sở Ngân Sách Quốc Hội dự phóng 1.600 tỉ.

Trong khi một  vài định chế tài chánh đã hồi phục và còn báo cáo những số doanh lợi lớn bất ngờ như JP Morgan và Goldman Sachs, tỉ suất thất nghiệp, số bất động sản bị tịch biên, và nhu cầu tín dụng của giới tiểu thương và doanh nghiệp nhỏ, tiếp tục gia tăng, buộc Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội phải tiếp tục tập trung vào nổ lực kích cầu nền kinh tế. Số khuy khiếm, do đó, tiếp tục gia tăng thay vì sụt giảm.

Trong mọi trường hợp, sự thành công mới đây cũng chỉ giới hạn vào một vài định chế tài chánh khổng lồ ở Wall Street. Chỉ vài hôm sau, Citigroup và Bank of America đã báo cáo số thua lỗ từ các món nợ bất động sản và thẻ tín dụng vô giá trị - một dấu hiệu khủng hoảng kéo dài ở Main Street - bên ngoài Wall Street.

Hiện nay, tỉ suất khuy khiếm vẫn là vấn đề chính được chính quyền mọi cấp đang đặc biệt quan tâm. Tổng số quốc trái - số khuy khiếm lũy tích hàng năm của ngân sách - lên gần 12.000 tỉ, và số khuy khiếm dự phóng cho thập kỷ tới (2010s) sẽ còn tăng thêm 9.000 tỉ. Theo các viên chức chính quyền, 2/3 con số nầy là hậu quả các chính sách của chính quyền Bush, như giảm thuế, chiến tranh, và trợ cấp dược phẩm thuộc Medicare..., không được bù đắp bởi các số tiết kiệm do cắt giảm các khoản dự chi khác.

Với đà suy giảm về kinh tế, quân sự, chính trị trong mấy thập kỷ gần đây, giới lãnh đạo Hoa Kỳ không còn lựa chọn nào khác hơn là giảm thiểu tham vọng toàn cầu.

Vả chăng, hệ thống căn cứ quân sự ở hải ngoại không hề cần thiết cho nhu cầu quốc phòng của Mỹ. Trong thực tế, các căn cứ nầy thường là yếu tố quan trọng gây ra nhiều xung đột với các xứ khác. Các cơ sở nầy, dĩ nhiên, rất tốn kém. Theo Anita Dancs, phân tích gia của website Foreign Policy in Focus, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng 250 tỉ mỗi năm để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Mục tiêu duy nhất là duy trì bá quyền, kiểm soát hoặc áp đảo, trong càng nhiều xứ càng tốt.

Không sớm thì muộn, mạng lưới căn cứ quân sự Hoa kỳ trên thế giới cũng sẽ đưa nước Mỹ đến chỗ phá sản. Dù nhanh hay chậm, Hoa Kỳ vẫn đang rỉ máu. Bám víu lấy chính sách đế quốc và các căn cứ yểm trợ hiện nay cuối cùng cũng sẽ đưa Hoa Kỳ đến chỗ vỡ nợ - không còn là một nước Mỹ như mọi người đang biết.

Nói một cách ngắn gọn, Hoa Kỳ cần giải thể mạng lưới căn cứ quân sự trên khắp thế giới. Và về lâu về dài, phía trước chỉ còn hai con đường: hòa bình hay phá sản.

GS Nguyễn Trường

Irvine, California, U.S.A.

25-11-2009


[1] New data released by the Pentagon showed an almost 9 percent increase in the number of sexual assaults - 2,923 - and a 25 percent in such assaults reported by women serving in Iraq and Afghanistan [over the past year]. Try to imagine how bizarre it is that women in American uniforms who are enduring all the stresses related to serving in a combat zone have to also worry about defending themselves against rapists wearing the same uniform and lining up in formation right beside them.

[2] ...not of national importance to Japan.

[3] Handbook of the Law of Visiting Forces - 2001.

[4] Beyond the Green Zone: Dispatches from an Unembedded Journalist in Occupied Iraq, Haymarket Books, 2007.

[5] The Lonely Soldier: The Private War of Women Serving in Iraq, Bacon Press, 2009.

[6] Service Women's Action Network.

[7] Pastun tribes, almost genetically expert at guerrilla warfare after resisting centuries of all comers and fighting among themselves when no comers were available, plagued attempts to extend the Pax Britannica into their mountain homeland.

[8] Invisible History: Afghanistan's Untold Story, City Lights, 2009.

[9] If Washington's bureaucrats don't remember the history of the region, the Afghans do. The British used air power to bomb these same Pashtun villages after World War I and were condemned for it. When the Soviets used MIGs and the dreaded Mi-24 Hind helicopter gunships to do it during 1980s, they were called criminals. For America to use its overwhelming firepower in the same reckless and indiscriminate manner defies the world's sense of justice and morality while turning the Afghan people and the Islamic world even further against the United States.

[10] Pakistan's army and its Inter-Services Intelligence branch...from 1973 on, has played the key role in funding and directing first the mujahideen [anti-Soviet fighters during 1980s]...and then the Taliban. It is Pakistan's army that controls its nuclear weapons, constrains the development of democratic institutions, trains Taliban fighters in suicide attacks and orders them to fight American and NATO soldiers protecting the Afghan povernment.

[11] Nothing we do will compel 125 million Muslims in Pakistan to make common cause with a United States in league with the two states that are unambiguously anti-Muslim: Israel and India.

[12] We have to maintain the strongest military on the planet.

[13] Now make no mistake, this nation will maintain our military dominance. We will have the strongest armed forces in the history of the world.

[14] We will maintain America's military dominance and keep you the finest fighting force the world has ever seen.

[15] Dying to win: The Strategic Logic of Suicide Terrorism, Random House, 2005.

[16] America is in unprecedented decline. The self-inflicted wounds of the Iraq war, growing government debt, increasingly negative current-account balances and other internal economic weaknesses have cost the United States real power in today's world of rapidly spreading knowledge and technology. If present trends continue, we will look back on the Bush years as the death knell of American hegemony.

[17] Whether liquidating or reorganizing, a debtor who desires bankrupcy protection must provide a list of expenses, which, if considered reasonable, are offset against income to show that only limited funds are available to repay the bankrupted creditors. Now imagine a person filing for bankrupcy claiming that he could not repay his debts because he had the astronomical expense of maintaining at least 737 facilities overseas that provide exactly zero return on the significant investment required to sustain them... He could not qualify for liquidation without turning over many of his assets for the benefit of creditors, including the valuable foreign real estate on which he places his bases.

[18] The Complex: How the Military Invades our Everyday Lives , Metropolitan Books, 2008.

[19] As we move from rescue to recovery, the president recognizes that we need to put the nation back on a fiscally sustainable path.

 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Nguyễn Trường