Mặc chiếc áo quá khổ ?

Vietsciences- Hồng lê Thọ            10/10/2008
 

Những bài cùng tác giả

Điều được quan tâm nhất hiện nay là trong tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, cơn khủng hoảng tài chính của nước Mỹ đang ở vùng tâm bão xoắn ốc và hậu quả chưa thể lường trước được, giá dầu thô chỉ trong hai tháng tụt từ mức 145 đô la/thùng nay hạ thấp ở mức trên dưới 100 đô la/thùng và còn có thể xuống thấp hơn trong khi giá vàng vẫn tiếp tục nhảy múa trên thị trường quốc tế…thì liệu nền kinh tế Việt Nam còn có cơ may để phát triển ổn định-- sau gần 7 tháng nếu kể từ đầu năm 2008 chao đảo vì nhập siêu và lạm phát—với con số choáng ngợp của đầu tư trực tiếp(FDI) đạt mức trên 57 tỷ đô la trong 9 tháng qua (*). Trong xu thế xuất nhập khẩu và kiều hối có khả năng giảm sút vì tình hình nhiều biến động và suy thoái kể trên thì con số FDI nầy nếu xét về kim ngạch thì nhiều người cho rằng đó là dấu hiệu của một sự phát triển bền vững hay giúp nền kinh tế Việt nam cầm cự, vượt qua cơn thử thách nhưng nếu nhìn vào kim ngạch được giải ngân cụ thể 8 tỷ đô la trên 57 tỷ đăng kí thì rõ ràng nguy cơ tốc độ đang bị chậm lại. Nói khác đi tỷ lệ giải ngân nầy tương đương với 14% là con số khá thấp so với nhiều năm trước. Đến cuối năm 2008 tỷ lệ vốn thực hiện còn có thể hạ xuống hơn nữa vì những dự án lớn thường triển khai rất chậm và trong bối cảnh cuộc chiến về tiền tệ trên thị trường quốc tế và ở nước của công ty mẹ của nhà đầu tư vẫn còn “đỏ lửa”, đặc biệt một số ngân hàng truyền thống, công ty chứng khoán ở các nước công nghiệp phát triển liên tiếp gục ngã, sụp đổ và buộc rút vốn hay phá sản vì không gánh nổi hậu quả của việc mua bán tín dụng dưới chuẩn trong địa ốc(ở Mỹ) xảy ra từ ba năm trước. Cần lưu ý rằng ”Tỷ lệ vốn thực hiện được coi là một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ thu hút thành công nguồn vốn FDI. Trong khi, vốn đăng ký chỉ phản ánh giá trị đầu tư ước tính của dự án, và như vậy thì sẽ rất khó khăn nếu dùng nó để đánh giá hiệu quả thực tế của hoạt động đầu tư nước ngoài”(1).

BOX

Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhận thấy nhiều dự án FDI có cam kết vốn lớn, nhưng thực tế giải ngân rất thấp, nhà đầu tư chủ yếu cam kết để xin đất. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, từ 1988 đến 2007, bên nước ngoài (cả vốn góp và vốn vay) đã đưa vào Việt Nam 37,9 tỷ USD, bằng 45% so với 83 tỷ USD tổng vốn đăng ký cùng kỳ . Mặt khác trong vốn đăng ký có phần góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, thường khoảng 30%, tính cả các dự án 100% vốn nước ngoài (20% tổng vốn đăng ký) thì vốn góp của bên Việt Nam còn chiếm 24% tổng vốn đăng ký.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã cảnh báo các địa phương cần xem xét, rà soát lại những dự án chiếm đất. Trong 9 tháng đầu năm 2008 số vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 484 dự án với tổng vốn đăng ký 32,3 tỷ USD, chiếm 54,68% về số dự án và 57,48% về vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 361 dự án với tổng vốn đăng ký 23,7 tỷ USD, chiếm 40,7% về số dự án và 42,15% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư.

Nguồn vốn FDI lớn mang theo thách thức lớn về giải ngân. (Ảnh: VNN)

Những dự án đầu tư lớn như hai "siêu dự án" có tổng vốn đăng ký là 14,097 tỷ USD, đó là: Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa do Tập đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư gần 7,9 tỷ USD tại Vũng Áng, Hà Tĩnh và liên doanh giữa Công ty Lọc dầu Nghi Sơn với các tập đoàn của Nhật Bản và Kuwait đầu tư 6,2 tỷ USD tại Thanh Hoá. Ngoài ra, dự án do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), Tổng công ty Hoá chất Việt Nam (Vinachem), Công ty Hóa chất Vina thuộc Tập đoàn Xi măng Thái Lan (Vina SCG Chemicals) và Công ty Nhựa và Hoá chất Thái Lan (TPC) hợp tác đầu tư với tổng mức đầu tư gần 4 tỉ USD. Điều nầy chứng tỏ hiện nay Bà Rịa - Vũng Tàu, TP HCM , Hà Tính và Thanh Hóa… lần lượt là những địa phương hấp dẫn nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Bà Rịa - Vũng Tàu còn thu hút tới 9,3 tỷ USD , tập đoàn Tata (Ấn Độ) và các đối tác Việt Nam đã khởi động dự án khu liên hợp thép công suất 4,5 triệu tấn mỗi năm tại Hà Tĩnh với tổng trị giá 5 tỷ USD. (2)

Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 8 tháng đầu năm 2008, nguồn vốn FDI vào Việt Nam tính gộp cả vốn đăng ký mới và đăng ký bổ sung đã đạt 47,2 tỷ USD. Trong đó, có đến 22,5 tỷ USD đổ vào bất động sản, chiếm gần 50% lượng vốn FDI đăng ký của cả nước , những dự án lớn nhất tập trung vào các những thành phố lớn như Hà nôi, Hải phòng(3), Đà nẵng, TP HCM… trong đó 95% FDI ở thành phố HCM là đầu tư vào lĩnh vực nầy mà số vốn huy động tại chỗ thông qua việc rao bán “trước” những căn hộ trên bản vẽ nhiều hơn số tiền nhà đầu tư nước ngoài mang vào.Trong danh sách dự án nước ngoài đăng ký đầu tư vào Việt Nam 8 tháng đầu năm, các dự án bất động sản đang xếp vị trí thứ 3 với 116 dự án, trong đó là 65 dự án tập trung đầu tư vào ngành xây dựng; 22 dự án đầu tư vào xây dựng văn phòng, căn hộ; các dự án còn lại tập trung đầu tư vào khu đô thị mới (3 dự án), 5 dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp - khu chế xuất và 21 dự án đầu tư về khách sạn và du lịch. Có ý kiến cảnh báo “hàng loạt dự án tiền tỷ đô-la nghe rất hoành tráng nhưng thực chất là loại dự án xây sòng bạc casino ở nhiều địa phương – từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu hay Phú Quốc. Liệu Bộ KHDT đã có nghiên cứu gì chưa về lợi hại lâu dài của việc mở casino sân golf tràn lan ở Việt Nam ? Vì sao các dự án này lại lên đến nhiều tỷ, có chăng tình trạng dành đất làm địa ốc bên cạnh chuyện xây sòng bạc? Không khéo dòng vốn FDI lại rơi vào tình trạng đăng ký để xí chỗ như những năm giữa thập niên 1990”(4).

Riêng hai dự án xây dựng Nhà máy thép của Formosa tại Hà Tĩnh và nhà máy lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) đã chiếm 14 tỷ USD. (Ảnh: HQ Bình Định)

Nói khác đi nhà đầu tư nước ngoài đăng kí số vốn đầu tư rất to và rất kêu(hàng tỷ đô la) để xí phần những khu đất trung tâm có giá cao trong thành phố nhằm dùng giấy phép dự án huy động vốn địa phương trong việc xây dựng và kinh doanh, tạo ra giá trị giá tăng nhờ chênh lệch địa tô và sinh lợi siêu ngạch. Điều nầy dẫn đến hệ luận là tiền lời từ việc kinh doanh địa ốc nầy sẽ chảy ra ngoài thật nhanh để thu hồi vốn và lãi của nhà đầu tư nước ngoài đồng thời phần vốn cố định đã xây cất sẽ tiếp tục làm đòn bẫy để phát triển theo cấp số nhân, đè bẹp những nhà kinh doanh địa ốc nội địa nhờ ưu thế về vốn ban đầu và phương thức kinh doanh bén nhạy trong huy động. Không kể người dân nghèo ở đô thị hay nông dân ven đô được đền bù giai tỏa, thực tế cho thấy chính quyền địa phương cũng như trung ương chưa có giải pháp khắc phục được tình trạng một bộ phận người nông dân hiện nay đang lâm vào cảnh: tiền đền bù đã cạn, việc làm mới chưa thấy đâu, đất nông nghiệp chẳng còn.(5)

Trong việc tiếp nhận những nhà máy “tầm cỡ” qui mô về vốn và kỹ thuật thì điều đáng lo là liệu những gì hình thành ở bờ biển miền trung sẽ là những cơ sở gây ô nhiễm vì kỹ thuật lạc hậu mà ta chưa đủ trình độ để thẩm định như tình trạng nhà máy bột ngọt Vedan với nhiều thủ đoạn tinh vi , xả chất thải vào sông Thị Vải ở Đồng Nai không qua sử lý kéo dài hơn 14 năm nay hay tập đoàn Vinashin-Hyundai thải xỉ đồng Nix trên bãi biển Nha Trang . Điều nầy không còn là sự cảnh báo mơ hồ mà là một thực tế đau lòng khi nhìn dòng sông ô nhiễm đen kịt hay bờ biển đang dẫy chết. Phải chăng đã đến lúc cần phải nhìn lại một cách tỉnh táo hơn, không chạy theo kim ngạch đầu tư, kể cả việc chủ tâm vào tốc độ tăng trưởng GDP mà phải xét đến chất lượng của phát triển và hiệu quả kinh tế lâu dài, hàm lượng kĩ thuật thân thiện với môi trường(nước thải, khí thải) và môi sinh(con người, động thực vật,,,) cao hay thấp để xét duyệt. Có gì thơ ngây cho bằng lãnh đạo một địa phương nọ ca ngợi công ty Vedan, rằng “cần phải khen để khuyến khích họ cố gắng cải thiện môi trường vì họ là công ty lớn” cố tình lờ đi những gì mà công ty nầy đang gây thiệt hại cho nhân dân trong vùng và thiên nhiên ở dòng sông Thị Vải, thu về lợi nhuận hằng năm vài chục triệu đô la vô tội vạ. Đất nước Việt Nam không phải là của họ vì vậy tập đoàn nầy cần gì phải tiêu tốn hàng triệu đô la để ngăn chận ô nhiễm, họ không xót xa cũng là điều dễ hiểu. Từ thí dụ nầy chúng ta không thể không quan ngại khi thấy những nhà máy hàng tỷ đó lũ lượt tràn vào trong khi trình độ quản lý chức năng ở nước ta trong lĩnh vực nầy chưa đủ sức, hệ thống pháp luật còn quá nhiều khe hở và chưa trở thành răn đe hữu hiệu (6). Mặt khác Bộ KHDT dự kiến tổng số ODA ký kết năm 2008 sẽ đạt 3,107 tỷ USD (trong đó vốn vay là 2,515 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại là 529 triệu USD) trong đó phần lớn dành cho việc chỉnh trang cơ sở hạ tầng vốn còn rất yếu kém. Cho biết thông thường, các dự án ODA tập trung giải ngân vào 6 tháng cuối năm và có thể đạt 2,5 tỷ USD cho cả năm 2008. Ông Phan Hữu Thắng, cục trưởng cục đầu tư(Bộ KHDT) lạc quan rằng năm 2008, “giải ngân được 12 tỷ USD đã là một thành công trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Không quốc gia nào có thể hấp thụ lượng FDI khổng lồ chỉ trong một năm”(7).

Có thể là như vậy nhưng liệu chúng ta có đang choàng vào người mình một chiếc áo quá khổ khi những điều kiện cơ bản như cơ sở hạ tầng, nhân lực, ngành công nghiệp phụ trợ, cơ bản vẫn còn trong tình trạng yếu kém. Một quang cảnh biểu tượng dễ hình dung nhất là những con đường giữa thành phố Hồ chí Minh hôm nay bị đào xới liên tục, lầy lội và bụi khói khi dòng người chen chúc giữa đám đông ùn tắt phản ánh thực trạng tương tự trong FDI.

Bà Phạm Chi Lan, nguyên Chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam cảnh báo ”đặc biệt, cần tránh những dự án bị thổi phồng về con số vốn đầu tư, về viễn cảnh lợi nhuận cho cả nước chủ nhà và nhà đầu tư. VN đã gặp không ít trường hợp này. Thực tế tới năm 2007 còn khoảng 70% doanh nghiệp FDI ở TP.HCM báo cáo lỗ là một minh chứng. Dù họ lỗ thật hay lỗ giả cũng đều đáng lo, đáng suy nghĩ”(8), bày tỏ một quan điểm rất chính xác rằng ” những dự án chỉ muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, không có cam kết hoặc năng lực chắc chắn về chế biến thì càng phải tránh. Không gì tai hại và thiệt thòi cho nền kinh tế và cả cho các thế hệ mai sau bằng việc xúc tài nguyên đi bán thô với giá rẻ (trừ lúc ta còn quá nghèo, không có gì khác, mà bây giờ thì ta không còn nghèo như vậy nữa).Không nên cấp phép cho những dự án gây ô nhiễm môi trường: Sân golf, nhà máy đóng tàu, nhà máy giấy, xi măng, thép... sử dụng công nghệ lạc hậu; những nhà đầu tư lợi dụng tình trạng quản lý lỏng lẻo ở VN để phớt lờ yêu cầu về bảo vệ môi trường”(9). Ông Phan Hữu Thắng phát biểu ”Trong thu hút FDI, tất cả các cơ quan quản lý đều quan tâm đến môi trường, an sinh xã hội và phát triển bền vững. Chúng tôi không nói suông mà điều đó đã được quy định trong Luật Đầu tư 2006. Và các cơ quan khi thẩm định, cấp phép đầu tư đềuhiểu rõ trách nhiệm của họ”(!).Nếu vậy thì xin hỏi Ông Thắng nghĩ sao về sự kiện Vedan của Đài Loan(thải chất thải ra sông Thị Vải), Hyundai-Vinashin(xả hạt Nix ở Nha Trang) hay MiWon của Hàn quốc (thải nước không xử lý ở Vĩnh Phúc)…Trong khi đó, bà Nguyễn Ngọc Lý, trưởng phòng Phát triển bền vững của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP chia sẻ “Điều đáng buồn là chúng ta chưa cân nhắc vấn đề môi trường ở mức, tầm cần có. Việt Nam cần xem môi trường là yếu tố quan trọng của sự phát triển kinh tế. Nếu không có hệ sinh thái hỗ trợ, bản thân nền kinh tế dù giàu có đến đâu cũng sụp đổ”, nhận định rằng “Việt Nam mới chỉ đưa ra một số liệu pháp chữa cháy mỗi khi có điểm nóng bùng lên. Trong khi đó, bản thân vấn đề môi trường không thể giải quyết bằng cách chữa cháy. Việc này đòi những giải pháp mang tính lâu dài, có độ chính xác kỹ thuật, sự cân nhắc kỹ lưỡng chính sách kinh tế tài chính và điều vô cùng quan trọng là một bộ luật nghiêm khắc, kỹ lưỡng, thấu đáo làm sao tất cả mọi người, mọi ngành có thể thực hiện được”(xem chú thích 7). Mặt khác, TS Trần Du Lịch đã nêu rõ “Để đánh giá đúng tín hiệu đầu tư, cần xem xét con số rất quan trọng mà TP cũng như cả nước chưa công bố, đó là trong 6 tháng đầu năm, FDI đã được triển khai thực hiện bao nhiêu? Con số này mới là quan trọng, con số báo cáo chỉ là trên giấy tờ, không loại trừ trường hợp mấy năm sau gặp khó khăn, các nhà đầu tư lại không triển khai dự án”(10). Vì vậy theo chúng tôi chẳng nên vội mừng vì những con số, con số càng lớn thì điều kiện đi kèm không phải dễ dàng trong tình hình bấp bênh, thậm chí những con số nầy là phương tiện biến nước ta thành bãi rác công nghiệp tràn ngập ô nhiễm hay những khu ăn chơi, bài bạc và nhiều tệ nạn khác đang chực chờ mà đa số người việt, đặc biệt là người nghèo bị gạt đứng bên lề của sự phát triển như nhận định gần đây của cố Thủ tướng Võ văn Kiệt(11).

Hồng Lê Thọ

1/10/2008

.

Hà Tĩnh dẫn đầu cả nước chỉ với 1 dự án đầu tư vào KKT Vũng Áng. (Ảnh: DPI Hà Tĩnh)

(*)Tổng cục Thống kê đưa ra các số liệu FDI dựa trên cách tính bao gồm tất cả các nguồn vốn của một dự án đầu tư nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả vốn cổ phần, các khoản tái đầu tư bao gồm phần góp vốn của đối tác trong nước trong công ty liên doanh và tất cả các khoản vay, kể cả từ công ty mẹ và các khoản vay thương mại từ ngân hàng trong và ngoài nước.

Lời chú :

(1) Xung quanh con số 50 tỷ USD vốn FDI (Vneconomy) 07/09/2008  

http://www.hanoimoi.com.vn/vn/15/179627/

(2) Cuối tháng 9/2008,Tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu do có liên doanh sản xuất thép giữa Tập đoàn Lion (Malaysia) với Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD mới được cấp phép . Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đứng thứ 2 trong số 43 địa phương của cả nước, có 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,3 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh 7,99 tỷ USD, Hà Tĩnh 7,8 tỷ USD...

http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/09/805829/

(3) Mừng hay lo với FDI?  

http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1721

(4) Buông nhiệm vụ quản lý

http://nguyenvanphu.blogspot.com/2008_04_20_archive.html

(5) 9 tháng đầu năm 2008, tổng số vốn đăng ký đầu tư của các dự án FDI mới và các dự án FDI đăng ký tăng vốn vào thành phố Hải Phòng đã đạt con số 1,3 tỷ USD, tăng gấp gần 5 lần so với cả năm 2007trong đó số dự án đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, xây dựng đô thị, cao ốc đã chiếm tới 70% tổng số dự án FDI vào Hải Phòng. Tuy nhiên trong 9 tháng đầu năm 2008, thành phố Hải Phòng đã quyết định thu hồi giấy phép đầu tư đối với 13 dự án FDI vì cố tình chậm triển khai, không đủ năng lực tài chính, sai mục đích và kém hiệu quả.

Trong số các dự án bị thu hồi, đáng điểm mặt là: dự án của Công ty TNHH World Top Việt Nam (liên doanh với Hàn Quốc), Công ty Phát triển Khu công nghiệp sân Golf Đồ Sơn (liên doanh với Califonia Investment Group Ltd - British Virgin Islands), Công ty Liên doanh TNHH May mặc Ngọc Sơn (Hồng Kông), Công ty May - Phụ liệu may Tân Hải (Trung Quốc), Công ty Liên doanh TNHH May mặc Kwong Hai (Hồng Kông)...

http://vietbao.vn/Nha-dat/Hai-Phong-boi-thu-FDI-vao-bat-dong-san/62240852/507/

(6) Trong dự án Dự án Tổ hợp Hoá dầu Long Sơn ra mắt ngày 25/9/2008, các nhà đầu tư Dự kiến áp dụng10 loại công nghệ có bản quyền sẽ được sử dụng trong các phân xưởng của tổ hợp. Các công nghệ này đều được lựa chọn trong số các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới và hầu hết chưa từng được sử dụng ở Việt Nam(!?).

(7) “FDI: Đừng nghĩ CQ quản lý Nhà nước không biết làm việc” Thanh Lâm
http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/3279/index.aspx.
http://www.tuanvietnam.net//vn/sukiennonghomnay/4651/index.aspx


Tham khảo thêm:

"Lạm phát" khu công nghiệp... có tính đến hậu quả môi trường?


23/03/2008
- Xây khu công nghiệp đang là "mốt" ở các địa phương. Xây rồi, phải mời gọi đầu tư với những ưu đãi. Ưu đãi bây giờ chỉ có... dễ dãi về tiêu chuẩn môi trường. Hậu quả rồi sẽ ra sao về sau? Ý kiến của TS Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ...

"Lạm phát" khu công nghiệp...
Xu thế xây dựng các khu công nghiệp đang trở thành “mốt” ở các địa phương.

Các tỉnh ở ĐBSCL đang chọn xây dựng các khu công nghiệp cặp theo sông rạch để dễ dàng vận chuyển. Đây là bài toán nan giải cho cả vùng trong phát triển đô thị thời gian tới. (Ảnh: V. Anh)
Một con số thống kê gần đây cho thấy, ĐBSCL có 111 khu, cụm công nghiệp với diện tích 24.000ha. Nhiều khu cho thuê chưa đến 50% diện tích, điều đó có nghĩa các khu công nghiệp này chôn vốn hàng chục ngàn tỉ đồng.
Khu công nghiệp nhiều hay ít là khái niệm tương đối. Còn ở đây muốn nói có lãng phí hay không, có giúp ích được gì cho phát triển kinh tế địa phương và khu vực hay không, có bị chôn vốn hay không. Con số 111 khu, cụm vào khoảng 25.000ha là con số tại hội nghị công nghiệp các tỉnh ĐBSCL diễn ra cách đây chưa lâu.
Nếu nhìn vào con số 111 này thì thấy nhiều. Nhưng thật ra đến ngày hôm nay thì cả vùng chỉ có chừng 15 khu công nghiệp với diện tích khoảng 2.500ha, còn lại là các cụm, khu đang qui hoạch. Số liệu chúng tôi có thì đến năm 2010, toàn vùng có 25 khu công nghiệp, diện tích 5.000ha. Đó là một qui hoạch, hướng tới, còn các khu công nghiệp đang hoạt động, đang xây dựng cơ sở hạ tầng chỉ có 15 khu.

Thời gian qua diện tích cho thuê chỉ khoảng hơn 1000ha/2.500ha.
Mà đâu chỉ có ĐBSCL mới có tình trạng này... Cả nước hiện nay tình trạng cho thuê lấp đầy trên 50% cũng chỉ chiếm khoảng 50% tổng diện tích. ĐBSCL lấp đầy 43% diện tích thì cũng gần bằng với tình trạng chung của cả nước. Cho nên nếu có chôn vốn thì điều đó không riêng ĐBSCL mà đó là xu thế của cả nước.
"Bán"... môi trường để mời gọi đầu tư?

Nhà nước có chức năng qui hoạch, không thể nào để công nghiệp phát triển mà không có tầm nhìn, qui hoạch. Các tỉnh dành ra 500-700ha làm công nghiệp chiếm tỉ trọng không lớn. Nhưng quan ngại hiện nay là đất làm khu công nghiệp toàn là đất cục, đất nạc nằm ven sông ven đường, dính tới phát triển đô thị hoặc nhà ở, do vậy tỉ lệ đền bù cao và mức độ người ta rời bỏ công ăn việc làm lớn.
Nếu so với tổng diện tích của vùng, của từng địa phương thì diện tích các khu công nghiệp không lớn, kể cả các qui hoạch, nhưng đó lại là những miếng đất rất có giá trị, nhưng ở góc độ đó thì lại là vấn đề khác. Tiếp nữa là đưa tiền vào đầu tư cơ sở hạ tầng mà không có người vào thì sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn, góc độ này thì là lãng phí.

Nhưng nguồn gốc từ đâu? Tỉnh nào cũng muốn có khu công nghiệp, muốn chuyển dịch cơ cấu. Rõ ràng các khu công nghiệp có đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp, có chuyển dịch cơ cấu. Tỉnh nào cũng lấy thước đo công nghiệp, thước đo tăng trưởng nên rất muốn làm các khu công nghiệp. Cái gốc là ở chỗ này.
Tỉnh muốn có khu công nghiệp, huyện muốn có cụm công nghiệp nên dẫn đến con số mà chúng ta đang có là 111 khu, cụm, chứ thực tế bắt tay vào làm chưa nhiều. Chưa nhiều nhưng cũng cảm thấy lo, diện tích cho thuê trên 50% cũng chỉ chiến khoảng 50% tổng các khu công nghiệp, và như vậy vốn liếng chôn vào đây là có vấn đề.
Phải đặt vấn đề cái hiện tại chưa sử dụng hết diện tích mà còn qui hoạch liên tiếp sẽ đặt ra nhiều áp lực là có khu công nghiệp phải thu hút đầu tư, nếu không có nhà đầu tư thì các khu này bị xem là lãng phí. Cho nên các tỉnh đua nhau mời gọi nhà đầu tư, mời gọi thì phải ưu đãi, thế là mỗi nơi áp dụng chính sách ưu đãi khác nhau, thậm chí ưu đãi không lành mạnh, xé rào.

Đã mong muốn có công nghiệp thì phải xây khu công nghiệp. Theo tôi là không đúng. Muốn có công nghiệp không nhất thiết phải xây dựng nhiều khu công nghiệp, mặc dù khu công nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Đồng nhất hai chuyện này nên nhiều địa phương đã xây dựng các khu công nghiệp và dễ dãi trong mời gọi đầu tư. Bây giờ chính phủ cũng không cho ưu đãi, vào WTO cũng sẽ không cho những ưu đãi đó. Chính vì thế mà tôi e ngại rằng khi không cho ưu đãi như vậy thì các ưu đãi “cứng” trước đây như tiền thuê đất, tiền thuế… sẽ được chuyển qua một dạng ưu đãi khác như: dễ dãi trong tiêu chuẩn môi trường. Như vậy sự ưu đãi này về lâu dài còn nguy hiểm hơn các ưu đãi cứng.
Vấn nạn này trong tương lai sẽ không lường hết được. Lúc đầu nghĩ đơn giản khu công nghiệp sẽ giúp tăng trưởng, phát triển công nghiệp ở địa phương, đón đầu đầu tư… nên xây dựng nhiều khu công nghiệp và dẫn đến những nguy cơ có thật như vậy.

• Vân Anh (lược ghi)
• http://www.vnn.vn/kinhte/2008/03/774808/

(8),(9) FDI: Những dự án cần từ chối—Phạm Chi Lan

http://vietnamnet.vn/chinhtri/2008/07/796278/
cũng như viễn cảnh lợi nhuận cho nhà đầu và nước chủ nhà. Và cũng có không ít dự án FDI mà bản thân nó thay vì mang tiền vào Việt Nam lại dùng chính đất đai của Việt Nam và lòng tin vào nhà đầu tư ngoại của cáĐã có những dự án mà thực chất chỉ là "bánh vẽ" với những con số thổi phồng về vốn cam kết, c ngân hàng thế chấp cho ngân hàng Việt Nam, rút vốn ra, chèn ép khả năng tiếp cận vốn của các DN dân doanh Việt Nam hiện đang gặp khó, một kiểu mà theo bà Chi Lan gọi là "dự án cướp ngân hàng". Bà Chi Lan cho biết, ở Đà Nẵng đã có dự án khiến một ngân hàng quốc doanh đổ tới 30% vốn vào.
http://www.tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/4376/index.aspx


(10) “Không tự ru ngủ bằng chỉ số FDI trên giấy!”
Phạm Cường thực hiện phỏng vấn TS Trần Du Lịch trên Viet nam Net
www.vnn.vn/chinhtri/2008/07/791372/
 

(11) Võ Văn Kiệt “ Đừng để người nghèo bị gạt ra bên lề

 http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=44124
 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr Hồng lê Thọ