Kinh tế thế
giới giàu
đang trong
tình trạng
tồi tệ. Từ
đầu tháng
8-2011,
nhiều tín
hiệu báo
động đã được
ghi nhận. Ở
Âu châu, tỉ
suất lợi
nhuận của
trái phiếu
thời hạn 10
năm ở Ý và
Tây Ban Nha
đã lên trên
6%. Hoa Kỳ
trong khi đó
đã tỏ ra âu
lo khi tầm
cỡ an toàn
tín dụng đã
bị xuống cấp
bởi một
trong những
cơ quan thẩm
định lớn –
S&P’s. Trên
khắp thế
giới, các
thị trường
chứng khoán
chao đảo,
một vài thị
trường đã
ghi nhận mức
độ sụt giảm
lớn nhất
trong một
ngày kể từ
2008. Chứng
khoán các
ngân hàng
cũng sụt
giảm mạnh,
một chỉ dấu
bất ổn trầm
trọng trong
hệ thống tài
chánh.
Các
ngân hàng
trung ương
đã phải can
thiệp. Ngân
Hàng Trung
Ương Âu Châu
(ECB) cho
biết có thể
ứng cứu Tây
Ban Nha và Ý
qua việc mở
rộng chương
trình mua
trái phiếu
của hai xứ
nầy. Cùng
lúc, Cục Dự
Trữ Liên
Bang Hoa Kỳ
cũng đã
thông báo sẽ
giữ mức lãi
suất thấp
gần số không
ít ra cho
đến năm
2013, và ám
chỉ có thể
có nhiều
biện pháp
khác hổ trợ
nền kinh tế.
Tỉ suất lợi
nhuận các
trái phiếu Ý
và Tây Ban
Nha đã sụt
giảm phần
nào. Đà suy
sụp trên thị
trường chứng
khoán đã tạm
thời dừng
lại, dù chỉ
ngắn ngũi,
khi sự âu lo
lan tràn tới
Pháp.
Mặc dù
các nền kinh
tế đang lên
vẫn tăng
trưởng đủ
mạnh để duy
trì tăng
trưởng toàn
cầu, làn
sóng bi quan
ở Âu châu và
Hoa Kỳ đang
đè nặng lên
toàn thế
giới.
ÂU CHÂU
VÀ HOA KỲ
Tâm trạng
bi quan rõ
ràng có gốc
rễ từ các dữ
kiện kinh
tế, nhất là
từ Hoa Kỳ,
cho thấy đà
hồi phục hết
sức chậm
chạp. Tuy
nhiên, cũng
cần nhắc đến
nổi ám ảnh
với các nguy
cơ chính
trị. Sau hơn
ba năm trông
chờ các
chính trị
gia giải
quyết các
vấn đề, các
nhà đầu tư
đã mất hết
tin tưởng.
Một thỏa
hiệp tồi tệ
nâng mức
trần công
trái với
Quốc Hội Mỹ
và sự bất
lực của khu
vực euro
trong nỗ lực
giải quyết
các vấn đề
khó khăn
không những
chẳng tốt
lành, mà còn
cho thấy các
chính trị
gia hoặc
đang thất
bại hay đang
làm tình
hình ngày
một tệ hại
hơn.
Làn sóng
thất vọng
cũng đã ảnh
hưởng đến
lòng tin của
giới doanh
nhân.The
Economist/FT
global
business
barometer
mới
nhất, một
cuộc thăm dò
các nhà quản
lý trên khắp
thế giới,
tiết lộ
những kẻ tin
điều kiện sẽ
tồi tệ hơn
trong vòng
sáu tháng
tới vượt quá
số người
đang chờ đợi
một sự cải
thiện đến
10,5 %, một
sự đổi chiều
lớn so với
cuộc thăm dò
trong tháng
5. Các xí
nghiệp Hoa
Kỳ giờ đây
có thái độ
cẩn trọng
hơn nhiều
trong việc
bỏ thêm vốn
đầu tư.
Chừng nào
tình trạng
nầy còn kéo
dài, các
ngân hàng
trung ương,
ngay cả khi
quyết định
đúng, may
mắn lắm cũng
chỉ có thể
đem lại một
liều thuốc
giảm đau.
Chuổi sụt
giảm trên
thị trường
chứng khoán
trong mấy
tuần qua đã
gây thêm mất
tin tưởng,
nhưng cũng
chưa phải
lý do để
phải quá
hoảng sợ.
Một sự điều
chỉnh trong
giá trị các
tích sản Hoa
Kỳ lẽ ra đã
phải thể
hiện sớm
hơn: chỉ số
S&P 500 đã
tăng gấp đôi
kể từ mức
thấp nhất
trong tháng
3-2009, và
tỉ số giá cả
thị trường
điều chỉnh
theo chu
kỳ/lợi tức[1]
– 20,7, vào
ngày
4-8-2011,
mức cao hơn
rất nhiều so
với tỉ số
trung bình
16,4. Đà
phục hồi sau
suy thoái
tài chánh
yếu ớt,
trong khi
khu vực tư
đang trả bớt
nợ nần. Từ
lâu thị
trường trái
phiếu đã ghi
nhận thực tế
vừa nói, và
cuối cùng có
thể đã phải
cùng chung
số phận với
các thị
trường chứng
khoán. Tuy
vậy, kinh tế
Hoa Kỳ vẫn
còn dấu hiệu
sinh động:
tháng 7-2011
đã ghi nhận
117,000 việc
làm mới, tuy
chưa đáng
kể, nhưng
không phải
là bằng
chứng của
suy thoái.
Tuy
nhiên, nguy
cơ Hoa Kỳ và
các xứ giàu
đang rơi trở
lại suy
thoái là
thực sự. Gốc
rễ của vấn
đề ở cả hai
bên bờ Đại
Tây Dương
khá giản dị:
quá nhiều nợ
nần, thiếu
vắng ý chí
chính trị để
đối phó với
hậu quả.
Điều đó cho
thấy vấn đề
thực sự đang
ở đâu.
Trong khu
vực đồng
euro, gánh
nặng nợ
nần, bắt đầu
với các quốc
gia ngoại
vi, đã lan
tràn đến các
xứ lớn Tây
Ban Nha, Ý
và có lẽ cả
Pháp. Như
thường lệ,
cuộc khủng
hoảng đã
dừng lại
trong vài
ngày tiếp
theo sau
phiên họp
thượng đỉnh
khẩn cấp
trong tháng
7, để rồi
tiếp tục trở
lại với đe
dọa mới khi
các chính
trị gia rõ
ràng đã chưa
làm đủ, và
hệ thống
ngân hàng
vẫn đang lâm
nguy.
Trong lúc
đó, ở Hoa
Thịnh Đốn,
các chính
trị gia đang
tiếp tục cãi
vã mặc dù đã
thoát nguy
cơ vỡ nợ với
thỏa hiệp
nâng mức
trần công
trái, một
thỏa hiệp
sai quấy vì
hai lý do:
(1) Thắt
chặt tín
dụng ngắn
hạn trong
khi nền kinh
tế đòi hỏi
tăng chi và
kích cầu;
(2) Chưa có
biện pháp xử
lý vấn đề
giảm thiểu
khiếm hụt
trong trung
hạn. Vì vậy,
tín dụng bị
S&P xuống
cấp là điều
dễ hiểu.
Câu hỏi
cần được đặt
ra là Ngân
hàng trung
ương có thể
làm được gì?
Ở Âu
châu, sự can
thiệp của
ECB đã đem
lại hiệu quả
cần thiết:
lợi nhuận
các trái
phiếu Ý và
Tây Ban Nha
đã sụt xuống
5%.
Jean-Claude
Trichet, chủ
tịch ECB, có
thể có đủ
khôn ngoan
để đảo ngược
quyết định
nâng cao lãi
suất hồi
đầu năm: lạm
phát trong
khu vực đồng
euro đã sụt
giảm và cần
sụt giảm hơn
nữa khi giá
các mặt hàng
xuống thấp.
Nhưng lãi
suất đang ở
mức khá
thấp, và ECB
đang ngần
ngại can
thiệp vào
địa hạt tài
chánh qua
hành động
mua vào
nhiều hơn
các công
trái phiếu.
Ở Hoa Kỳ,
chủ tịch Cục
Dự Trữ, Ben
Bernenke,
cần xét đến
khả năng nới
lỏng tín
dụng đợt ba
(in thêm
tiền để mua
trái phiếu).
Tuy nhiên,
tác động của
biện pháp
nầy có lẽ sẽ
rất hạn chế
, và có thể
gây rắc rối
thêm cho các
nền kinh tế
đang lên khi
các xứ nầy
có thể đối
diện một đợt
gia tăng tư
bản nhập
khẩu mới.
GIỚI LÃNH
ĐẠO BARACK
OBAMA &
ANGELA
MERKEL…
Khuynh
hướng hiếu
động của
ngân hàng
trung ương
thường mang
theo những
bất trắc
tinh thần.
Nói rõ hơn,
đó là nguy
cơ khuyến
khích các
chính quyền
giữ một vai
trò thụ
động, phó
mặc cho
người khác
làm những
việc chính
quyền cảm
thấy khó đảm
đương. Thái
độ nầy là
một hành
động chối từ
trách nhiệm
nguy hiểm và
bỏ phí cơ
hội.
Ở Hoa Kỳ,
Quốc Hội cần
ủng hộ các
biện pháp
tài chánh
đoản kỳ –
gia hạn tín
dụng giảm
thuế căn cứ
trên bảng
lương nhân
công, gia
hạn bảo hiểm
thất nghiệp,
và đầu tư
vào hạ tầng
cơ sở – và
một kế hoạch
khả tín cắt
giảm khiếm
hụt trung
hạn qua cải
cách thuế vụ
và các
chương trình
an sinh xã
hội. Hiện
đang có
những kế
hoạch lưỡng
đảng để làm
những việc
nầy. Obama
và những đối
thủ Cộng Hòa
trước đây đã
mở cửa
thương nghị
những chương
trình lớn
lao như thế.
Một ủy ban
mới, phụ
trách giảm
thiểu thiếu
hụt, là một
cơ hội khác.
Các lãnh
đạo Âu châu
sẽ phải đối
diện với sự
lựa chọn khó
khăn hơn
nhiều – giữa
nguy cơ tan
rã của khu
vực euro và
liên hiệp
tài chánh
khắng khít
hơn. Cứu vớt
đồng euro sẽ
đòi hỏi một
quỹ cứu trợ
lớn lao hơn
là khu vực
euro hiện
sẵn sàng
chấp nhận.
Trên bình
diện viễn
kiến kinh
tế, một ý
tưởng mạnh
dạn hơn có
thể là khả
năng phát
hành những
trái phiếu
Euro được
bảo đảm bởi
cộng đồng
các quốc gia
thành viên
trong khu
vực. Đây là
một quyết
định chính
trị can đảm,
không phải
một điều các
cử tri Âu
châu chỉ có
thể thấy
được đưa vào
cữa hậu, mà
là một cam
kết thực
hiện một
công trình
vĩ đại. Đã
hẳn, đây là
một quyết
định chính
trị vô cùng
khó khăn.
Nhưng Angela
Merkel và
Nicolas
Sarkosy
không còn
nhiều lựa
chọn.
Các ngân
hàng trung
ương có thể
đem lại cho
các chính
trị gia hai
bên bờ Đại
Tây Dương
thêm chút ít
thời gian.
Và đã đến
lúc các
chính trị
gia phải
quyết định.
TRUNG
QUỐC VÀ HOA
KỲ
Suốt mùa
đông 2010,
các quan
chức Trung
Quốc và Hoa
Kỳ đã cố
gắng lật qua
một trang
mới trong
quan hệ hai
nước. Tháng
1-2011,
trong cuộc
công du đến
Hoa Thịnh
Đốn của chủ
tịch Hồ Cẩm
Đào, lãnh
đạo hai nước
đã nỗ lực
cải thiện
quan hệ
giữa hai
quốc gia.
Sau đó, Phó
Tổng Thống
Joseph R.
Biden đã
quyết định
sẽ viếng
thăm Trung
Quốc, vào
mùa hè 2011,
để gặp đối
tác Xi
Jinping,
người được
chờ đợi thay
thế Chủ Tịch
Hồ Cẩm Đào
vào năm
tới.
Trong khi
Biden đang
chuẩn bị lên
đường vào
hôm thứ ba
12-8, một
diễn biến
mới lại bao
phủ quan hệ
Mỹ-Hoa.
Các lãnh
đạo TQ đặt
nhiều câu
hỏi quan
trọng về nền
kinh tế và
giới lãnh
đạo Hoa Kỳ.
Chính quyền
Mỹ đang phải
đối đầu với
các khó khăn
thanh toán
nợ nần và
phân hóa
đảng phái.
Và tê liệt
chính trị đã
biến tình
trạng nầy
thành một
cuộc khủng
hoảng.
Mặc dù
Biden đã
quyết định
hoản ngày
lên đường
trong tháng
7 ngõ hầu
giúp đem lại
thỏa hiệp
nâng cao mức
trần công
trái, phương
cách duy
nhất thanh
toán số nợ
đáo hạn
trong tháng
8, tuy vậy,
vẫn không
tránh được
sự kiện
Standard &
Poor’s hạ
thấp an toàn
tín dụng của
Hoa Kỳ từ
AAA xuống
AA+. Thông
Tấn Xã
Xinhua công
bố lời bình
luận đòi hỏi
Hoa Kỳ phải“chữa
trị
bịnh ghiền
vay mượn
và
sống
trong giới
hạn khả năng
của chính
mình.”[2]
Những khó
khăn kinh tế
và chính trị
của Hoa Kỳ
đã có những
hệ lụy trực
tiếp đến tài
chánh TQ.
Thực vậy, TQ
đang chấp
hữu hơn 1,1
nghìn tỉ
công khố
phiếu của
Mỹ, và đã
trở thành
trái chủ lớn
nhất của Hoa
Kỳ. Không ít
người TQ
công khai
chỉ trích
cấp lãnh đạo
đã đầu tư
quá nhiều
vào công khố
phiếu Mỹ.
Các nguy
cơ dai dẳng
không trả
được nợ nước
ngoài sắp
đáo hạn của
Âu châu,
bóng ma chập
chờn đại suy
thoái kép
của Mỹ, và
những xáo
trộn trên
các thị
trường toàn
cầu, càng
làm tăng
thêm nỗi lo
ngại của TQ,
một xứ có tỉ
suất tăng
trưởng kinh
tế tùy thuộc
phần lớn vào
khu vực xuất
khẩu rộng
lớn của
mình.
Zhu Feng,
giáo sư quan
hệ quốc tế
tại Đại Học
Bắc Kinh ,
cho biết:
trong lần
tham dự buổi
họp ở Bộ Tài
Chánh gần
đây, ông
nhận thấy
các tham
luận viên
đều ái ngại
âu lo. Theo
ông, “mọi
người đều
cảm nhận
kinh tế thế
giới đột
nhiên trở
nên rất khó
tiên liệu.
Chẳng ai
muốn thấy
kinh tế Hoa
Kỳ tiếp tục
tuột dốc và
một cuộc
khủng hoảng
kinh tế mới.
TQ và Hoa Kỳ
đang giữ một
vai trò rất
quan trọng –
tìm cách duy
trì sự ổn
định trong
kinh tế toàn
cầu.”[3]
Trong
bước đầu làm
quen, Biden
và Xi cũng
sẽ thảo luận
một số vấn
đề an ninh
đang chia rẽ
hai nước –
Hoa Kỳ bán
vũ khí cho
Đài Loan,
chương trình
hạt nhân của
Bắc Hàn,
tình hình
căng thẳng
trên Biển
Đông hay Nam
Hải… Nhưng
các vấn đề
kinh tế đã
là những vấn
đề nổi trội
hàng đầu.
Theo
Jeffrey A.
Bader, Giám
đốc kỳ cựu
Đông Á Sự Vụ
trước tháng
4-2011 trong
Hội Đồng An
Ninh Quốc
Gia,
“mục tiêu
của chuyến
công du,
được hoạch
định trước
các khó khăn
kinh tế mới
đây, là để
làm quen với
Xi Jinping.
Đã hẳn những
biến cố gần
đây trong
địa hạt kinh
tế đã là lý
do các vấn
đề kinh tế
Hoa Kỳ và
đồng USD
được ưu tiên
ghi vào nghị
trình.”[4]
Theo Da
Wei, Phó
Giám Đốc
Viện Nghiên
Cứu Hoa Kỳ
thuộc Liên
Viện Quan Hệ
Quốc Tế
Đương Đại
Trung Quốc ở
Bắc Kinh[5],
đối với TQ,
“nợ công
khố phiếu
Hoa Kỳ là
mối lo ngại
lớn nhất vì
liên quan
đến tính an
toàn số đầu
tư tài chánh
lớn lao của
TQ.”[6]
Trong khi
đó, theo Hoa
Kỳ, những
khó khăn
quốc nội của
TQ đã lấn át
các quan hệ
đối ngoại.
Các nỗ lực
duy trì ổn
định xã hội
của các lãnh
đạo TQ trong
mùa hè đã bị
thách thức
bởi bạo động
sắc tộc
trong khu
vực phía tây
Xinjiang và
các chỉ
trích của
công chúng
về cách xử
lý tai nạn
xe lửa cao
tốc trong
tỉnh
Zhejiang của
chính quyền.
Có lẽ vấn
đề nhức nhối
nhất đối với
cấp lãnh đạo
TQ là lạm
phát gia
tăng. Chỉ số
giá tiêu thụ
của TQ đã
tăng 6,4%
trong tháng
6-2011, cao
nhất trong
vòng ba năm
qua. Các nhà
phân tích
cho biết lạm
phát trung
bình cho cả
năm chắc
chắn sẽ quá
4%, mức ấn
định bởi cấp
lãnh đạo.
Lạm phát
sẽ đặt TQ
trước các
khó khăn về
chính sách
nếu các xứ
Tây phương
lại rơi vào
một suy
thoái mới.
Trong năm
2008, cao
điểm của suy
thoái tài
chánh toàn
cầu, TQ đã
trông cậy
vào chi tiêu
công để kích
cầu và nới
lỏng tín
dụng bởi các
ngân hàng
nhà nước, để
bơm tiền vào
các chương
trình xây
dựng hạ tầng
cơ sở và các
dự án đòi
hỏi những
khoản đầu tư
lớn lao nhằm
duy trì tỉ
suất tăng
trưởng kinh
tế. Ngày
nay, các
quan chức TQ
đang lo ngại
về sự chi
tiêu phung
phí và đang
cố gắng thắt
chặt tín
dụng.
Một vấn
đề gay cấn
giữa Hoa Kỳ
và TQ trước
đây nay ngày
một bớt căng
thẳng và lùi
vào hậu
trường: định
giá đồng
nhân dân tệ
– RMB. Chính
quyền Obama
trong một
thời gian
lâu dài
trước đây đã
thúc đẩy TQ
tái định giá
đồng RMB để
điều chỉnh
những bất
quân bình
trong cân
thương mãi
và giúp tái
cơ cấu kinh
tế thế giới.
Chính quyền
TQ đã dè dặt
từ chối, e
ngại khu vực
xuất khẩu sẽ
bị tổn
thương.
Tuy
nhiên, đồng
nhân dân tệ,
nếu được
định giá quá
thấp một
cách giả
tạo, sẽ đưa
đến lạm
phát. Do
đó, gần đây
TQ đã để đơn
vị tiền tệ,
đồng RMB, từ
từ tăng giá
đối với đồng
USD.
Đề tài
nầy có thể
đang mất dần
tầm quan
trọng trong
chính trị
Mỹ. Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế
(IMF), trong
phúc trình
tháng
7-2011, đã
nói rõ: một
đồng nhân
dân tệ mạnh
hơn không
nhất thiết
đã có thể
giúp đem lại
công ăn việc
làm mới cho
Hoa Kỳ.
Chính vì
vậy, thay vì
Biden gây áp
lực đối với
TQ về tiền
tệ, các quan
chức TQ rất
có thể sẽ
gây áp lực
với Biden,
đòi hỏi Hoa
Kỳ phải ổn
định giá trị
đồng USD.
Trong lúc
đó, TQ sẽ
tìm cách
đánh giá uy
lực của T T
Obama, trước
những khó
khăn đang
đối diện
trong nỗ lực
thuyết phục
phe Cộng Hòa
trong Quốc
Hội nâng cao
mức trần
công trái.
Kenneth
G.
Lieberthal,
một học giả
về TQ tại
Brookings
Institution
đã từng phục
vụ trong Hội
Đồng An Ninh
Quốc Gia
dưới thời
Clinton, đã
cho biết,
“khi họ
tin đang làm
việc với một
tổng thống
Hoa Kỳ mạnh,
người TQ
luôn ứng xử
tử tế. Thật
khó lòng
bằng cách
nào những
biến cố gần
đây có thể
đem lại một
ấn tượng
tổng thống
Hoa Kỳ là
một lãnh đạo
mạnh.”[7]
Thứ năm
(18-8-2011),
Phái đoàn
Hoa Kỳ đã
đến Bắc Kinh
với e ngại
người TQ có
thể bày tỏ
lo âu về sự
an toàn của
số nợ khổng
lồ của Mỹ.
Trong
thực tế, Phó
T T Joseph
R. Biden và
các lãnh đạo
TQ đã nhấn
mạnh nhu cầu
hợp tác kinh
tế vào thời
điểm kinh tế
toàn cầu
đang đương
đầu với các
khủng hoảng
mới. Và các
quan chức
tháp tùng
hiện diện
trong buổi
họp cho biết
các lãnh đạo
TQ đã nói
với Biden họ
vẫn có lòng
tin ở hệ
thống tài
chánh Hoa Kỳ
và đã không
tỏ ra quá lo
ngại đối với
số đầu tư
khổng lồ vào
trái phiếu
ngân khố.
Tuy
nhiên, vì
các quan
chức TQ đã
không tiết
lộ gì với
các phóng
viên ngoại
quốc, không
ai có thể
đoan chắc
những gì đã
thực sự được
trao đổi.
Những bình
luận gần đây
của các cơ
quan truyền
thông chính
thức TQ đã
phản ảnh tâm
trạng hoảng
sợ về số đầu
tư vào trái
phiếu ngân
khố Hoa Kỳ
tiếp theo
sau cuộc
khủng hoảng
về trần quốc
trái ở Mỹ.
Biden
trong lúc đó
vẫn trở lại
một đề tài
cũ: TQ cần
xây dựng một
nền kinh tế
vững bền
hơn, ý muốn
nói một nền
kinh tế cơ
sở trên tiêu
thụ quốc nội
hơn là xuất
khẩu. Ông
nhấn mạnh
một sự tái
quân bình
như thế là
phương cách
TQ có thể
giúp kích
thích tăng
trưởng kinh
tế ở Hoa Kỳ
và các xứ
khác, và
điều chỉnh
cơ cấu kinh
tế của
chính TQ.
Thực vậy,
trong cuộc
họp chiều
18-8 với
Wu Bangguo,
chủ tịch
Quốc Hội
Nhân Dân và
là lãnh đạo
số hai ở TQ,
Biden đã
tuyên bố:
“Đó là lý do
chính tôi đã
đến đây: để
thảo luận về
việc làm
[nhân dụng]
và tăng
trưởng, và
như đã được
phát biểu
sáng nay,
tái cơ cấu
kinh tế –
của quý quốc
và của chính
chúng tôi.”[8]
Phó T T
Biden nói
tiếp: Trên
cương vị hai
nền kinh tế
lớn nhất
trong thời
buổi khó
khăn, cả hai
quốc gia
“đang cùng
nhau giữ vai
trò nòng cốt
không những
trong sự
thịnh vượng
của chính
chúng ta, mà
còn là nguồn
lực đem lại
tăng trưởng
và nhân dụng
cho toàn thế
giới.”[9]
Các quan
chức Mỹ cũng
đã nhấn
mạnh: khía
cạnh quyết
định chủ
chốt của tái
quân bình
hai nền kinh
tế là cho
phép đơn vị
tiền tệ TQ,
đồng nhân
dân tệ ,
tăng giá. Và
theo các
quan chức
Mỹ, kể từ
tháng
6-2010, đồng
RMB đã tăng
giá 7%,
nhưng vẫn
chưa đủ.
Đây là
chuyến viếng
thăm TQ lần
đầu của Phó
T T Biden kể
từ ngày nhận
chức. Mục
tiêu chính
của chuyên
công du,
gồm ba ngày
họp ở Bắc
Kinh và thị
trấn miền
Tây Chengdu,
là để Biden
và các quan
chức tháp
tùng làm
quen và xây
dựng quan hệ
với Phó Chủ
Tịch Xi
Jinping,
người được
chờ đợi sẽ
trở thành
lãnh đạo của
TQ năm tới.
Trong
ngày Thứ
Năm, Biden
đã có hai
cuộc họp với
Phó Chủ Tịch
Xi ở Nhân
Dân Đại Sảnh
và dự tiệc
tối do Xi
khoản đãi.
Biden và
Xi đến Đại
Sảnh lúc
10:30 sáng.
Bên trong
Đại Sảnh, cả
hai duyệt
qua hàng
quân danh dự
cử hành quốc
ca Hoa Kỳ và
Cộng Hòa
Nhân Dân
Trung Quốc.
Chủ và
khách đã
trao đổi lời
mở đầu tại
bàn hội
nghị. PCT Xi
nói trước,
nhấn mạnh đề
tài chính
của cuộc
thăm viếng
của PTT
Biden:quyền
lợi đan xen
chồng chéo
ngày một gia
tăng, nhất
là quyền lợi
kinh tế,
giữa hai
nước. Ông
nói, “Tôi
cũng vậy,
tôi tin
trong hiện
tình,TQ và
Hoa Kỳ có
nhiều quyền
lợi chung
ngày một
rộng lớn, và
chúng ta
cùng gánh
vác nhiều
trách nhiệm
chung ngày
một nhiều và
quan trọng
hơn.”[10]
Về phía
Mỹ, PTT
Biden nhắc
lại chuyến
thăm TQ đầu
tiên năm
1979, khi
ông còn là
một nghị sĩ.
Trước khi
ông có thể
hoàn tất lời
mở đầu, được
soạn thảo
dành riêng
cho các quan
chức và báo
chí, các
nhân viên an
ninh TQ đã
buộc một số
phóng viên
ngoại quốc
và vài nhân
viên Tòa
Bạch Ốc ra
khỏi phòng
họp. Người
ta không rõ
đã có sự
hiểu lầm gì
gây ra sự
lộn xộn,
thường hiếm
hoi trong
các cuộc họp
cấp cao như
thế, nhưng
các quan
chức Mỹ đã
từ chối bình
luận về sự
kiện nầy.
DOLLAR
BẢN VỊ HAY
ĐƠN VỊ TIỀN
DỰ TRỮ QUỐC
TẾ
Ngay sau
khi Standard
& Poor’s
xuống cấp
trình độ an
toàn của tín
dụng Hoa Kỳ,
Alan
Greenspan,
nguyên chủ
tịch Cục Dự
Trữ Liên
Bang, đã
nói:
“Hoa Kỳ có
thể trả bất
cứ món nợ
nào của mình
vì lẽ chúng
tôi luôn có
thể in thêm
tiền để làm
việc đó.”[11]
Để trả lời,
người ta
thường nhắc
lại trường
hợp
Zimbabwe.
Như Cộng Hòa
Phi châu
thiếu may
mắn nầy đã
chứng tỏ,
chính quyền
luôn gặp một
giới hạn nào
đó đối với
số tiền giấy
có thể in,
trước khi
kinh tế phải
đối đầu với
siêu lạm
phát.
Tuy
nhiên,
Zimbabwe
không còn bị
siêu lạm
phát. Theo
The
Economist
Intelligence
Unit,
một công ty
chị em của
The
Economist,
lạm phát
trung bình
chỉ ở mức
5,5% năm
nay. Làm thế
nào Zimbabwe
đã thành đạt
phép lạ đó?
Bí quyết là
chấp nhận
đồng USD như
đơn vị tiền
tệ chính
thức của
mình. Như
John
Chambers
thuộc
Standard &
Poor’s đã
nói: người
Mỹ có thể đã
đánh mất mức
an toàn tín
dụng AAA,
nhưng đồng
USD sẽ
“duy trì
cương vị
đồng tiền dự
trữ quốc tế
then chốt
dưới bất cứ
kịch bản khả
dĩ nào.”[12]
Theo con
số mới nhất
của IMF,
Zimbabwe là
một trong 66
quốc gia,
ngoài nước
Mỹ, hoặc
chấp nhận
đồng USD như
đơn vị tiền
tệ chính
thức, ràng
buộc đơn vị
tiền tệ của
mình với
đồng USD,
hay thả nổi
hối suất
theo đồng
USD. Đơn vị
tiền tệ cạnh
tranh duy
nhất hiện
nay, đồng
euro, chỉ có
một phạm vi
ảnh hưởng
nhỏ bé hơn,
gồm 25 xứ,
bên ngoài 17
quốc gia
thành viên
của khu vực
euro.
Nhóm 66
thành viên
trong khu
vực USD
chiếm một
GDP gộp lên
tới 9,000 tỉ
USD, hay
khoảng 14%
kinh tế toàn
cầu. Danh
sách gồm
những xứ nhỏ
bé như St
Kitts và
Nevis, vài
xứ đông dân
như
Bangladesh,
và vài cường
quốc kinh tế
bậc trung
như Saudi
Arabia. Nhóm
nầy còn bao
gồm các đồng
minh như
Qatar, và xứ
kình địch
như
Venezuela,
luôn coi
thường chủ
nghĩa đế
quốc Hoa Kỳ
ngay cả khi
đã phải hy
sinh chủ
quyền tiền
tệ của chính
mình cho Cục
Dự Trữ Liên
Bang hay
ngân hàng
trung ương
của Mỹ.
Trong mọi
trường hợp,
tất cả không
phải đều tốt
đẹp bên
trong khối
USD. Năm
2010, lạm
phát trung
bình lên tới
5,6% trong
mọi xứ thành
viên không
tính theo
kích cỡ GDP.
Năm nay, tỉ
suất lên đến
8%.
Thành
viên lớn
nhất trong
khối là
Trung Quốc,
xứ kiểm soát
chặt chẽ các
giao động
của đồng RMB
đối với đồng
USD. TQ nuôi
mộng tạo
dựng một thứ
tiền dự trữ
riêng. Nhiều
xứ đang theo
dõi đồng RMB
vì lẽ các xứ
nầy không
thể để mất
khả năng
cạnh tranh
đối với một
xứ xuất khẩu
lớn lao như
TQ. Một phân
tích bởi ba
kinh tế gia
trong
Viện Chính
Sách và Tài
Chánh Công
Quốc Gia
ở Delhi cho
thấy: đồng
RMB đã có
ảnh hưởng
đáng kể trên
tiền tệ 33
xứ.
Một nền
kinh tế nằm
giữa khối
USD và khối
RMB tiềm
năng là
Hong Kong.
Đồng dollar
Hong Kong
được định
nghĩa theo
đồng USD là
một điều dễ
hiểu, vì
đồng RMB
cũng đang
được buộc
chặt với
đồng USD.
Một khi đồng
RMB tách
khỏi đồng
USD, Hong
Kong sẽ bị
lôi kéo theo
hai chiều
hướng khác
nhau. Vài
người chủ
trương chấp
nhận đồng
RMB làm đơn
vị tiền tệ
chính thức
của Hong
Kong song
song với
đồng dollar
Hong Kong.
Nhưng các
quan chức
Hong Kong
cho đến nay
vẫn luôn giữ
thái độ im
lặng về đề
tài nầy. Họ
e ngại thảo
luận vấn đề
tiền dự trữ
thay thế sẽ
làm suy giảm
lòng tin vào
đồng dollar
Hong Kong.
Sau ngày S&P
hạ cấp tín
dụng Hoa Kỳ,
Norman Chan,
chủ nhiệm
Hong
Kong
Monetary
Authority
đã cho biết:
“sự kết
nối với đồng
USD đã có
tác dụng rất
tốt đối với
sự ổn định
tiền tệ và
tài chánh
của Hong
Kong từ năm
1983 đến
nay.”[13]
Tuy
nhiên, sự
trung thành
với đồng USD
không thể
xem như thái
độ tự nhiên,
ngay cả
trong những
xứ đồng USD
giữ một vị
thế quan
trọng nhất.
Newsday số
ngày
10-8-2011,
một nhật báo
ở Zimbabwe,
đã tự hỏi:
liệu đã đến
lúc Zimbabwe
nên rời bỏ
đồng USD, e
ngại
Zimbabwe rồi
sẽ phải nhập
khẩu tính
khinh suất
hay liều
lĩnh kinh
tế vĩ mô của
Mỹ. Vài
người nghĩ
đồng
rand
của Nam Phi
có thể là
một thứ tiền
dự trữ thay
thế tốt hơn.
Mặc dù đồng
USD vẫn còn
là tiền dự
trữ của thế
giới, nhưng
ngay cả vài
người
Zimbabwe nay
cũng đang
tìm đơn vị
tiền dự trữ
thay thế, đó
không thể
là một dấu
hiệu tốt đối
với người
Mỹ.
Trong bài
nói chuyện
ngày thứ
sáu,
26-8-2011,
đương kim
chủ tịch Cục
Dự Trữ, Ben
S. Bernanke,
quy lỗi cho
các chính
trị gia đã
gây ra nhiều
xáo trộn tài
chánh nguy
hiểm. Theo
Bernanke,
thỏa hiệp
hồi đầu
tháng 8-2011
nâng cao mức
trần tối đa
chính phủ có
thể vay
mượn, để đổi
lấy cắt giảm
thiếu hụt ít
nhất 2,1
nghìn tỉ
USD, chưa
giảm thiểu
số nợ xuống
mức hầu hết
các kinh tế
gia tin có
thể chịu
đựng, và
những tranh
cãi chính
trị hỗn loạn
là các lý do
Standard &
Poor’s đã
loại các
trái phiếu
ngân khố dài
hạn khỏi
danh sách
các cơ hội
đầu tư an
toàn.
Bài nói
chuyện đã
được nhiều
quan chức
nóng lòng
chờ đợi vì
lẽ Bernanke
cũng như các
vị chủ tịch
tiền nhiệm
thường có
thói quen
đến dự hội
nghị do Ngân
Hàng Dự Trữ
Liên Bang
Kansas City
chủ trì, để
làm sáng tỏ
quan điểm
của mình về
tình hình
kinh tế và
chính sách
tiền tệ.
Thay vì
mô tả với
đầy đủ chi
tiết các
giải pháp có
thể lựa
chọn,
Bernanke lại
chỉ chú tâm
vào chính
sách tiền tệ
và tài
chánh.
Bernanke đã
lặp lại lời
kêu gọi cải
cách tài
chánh quen
thuộc nhằm
giảm thiểu
nợ liên bang
trong dài
hạn, cùng
lúc tránh
các cắt xén
chi tiêu hay
tăng thuế
trong đoản
kỳ có thể
gây khó khăn
cho phục hồi
kinh tế. Ông
cũng nói
chính quyền
có thể giúp
tăng tốc đà
phục hồi qua
một số biện
pháp kể cả
“chính sách
gia cư tốt
và hiếu
động.”[14]
Trong khi
đó một số
kinh tế gia
ngày một
đông lập
luận: Cục Dự
Trữ cần chấp
nhận một tỉ
suất lạm
phát cao
hơn. Vài
người nói
ngân hàng
trung ương
cần cho phép
lạm phát cao
hơn để giảm
thiều thất
nghiệp. Vài
người khác
còn nói lạm
phát có thể
hữu ích qua
việc giảm
thiểu gánh
nặng nợ nần
của các hộ
gia đình khi
họ có thể
trả nợ với
một đồng USD
ít giá trị
hơn. Tuy
nhiên, cho
đến nay, các
lãnh đạo Cục
Dự Trữ chưa
có dấu hiệu
chịu thuyết
phục.
Nguyễn
Trường
Irvine,
California,
U.S.A.
30-8-2011
[1]
…market’s
cyclically
adjusted
price/earnings
ratio.
[2]
…demanding
the
United
States
cure
its
addiction
to
debts
and
live
within
its
means.
[3]
The
feeling
of
everyone
was
that
the
world
economy
has
just
suddenly
become
very
unpredictable.
No
one
wants
to
see
the
U.S.
economy
keep
going
downhill
and
a
new
financial
crisis.
China
and
the
U.S.
are
very
important
in
keeping
the
global
economy
stable.
[4]
The
primary
purpose
of
the
trip
was
to
build
the
relationship
with
Xi
Jinping.
Recent
events
in
the
economic
sphere
have
undoubtedly
put
the
U.S.
economy
and
U.S.
currency
on
the
agenda.
[5]
Institute
of
American
Studies
at
the
China
Institutes
of
Contemporary
International
Ralations
in
Beijing.
[6]
U.S.
Treasury
debt
is
the
biggest
concern
since
it’s
about
the
safety
of
China’s
financial
investment.
[7]
It
always
encourages
good
behavior
in
China
when
they
think
they’re
dealing
with
a
strong
U.S.
president.
It’s
hard
to
see
how
recent
events
would
have
created
an
impression
that
he’s
a
strong
leader.
[8]
That’s
the
overwhelming
reason
I’ve
come:
to
talk
about
jobs
and
growth,
and
as
was
phrased
this
morning,
the
reordering
of
our
economies
–
yours
and
ours.
[9]
…both
nations
“hold
the
key
together
to
not
only
our
own
prosperity,
but
to
generating
growth
and
jobs
worldwide.”
[10]
I,
too,
believe
that
under
the
new
situation,
China
and
the
United
States
have
ever
more
extensive
common
interests,
and
we
shoulder
ever
more
important
common
responsibilities.
[11]
The
United
States
can
pay
any
debt
it
has
because
we
can
always
print
money
to
do
that.
[12]
America
may
have
lost
its
triple-A
rating,
but
the
dollars
it
issues
will
remain
the
key
international
reserve
currency
under
any
plausible
scenario.
[13]
The
link
to
the
dollar
has
served
Hong
Kong
very
well
as
the
anchor
for
monetary
and
financial
stability
since
1983.
[14]
…good,
proactive
housing
policy.
|