Tóm tắt:
Trong bài này, chúng tôi trình bày kinh
tế Ðông Dương trong vùng thuộc Pháp, từ 1945 đến 1954. Chúng ta có thể nhận
xét là kinh tế 3 nước này ngày càng suy sụp. Chiến tranh chỉ có thể làm trầm
trọng thêm những vấn đề mà lẽ ra Ðông Dương cần phải giải quyết: làm thế
nào để các nước nông nghiệp thuần tuý có thể thoát ra khỏi tình trạng kém
phát triển về kinh tế trong hoàn cảnh thị trường quốc tế của những sản phẩm
các nước đó làm ra ngày càng thu hẹp lại ?
Résumé: Dans cet article, nous présentons
l'économie indochinoise, de 1945 à 1954, dans les régions sous
administration française. On peut constater que l'économie de ces trois pays
se dégrade continuellement le long de cette période. La guerre n'a fait
qu'amplifier les problèmes que l'Indochine devait résoudre: comment sortir
du sous-développement économique pour des pays agricoles dans un contexte où
les marchés mondiaux des produits dont ces pays sont spécialisés se
rétrécissent?
Phần lớn các dữ kiện và con số mà chúng tôi thu thập
được đều dựa trên địa bàn Ðông Dương nói chung, khó lòng phân chia ra cho
từng nước một. Kết quả nghiên cứu này chưa làm chúng tôi thực sự vừa lòng.
Chẳng hạn như chưa thể hiện được một cách rõ nét hoàn cảnh nền kinh tế của
mỗi nước trong giai đoạn nghiên cứu. Hiện tại thì chúng tôi vẫn chưa có
được, đối với mỗi nước, con số về Thu nhập quốc dân (GDP), tổng số lao động
có việc làm, tổng số người thất nghiệp. Phần nghiên cứu về tình hình
xuất-nhập khẩu cũng chưa đầy đủ thông tin về lượng. Tuy vậy, với những so
sánh có tính chất tương đối, chúng tôi hy vọng rằng bài này vẫn cho phép độc
giả hiểu được và hình dung đưọc về một thời kỳ đầy những xáo trộn và rối ren
trong lịch sử, và hiểu được tiến trình ở Ðông Dương. Sau khi tìm hiểu về
giai đoạn này, ngưòi ta có thể nói rằng, cuộc chiến tranh chỉ có thể làm
trầm trọng thêm những vấn đề mà lẽ ra Ðông Dương cần phải giải quyết : làm
thế nào để các nước nông nghiệp thuần tuý có thể thoát ra khỏi tình trạng
lạc hậu, kém phát triển về kinh tế trong hoàn cảnh thị trường quốc tế của
những sản phẩm các nước đó làm ra ngày càng thu hẹp lại ?
1. Hoàn cảnh kinh tế Ðông Dương 1945-1946
Theo Bị vong lục của Tiểu ban thiết kế các vùng bị tàn
phá (14-02-1947, New York), dân số Ðông Dương đã tăng từ 23 triệu người năm
1936 lên 27,7 triệu năm 1943. Ðiều đó có nghĩa là, tốc độ tăng dân số bình
quân hàng năm là ở mức 2,7%, cao hơn hẳn so với chỉ tiêu tương ứng của những
năm về trước 1900-1936 (đâu là nguyên nhân của sự gia tăng này : giảm các
nạn dịch ? giảm hạn đói ? chăm sóc sức khoẻ tốt hơn ? chất lượng cuộc sống
tốt hơn ?). Về tình hình sản xuất nông nghiệp của Ðông Dương, ta có bảng
sau :
Biểu 1 : sản xuất nông nghiệp ở Ðông Dương
Ðơn vị : tấn
|
1938 |
1946 |
Gạo |
7.000.000 |
2.000.000 |
Ngô |
540.000 |
9.000 |
Cao su |
60.000 |
20.000 |
Chè |
13.000 |
100
đến 400 |
Cà phê |
3.600 |
1.500 |
Mía |
80.000 |
30.000 |
Bông |
1.000
đến 5.000 |
1.000 |
Thuốc
lá |
14.000 |
4.000 |
Khoai |
3.000 |
3.000 |
Sắn |
119.000 |
120.000 |
Nhiều cơ sở khai khoáng đã dừng hẳn hoạt động từ năm
1945. Sản lượng năm 1945 đạt 180.000 tấn, giảm 10% so với cuối những năm 30.
Tổng số thiệt hại của thời gian 8 tháng bị quân đội Trung Hoa chiếm đóng (từ
tháng 9/1945 đến tháng 3/1946) ước tính vào khoảng 425 triệu đồng
(piastres), gấp đôi khoản thu nhập tài chính của Ðông Dương trong cùng thời
gian đó. Ngày 17/11/1945, theo sáng kiến của François Bloch-Lainé, cố vấn
của Thierry d’Argenlieu, Cao uỷ Pháp tại Ðông Dương, đồng bạc 500$ đã bị huỷ
bỏ. Hành động này nhằm mục đích vô hiệu hoá ngân khố dự trữ của Nhật và Việt
Minh. Ngày 25/12/1945, đồng bạc được nâng lên ở mức một đồng ngang với 17
francs. Sự quy đổi này có lợi cho sự chuyển tiền về chính quốc của các viên
chức Pháp ở Ðông Dương.
Cán cân thương mại Ðông Dương, xét về giá trị danh
nghĩa vẫn luôn luôn mang giá trị dương trong giai đoạn 1939-1945. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng năm 1945, Ðông Dương xuất khẩu 18 triệu đồng hàng hoá và nhập
khẩu 17 triệu đồng (các con số này thấp hơn rất nhiều so với chỉ tiêu đã đạt
được vào năm 1938).
Biểu 2: cán
cân thương mại (1939-1945)
Đơn vị: triệu
đồng
|
1939 |
1940 |
1941 |
1943 |
1944 |
1945 |
1946 |
Nhập
khẩu |
240 |
204 |
200 |
169 |
65 |
17 |
310 |
Xuất
khẩu |
350 |
395 |
287 |
213 |
87 |
18 |
690 |
Cũng phải nhắc lại về ảnh hưởng của cuộc đại chiến thế
giới lần thứ hai: đường sắt chỉ khai thác được 677 km năm 1946, so với 2900
km năm 1938.
Hàng không dân dụng: Hàng tuần có hai chuyến bay từ
Ðông Dương sang Pháp và ngược lại. Các hãng hàng không hoạt động tại Ðông
Dương lúc bấy giờ có Air France và Tập đoàn hàng không quân sự (GMTA). Lịch
bay của Air France như sau:
Paris-Sài Gòn : cất cánh lúc 8 :45 ngày thứ sáu, đến
nơi lúc 13 :05 ngày thứ hai.
Sài Gòn-Paris : cất cấnh lúc 7 giờ ngày thứ tư, đến nơi
lúc 16 :40 ngày thứ sáu.
Sau thoả thuận Pháp-Mỹ ngày 27/3/1946, có 3 tuyến bay
mới được mở thêm là :
N°1 : Hoa Kỳ-Paris-Trung Ðông-Ấn độ - Mianma-Thái
Lan-Hà Nội-Trung Hoa.
N°7 : Hoa Kỳ-Manila - Sài Gòn –Singapore – Batavia.
N°8 : Hoa Kỳ - Manila - Hồng Kông- Macao – Hà Nội –Thái
Lan - Mianma - Ấn độ.
Tình trạng sân bay Hà Nội không cho phép thực hiện các
chuyến bay vận tải thương mại. Do vậy, chỉ có tuyến đường số 7 là được dự
trù hoạt động. Từ năm 1948, Air France có thêm tuyến Sài Gòn - Thượng Hải (2
chuyến/tuần), Sài Gòn - Hồng Kông (1 chuyến/tuần) và Hà Nội – Côn Minh (1
chuyến/tháng).
2. Kinh tế Ðông Dương năm 1949
2.1.Sản xuất nông nghiệp
a)
Trồng trọt.
Sản lượng gạo năm 1949 vào khoảng 2.400.000 tấn thóc,
nhiều hơn so với 2.200.000 tấn của năm trước đó. Các địa phương có gạo xuất
khẩu chủ yếu là ở miền Nam (MỹTho, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ,
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá). Do sự rớt giá của mặt hàng ngô trên thị
trường thế giới, sản xuất ngô chỉ dừng lại ở mức 30.000 tấn. Diện tích trồng
cao su là 45.800 hecta, giảm hơn một ít so với năm 1948. Sản lượng cao su
đạt 43.000 tấn (so với 43.700 tấn năm 1948).
b)
Chăn nuôi.
Trong tổng số đàn bò 1.500.000 con của toàn Ðông Dương,
miền Nam Việt Nam có 180.000 con, miền Bắc có 170.000 con. Về đàn lợn, miền
Nam Việt Nam có 400.000 con, miền Bắc có 750.000 con trên tổng số 1.900.000
con của Ðông Dương. Ðể sản xuất thịt, người ta đã giết mổ 40.000 con bò,
13.000 con trâu và 250.000 con lợn ở miền Nam Việt Nam, 16.000 con bò, 250
trâu và 92.000 lợn ở miền Bắc. Sản lượng sữa sản xuất ra ở Ðông Dương là
1.245.000 lít, 500.000 lít ở miền Nam và 120.000 lít ở miền Bắc Việt Nam.
c)
Lâm-Ngư nghiệp.
Sản lượng than củi giảm mạnh: 1.300 tấn trên toàn
Việt Nam, so với 4.500 tấn năm 1940. Về nghề cá, chúng tôi không thu thập
được những số liệu chính xác. Nhưng nhìn chung, sản lượng thuỷ sản đánh bắt
được thường không đủ cho nhu cầu tiêu dùng của Việt Nam. Năm 1949, Việt Nam
phải nhập khẩu của Campuchia 10.850 tấn (so với 4.000-5.000 tấn trước chiến
tranh thế giới thứ hai).
2.2. Sản xuất công nghiệp
Việt Nam sản xuất toàn bộ than ở Ðông Dương. Sản luợng
năm 1949 là 378.400 tấn (năm 1948 là 355.000 tấn, năm 1938 là 2.300.000
tấn). Sản lượng xi-măng là 153.000 tấn (so với 97.000 tấn năm 1948). Do có
sự cạnh tranh của các nước châu Phi trong việc cung cấp những sản phẩm dầu
và xà phòng với giá rất thấp (giảm hơn 20% so với các sản phẩm sản xuất tại
Ðông Dương), và do thị trường bên trong đã bảo hoà, sản xuất xà phòng gần
như chững lại (giảm từ 5.000 tấn xuống còn 800 tấn). Miền Nam Việt Nam và
Campuchia sản xuất tổng cộng 145.000 hl rượu, còn xa mới đạt đến mức
2.200.000 hl như trước chiến tranh. Sản lượng bia (sản xuất tập trung chủ
yếu ở Việt Nam) vào khoảng 268.000 hl. Công ty bông vải sợi Bắc kỳ dã đưa
vào hoạt động năm 1948 một nhà máy sợi và dệt ở Nam Ðịnh. Trong thời điểm
dó, họ đang phải đối phó với vấn đề thiếu nhân công. Cùng với nhà máy sợi
Hải Phòng, hàng năm, hai nhà máy này sản xuất đưọc khoảng 1.200 tấn sợi
bông.
2.3. Giao thông vận tải
Giao thông đường bộ và đường sắt vẫn còn chưa đủ đáp
ứng nhu cầu. Giao thông bằng đường hàng không đã có một bước tiến triển mới:
trong năm 1947 đã có 3.749 chuyến bay được thực hiện, năm 1948 tăng lên là
13.961 chuyến (trong đó có 688 chuyến bay quốc tế). Năm 1949, số hành khách
trên các tuyến đường bay quốc tế (chủ yếu là các tuyến Paris, Calcuta,
Bangkok, Singapore, Hongkong) là 10.289 hành khách đến và 12.656 hành khách
đi. Số hành khách của các tuyến bay nội địa cũng tăng lên đến 132.741 (so
với 103.983 năm 1948).
2.4. Thương mại quốc tế
Cán cân thương mại quốc tế có giá trị âm kể từ năm
1947. Năm 1949, giá trị nhập siêu là 2.785 triệu đồng. Trong 9 tháng đầu năm
1949, Ðông Dương nhập 19.000 tấn bột ngũ cốc, 12.700 tấn đường, 32.400 tấn
đồ uống, 12.150 tấn giấy, 8.000 tấn vải bông, 105.000 tấn dầu và các chiết
xuất từ dầu. Cả năm 1949, lượng hàng xuất khẩu của Ðông Dương bao gồm khoảng
135.000 tấn gạo (năm 1948 là 232.000 tấn, năm 1938 là 600.000 tấn), 27.500
tấn ngô (năm 1948 là 46.800 tấn) và 41.400 tấn (năm 1948 là 42.600 tấn).
2.5. Tiền tệ và tài chính tư nhân
Viện phát hành Ðông Dương, tuy đã được chính thức thành
lập theo văn bản pháp luật công bố ngày 25 tháng 9 năm 1948 nhưng vẫn chưa
thực sự đi vào hoạt động. Do vậy, việc phát hành tiền tệ vẫn do Ngân hàng
Ðông Dương đảm nhiệm. Lượng tiền tệ lưu thông, mặc dù đã tăng lên 9% trong
vòng 10 tháng đầu nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quay vòng của đời sống
kinh tế. Bước đầu, một số lượng khá lớn vốn đã được dùng để bù đắp sự thâm
hụt về thương mại. Nguy cơ phá giá của đồng bạc Ðông Dương đã thúc đẩy mạnh
những dòng tiền mặt chuyển về chính quốc. Các thương gia tìm kiếm biện pháp
nhanh nhất để chuyển tiền thành hàng hoá. Các cơ sở sản xuất thì tận dụng
triệt để nguồn vốn vay ngân hàng. Trên thị trường Sài Gòn - Chợ lớn, chỉ số
chung của giá buôn tăng 5% (so với 48% năm 1948). Giá gạo tăng từ 2,4 đồng
lên 2,9 đồng một kg. Chỉ số hàng tiêu dùng khác ổn định tại Sài Gòn và tại
Hà Nội, đối với tầng lớp bình dân. Còn đối với thị trường của những kiều dân
Âu châu và tầng lớp trung lưu, giá có hơi giảm nhẹ tại Hà Nội, ngược lại,
tốc độ lạm phát lại vượt quá mức 10% tại Sài Gòn. Nhưng nhìn chung, chỉ số
giá năm 1949 là tương đối ổn định. So với giai đoạn trước đó: 1938-1948, lạm
phát trung bình hàng năm là 39%, giá cả đã tăng gấp 26,5 lần từ 1939 đến năm
1948.
2.6. Nhân công, việc làm, lương
Mặc dù có thất nghiệp, trong một vài lĩnh vực kinh tế
vẫn xảy ra hiện tượng thiếu nhân công, nhất là những nhân công có tính
chuyên nghiệp (như ngành than ở miền Bắc, ngành cao su ở miền Nam Việt Nam).
Tiền lương trung bình một ngày vào khoảng 15 đồng ở khu vực Sài Gòn -Chợ Lớn
(so với 11,27 đồng năm 1948, 7,7 đồng năm 1947, 0,65 đồng n ăm 1938-1939).
Nếu so sánh mức độ tăng của tiền lương với mức độ gia tăng của chỉ số giá
trong giai đoạn 1939-1948, ta sẽ thấy hiện tượng giảm sức mua của đồng lương
(chỉ số chung của giá tăng gấp 26,5 lần trong khi lương chỉ tăng lên có 17,3
lần). Tiền lương bình quân của khu vực Hà Nội - Hải Phòng cao hơn (21 đồng
/ngày). Một nghị định ra ngày 22 tháng 2 năm 1949 đã ấn định một mức lương
tối thiểu, biến động trong khoảng từ 12 đến 24 đồng /ngày tuỳ theo từng
ngành. Mặt khác, mức lương tối thiểu của nhân công trong sản xuất nông
nghiệp cũng được xác định: không được thấp hơn 4,25 đồng đối với lao động
không chuyên và 5,25 đồng đối với công nhân khai thác cao su. Chúng ta cũng
thử làm một phép so sánh giữa đồng lương tại Ðông Dương và tại Pháp. Lấy khu
vực Hà Nội - Hải Phòng là nơi mức lương có cao hơn so với Sài Gòn, một tuần
làm việc 6 ngày thì mức lương tháng trung bình của năm 1949 sẽ là 8.568
francs. Trong khi đó, mức lương trung bình của người lao động tại Pháp là
18.221 francs/tháng.
3. Hội nghị liên quốc gia tổ chức Pau (29/6/1950) và
những hệ quả của nó
Những thoả thuận trong hội nghị Pau có liên quan đến
các nước Campuchia, Lào, Việt Nam và Pháp. Các văn bản đó đã được chính phủ
Bảo Ðại ký ngày 23/12/1950, Campuchia ký ngày 25/12/1950 và Lào ký ngày
26/12/1950.
Các thoả thuận trên quy định những gì?
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội: trước khi ký
những điều khoản thoả thuận này, nước Pháp điều hành nền kinh tế Ðông Dương
thông qua các tổ chức hành chính (sở ngoại thương, mỏ, công nghiệp, cấp
thoát nước và nghề rừng, nông nghiệp, ban thống kê...); viên Cao uỷ có một
quyền hành rất lớn trong việc điều chỉnh và can thiệp vào các hoạt động của
đời sống kinh tế. Với những thoả thuận của Hội nghị Pau, Pháp buộc phải dẹp
bỏ các tổ chức kinh tế nói trên và chuyển giao quyền hành cho 3 quốc gia
liên hiệp thuộc Khối liên hiệp Pháp. Thay vào đó, những tổ chức bốn bên được
lập ra để phối hợp chính sách kinh tế của 3 nhà nước. Các quyết định cơ bản
phải được sự nhất trí của tất cả các bên. Các đơn vị cấp quốc gia đầu tiên
được lập ra thuộc ngành bưu chính viễn thông và giáo dục. Nước Pháp cũng
chuyển giao cho 3 quốc gia Ðông Dương toàn bộ các dịch vụ vệ sinh và y tế
công cộng, kể cả những quyền hạn quốc tế trong lĩnh vực này.
Trong lĩnh vực tài chính: bước đầu, các quốc gia
Ðông Dương đã có một khoản ngân sách riêng. Họ cũng có quyền tăng biểu giá
thuế hoặc đặt ra những loại thuế mới. Tuy nhiên, khi một quyết định nào đó
có thể gây thiệt hại cho những thành viên khác, nó sẽ phải được đưa ra để
tham khảo trước ý kiến của các đại diện những quốc gia kia để bảo đảm sự
dung hoà giữa lợi ích chung của cả 4 quốc gia và quyền tự chủ của mỗi nền
kinh tế.
Ba nước Ðông Dương tạo đồng tiền riêng thông qua Viện
phát hành tiền tệ của các quốc gia Campuchia, Lào và Việt Nam. Nếu thiếu,
các nước này có thể sử dụng đồng bạc Ðông Dương là đơn vị tiền tệ được Viện
bảo lãnh bằng franc và trong trường hợp cần thiết, bằng vàng và ngoại tệ.
Viện pPhát hành có đại diện của mình tại 3 quốc gia Ðông Dương và tại Pháp.
Sự độc quyền phát hành tiền tệ của Ngân hàng Ðông Dương được chính thức
chuyển giao cho Viện vào ngày 31/12/1951. Các quốc gia Ðông Dương có các cơ
quan thuế quan riêng, nhưng cam kết sẽ thành lập ra một Liên hiệp thuế quan.
Sau đó, Viện này đã nhanh chóng biến chuyển theo chiếu
hướng chia rẽ. Các nước Ðông Dương áp dụng những chính sách kinh tế riêng rẽ
và có phần trái ngược với những ý tưởng của thoả ước Pau. Mặt khác, do bộ
máy tổ chức vừa phức tạp vừa không còn hợp thời nữa nên trên thực tế, khó có
thể áp dụng những công cụ quản lý để điều khiển được sự vận hành của tổ chức
này. Một cuộc hội thảo về kinh tế và thuế quan đã nhóm họp tại Paris vào
tháng 4-5 năm 1952 nhưng không đem lại kết quả gì. Do giá gạo gia tăng, từ
tháng 5/1952, Việt Nam và Campuchia đã quyết định cấm xuất khẩu loại ngũ cốc
này ra khỏi lãnh thổ. Ðiều này hoàn toàn mâu thuẫn với chủ trương trao đổi
mậu dịch tự do giữa các nước trong Liên hiệp thuế quan.
Hội nghị liên Chính phủ tại Sài Gòn, từ tháng 7 đến
tháng 9/1952 đã dẫn đến một thất bại nữa: không một chính sách nào về xuất
khẩu được chấp nhận, kể cả những vấn đề liên quan đến lợi ích chung. Mùa thu
năm 1952, Chính phủ Bảo Ðại đã quyết định không chia cho Lào và Campuchia
phần thu nhập mà trước đó họ vẫn được hưởng từ doanh thu hải quan hàng tháng
(tỷ lệ chia là: Việt Nam 71%, Campuchia 22%, Lào 7%). Hội nghị từ 12/1 đến
25/3 1953 một lần nữa nhấn mạnh sự bất đồng giữa 3 nước Ðông Dương trong
lĩnh vực ngoại thương và hải quan. Ngày 25/3, ngày cuối cùng của hội nghị,
Campuchia đã đề nghị xét lại một lần nữa, trước ngày 31/12/1953, tất cả các
điều khoản đã thoả thuận tại Pau. Ngày 28/4, Chính phủ Bảo Ðại tuyên bố muốn
xét lại trước ngày 31/12/1953 các mức thuế suất hải quan để có thể đối phó
với sự gia tăng các chi phí quân sự. Chính phủ Lào không đồng ý với cách
phân bổ nguồn ngân sách thu được qua thuế quan trong năm hoạt động đầu tiên,
1950-1951, của Liên hiệp tiền tệ. Trong thực tế, Liên hiệp này đã tan vỡ.
4. Hoàn cảnh kinh tế Ðông Dương giai đoạn 1952-1953
4.1 Sản xuất nông nghiệp
Sản lượng thóc của Ðông Dương năm 1952 ước tính vào
khoảng 5,5 triệu tấn. Trong đó bao gồm 3,5 triệu tấn của Việt Nam và 1,4
triệu tấn của Campuchia. Các tiến bộ về mặt kỹ thuật rất chậm. Tại Việt Nam,
vào thời điểm năm 1952 chỉ có 27 cơ sở chọn lọc giống hoạt động (trước chiến
tranh có 902 cơ sở). Năng suất cũng rất thấp, nếu tính ra gạo đã xay sát chỉ
có 0,7 tấn/hecta, so với 1 tấn ở Mianma và 3 tấn ở Nhật. Vì lý do phải chi
phí nhiều cho chiến tranh, khoản ngân sách dành cho phát triển sản xuất nông
nghiệp của Việt Nam chưa đến 1%. Một phần nhu cầu về trang thiết bị, giống
và phân bón được trang trải bằng các khoản viện trợ của Mỹ.
Năm 1952, sản lượng cao su (chỉ có ở Việt Nam và
Campuchia) đã đạt mức độ ngang với thời gian trước chiến tranh. Do có sự
tăng cầu trên thị trường quốc tế, tỷ trọng của ngành cao su trong tổng giá
trị hàng hoá xuất khẩu đã tăng từ 20% trước chiến tranh lên đến 35% sau
chiến tranh. Trong 2 năm 1952, 1953, con số này còn cao hơn cả phần thu nhập
từ xuất khẩu gạo.
Nghề nuôi cá nước ngọt ở Ðông Dương là ngành đứng thứ
3, sau sản xuất gạo và cao su. Lượng đánh cá hàng năm vào khoảng 410.000 tấn
(tập trung chủ yếu ở vùng Biển hồ của Campuchia). Tại vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng, người ta ước tính có thể thu được 50.000 tấn cá trên tổng
diện tích 1,1 triệu hecta ruộng. Tuy nhiên, có một điều đáng lo ngại là sản
lượng cá sẽ giảm đi trong tương lai do việc đánh bắt quá thường xuyên cộng
với sự phát triển các loại cây trồng.
Trong năm 1953, một nghị định đã được ban hành nhằm bảo
vệ lợi ích cho dân cày. Theo đó, mức tô mà tá điền phải nộp cho địa chủ được
giảm đi 50%, tức là nó được giới hạn tối đa ở mức 15% trên tổng sản lượng
thu hoạch. Trước đây thì thường tá điền vẫn phải nộp tô đến 50% tổng sản
lượng. Nghị định này cấm các địa chủ không được đòi nợ những người chậm nộp
tô.
Về vấn đề sở hữu ruộng đất ở vùng đồng bằng sông Hồng,
người ta thấy có nhiều loại chủ đất: 1.300.000 người sở hữu những mảnh ruộng
có diện tích dưới 3a, 212.000 người sở hữu trên 1 ha, 2.000 người có trên 20
hecta. Tổng cộng 973.000 hecta canh tác được chia cho 1.853.000 địa chủ. Ðặc
điểm này cũng được thể hiện ở vùng đồng bằng ven biển Trung bộ của Việt Nam
và những tỉnh miền Ðông - Nam bộ. Tại những vùng khác thuộc Nam bộ, theo một
thống kê được thực hiện năm 1950, có 257 địa chủ sở hữu trên 500 hecta và
tổng số sở hữu của họ là 280.00 hecta. Một cách cụ thể hơn, trong số 257 địa
chủ này, 185 người có từ 500 đến 1.000 ha, 53 người có từ 1.000 đến 2.000
ha, 15 người có từ 2.000 đến 4.000 ha và có 4 người sở hữu trên 4.000 ha
đất.
4.2 Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp của Campuchia và Việt Nam, nhất là
các ngành như than, điện, xi măng và khí đốt đã có sự tăng trưởng trong vòng
3 năm trước đó. Ở Việt Nam, việc lắp đặt các máy móc mới vào các hầm mỏ và
sự cải tiến điều kiện giao thông đã cho phép tăng sản lượng than khai thác
được từ 624.000 tấn năm 1951 lên 840.000 tấn năm 1953. Tuy nhiên, con số này
vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức 2,3 triệu tấn của năm 1938. Sản lượng xi
măng của Campuchia và Việt Nam năm 1953 đã vượt qua mức của thời kỳ trước
chiến tranh.
4.3 Các công trình công cộng và xây dựng
Các công trình công cộng mà 3 nước Ðông Dương tiến hành
với sự trợ giúp về kinh tế của Mỹ bao gồm chủ yếu là việc sửa sang và xây
dựng lại các tuyến đường và cầu có tính chất chiến lược, nạo vét các khu
vực cảng Sài Gòn và Phnom-Penh, xây dựng thêm một sân bay. Làn sóng những
người tị nạn đổ dồn vào các thành phố do chiến sự ở Việt Nam đã làm phát
sinh nhu cầu xây dựng những khu nhà ở bình dân. Chương trình xây dựng của
nhà nước Việt Nam, có sự trợ giúp của nước ngoài đã góp được 50 triệu đồng,
tương đương 500 triệu franc 1953 (sau sự phá giá của đồng bạc năm 1953- 10
franc của năm 1953 tương đương với 1 franc 1990).
4.4. Ngoại thương
Cán cân thương mại đã ngày càng tệ hơn kể từ năm 1947.
Biểu 3:
quyết toán cán cân thương mại
(triệu đồng)
1947 |
1948 |
1949 |
1950 |
1951 |
1952 |
-501 |
-1188 |
-2785 |
-2698 |
-3500 |
-6850 |
Xuất khẩu gạo, đặc biệt là của Việt Nam, đã giảm đi do
phải dự trữ sẵn để có thể bù vào những sự thiếu hụt của thị trường nội địa.
Trước chiến tranh, Pháp nhập của Ðông Dương 600.000 tấn mỗi năm. Sự giảm
khối lượng gạo nhập khẩu từ Ðông Dương trong thời gian này cũng chịu ảnh
hưởng một phần do gạo sản xuất tại Camargue (miền Nam nước Pháp) đã đủ đáp
ứng ba phần tư nhu cầu của nước Pháp. Ðông Dương chỉ xuất khẩu được 305.000
tấn năm 1951, 210.800 tấn năm 1952 và 221.100 tấn năm 1953, trong khi mức
xuất khẩu trung bình trong suốt thời kỳ 1934-1938 lá 1.344.700 tấn.
Xuất khẩu cao su trong vụ 1950-1951, về giá trị đã tăng
lên 60% trong khi về lượng hầu như vẫn giữ nguyên. Ngược lại, sang năm
1951-1952, mặc dù sản lượng xuất khẩu có tăng lên 10%, nhưng thu nhập từ
xuất khẩu vẫn giảm đi 30%. Có hai lý do cùng gây ảnh hưởng đến biến động
này: sự sụt giá của cao su và hiện tượng giảm cầu trên thị trường thế giới.
Một nghiên cứu chi tiết hơn về cán cân thương mại Ðông
Dương năm 1952 cho thấy:
- Sự mất cân bằng nghiêm trọng trong việc trao đổi hàng
hoá giữa 3 nước Ðông Dương và các nước còn lại trong Khối Liên hiệp Pháp đã
dẫn đến một khoản thâm hụt 5 tỷ đồng năm 1951, và gần 7 tỷ năm 1952. Pháp và
các nước thuộc địa của Pháp, trong năm 1952 đã cung cấp 82% giá trị hàng
nhập khẩu vào Ðông Dương (8 tỷ đồng) nhưng chỉ nhập có 39% giá trị hàng xuất
khẩu của Ðông Dương (khoảng 1 tỷ đồng).
- Cán cân xuất-nhập khẩu khả quan đối với các nước
ngoài khác (không kể viện trợ của Mỹ): có thặng dư thương mại với khu vực
sterling (247 triệu đồng) và khu vực đô la (165 triệu đồng).
- Cán cân thu-chi cân bằng nhờ những chi tiêu quân sự
cũng như dân sự của Pháp.
- Cán cân thu-chi của Ðông Dương năm 1952 (tính bằng
triệu đồng) có thể tóm tắt như sau:
Biểu 4: cán
cân thu-chi
(triệu đồng)
Chi |
|
Nhập khẩu |
8.820 |
Giao dịch, chuyển đổi tài chính (thu hồi lợi
tức, trả nợ, uỷ lĩnh...)
|
2.760 |
Ngân phiếu |
1.590 |
Thu hồi vốn đầu tư |
410 |
Dư có của của Viện phát hành tiền tệ |
590 |
Khác |
706 |
Thu |
|
Xuất khẩu |
2060 |
Giao dịch, chuyển đổi tài chính |
290 |
Các khoản chi tiêu của Chính phủ Pháp cho Ðông
Dương, bao gồm: |
11706 |
- Dân sự |
530 |
- Quốc phòng |
10296 |
- Viện trợ |
880 |
Ðầu tư và trang thiết bị dân sự |
820 |
Bảng trên cho thấy, các chi tiêu của nước Pháp, đạc
biệt là khoàn chi về quân sự, có thể bù đắp vào khoản thâm hụt của 3 nước
Ðông Dương.
4.5 Giao thông
a) Hàng không dân dụng:
Hãng Air Vietnam đã được chính
thức thành lập vào ngày 8/6/1951 với vốn điều lệ là 18 triệu đồng (306 triệu
franc, tức là bằng 18 triệu franc của năm 1990). Chính phủ Bảo Ðại đóng góp
50% (bao gồm 6 triệu bằng tiền, 3 máy bay DC3 và các linh kiện thay thế trị
giá 3 triệu đồng). Phần còn lại được phân bổ giữa Air France (33,5%), Hãng
vận tải hàng không Ðông Dương (SITA) (11%), Hãng vận tải biển (Messageries
maritimes) (4,5%), Hiệp hội hàng không vận tải (Union aeronautique des
transports) (0,5%), Aigle Azur Indochine (0,5%). Phần đóng góp của Air
France bao gồm một máy bay Bristol, các linh kiện thay thế, nhà và các vật
liệu khác. Và nếu như Air Vietnam cần thì Air France có thể đóng góp thêm
một chiếc DC3 nữa. SITA cũng đóng góp một chiếc Bristol, chiếc thứ hai thì
bán trả góp sau. Chủ tịch Hội đồng quản trị của Air Vietnam phải là một
người có quốc tịch Việt Nam, phó chủ tịch là một người Pháp. Việc bổ nhiệm
những người này phải được Hội đồng bộ trưởng của Chính phủ Bảo Ðại và đại
diện của Chính phủ Pháp ở Việt Nam thông qua.
b) Ðường sắt:
11 tuyến đường được khai thác là: một
phần tuyến Hà Nội - Sài Gòn, Hà Nội - Lao cai, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội -
Na Sầm, Hòn Gai - Hà Tu, Cẩm Phả - Mông Dương, Tháp Chàm - Ðà Lạt, Tân Ấp -
Xóm Cùi, Sài Gòn - Lộc Ninh, Sài Gòn - Mỹ Tho, Phnom-Penh - Aranya.
4.6 Sự phá giá của đồng bạc Ðông Dương
Ngày 10/5/1953, tỷ giá chính thức của đồng bạc Ðông
Dương đã giảm từ 17 xuống còn 10 franc. Mục tiêu của biện pháp này là gì?
Chúng ta có thể đưa ra một danh mục ngắn gọn là:
- cải thiện cán cân thương mại,
- giảm giá của các hàng hoá nhập khẩu vào Pháp từ Ðông
Dương, nhất là cao su,
- thúc đẩy nhữừng người có tiền đồng đầu tư ở Ðông
Dương ,
- loại trừ sự buôn bán tiền tệ ngoài chợ đen,
- giảm các chi phí quân sự của Pháp.
Thực tế diễn biến ra sao?
Ðiểm thứ nhất: về mặt kỹ thuật mà nói, người ta
có thể mong đợi một sự cải thiện cán cân thương mại nhờ vào một mức giá cạnh
tranh hơn trong xuất khẩu và sự hạn chế nhập khẩu do giá cả trở nên cao hơn.
Tuy nhiên, việc sút giảm xuất khẩu của Ðông Dương còn có một lý do khác nữa:
chiến tranh đã làm cản trở việc sản xuất và lưu thông. Vào thời điểm phá
giá, không có một kho hàng dự trữ nào ở cảng. Xuất khẩu cũng bị ách tắc vì
cung kém.
Ðiểm thứ hai: Mức giá áp dụng tại Pháp, cho sản
phẩm cao su, là giá của thị trường thế giới. Sự phá giá không làm cho nó
thay đổi được. Sự phá giá chỉ làm giảm trợ cấp của Pháp cho những ngưới
trồng cao su, vì giá mua từ những người trồng cao su cao hơn giá trên thị
trường thế giới.
Ðiểm thứ ba: Ta có thể thấy một hiện tượng ngược
hẳn lại. Thay vì đầu tư, những người giữ tiền đồng lại muốn đổi tiền của họ
ra tiền franc vì trước khi có biện pháp phá giá, một đồng Ðông Dương chỉ
bằng 7 đến 8,5 franc trên thị trường Hồng không. Họ sợ sẽ có một đợt phá giá
nữa.
Ðiểm thứ tư: dẹp bỏ việc buôn bán tiền tệ là một
trong những yếu tố quan trọng dẫn tới quyết định của Chính phủ Pháp. Buôn
bán tiền tệ được thể hiện qua việc đem vào Ðông Dương:
i) các ngoại tệ và vàng đã được mua với một tỷ giá cao
hơn tỷ giá chính thức.
i i) tiền đồng Ðông Dương thu được trên các thị trường
nước ngoài qua việc bán vàng và các ngoại tệ mạnh.
Một vài ví dụ: một đô la mua tại Paris là 400 franc
được bán lại tại Sài Gòn với giá 51 đồng. Như vậy tỷ giá quy đổi là 1 đồng
ăn 7,8 franc. Tuy nhiên, nếu đổi ra tiền franc theo tỷ giá chính thức thì 51
đồng trở thành 867 franc. Tương tự như vậy, 1 kg vàng mua ở Paris là 500.000
franc, đem bán tại Sài Gòn được 60.000 đồng (trong trường hợp này, 1 đồng ăn
8,3 franc), chuyển trở lại ra franc được 1.020.000 franc theo tỷ giá chính
thức.
Sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thực tế
không chỉ tạo điều kiện cho việc buôn lậu mà đồng thời cũng tạo những giao
dịch "trái phép" (hai hiện tượng này có liên quan với nhau: buôn lậu sẽ có
lợi nếu có thể chuyển tiền đồng sang franc theo tỷ giá chính thức). "Con
buôn" liên kết với một doanh nhân có môn bài, nhập sản phẩm ảo từ Pháp, hoặc
được cộng tác với một nhà xuất khẩu của Pháp chấp nhận khai tăng các hoá đơn
chứng từ của ông ta lên. Cũng có trường hợp sự chuyển tiền được thực hiện,
thông qua trung gian là một người có quyền chuyển nhưng lại không có nhu cầu
(ví dụ như công chức hay lính Pháp ở Ðông Dương: tiền lương của họ chỉ đủ để
tiêu tại chỗ, không có thừa để chuyển về Pháp, nhưng về nguyên tắc thì họ
vẫn có thể chuyển được, nếu có). Các khoản giao dịch này ước tính lên đến
100 tỷ franc chỉ riêng năm 1952. Có những nguồn tài liệu khác đưa ra con số
là 10 tỷ franc.
Sự phá giá không thể ngăn chặn được việc đầu cơ hay
buôn lậu, vốn là những trò chơi tài chính dựa vào sự rủi ro (có liên quan
đến chiến tranh) của việc giữ tiền đồng ở Ðông Dương.
Ðiểm thứ năm: Bộ Tài chính Pháp chờ đợi ở sự phá
giá này một khoản tiết kiệm ít nhất 30 tỷ franc cho chi phí quân sự của Pháp
ở Ðông Dương. Số tiền đó, trên thực tế là 10 tỷ franc, theo một báo cáo của
chính bộ này. Tuy nhiên, theo một tờ tạp chí kinh tế thì chỉ có 265 triệu
franc.
Những tác động của sự phá giá đến nền kinh tế Ðông
Dương
Với mức phá giá 41%, chỉ số giá bán buôn ở Sài Gòn, so
với năm 1952, chỉ tăng 25% do có sự rớt giá của thóc gạo (giảm 9% trong một
năm). Chỉ số giá các sản phẩm quốc nội khác tăng 35% vào cuối năm 1953. Ðối
với hàng nhập khẩu, giá tăng trung bình 50%. Tại Sài Gòn, chỉ số giá sinh
hoạt tăng 42% đối với tầng lớp trung lưu, 32% đối với tầng lớp thợ thuyền
(tầng lớp trung lưu tiêu thụ hàng nhập khẩu nhiều hơn, trong khi tầng lớp
bình dân chủ yếu dùng hàng sản xuất nội địa, là những hàng mà giá tăng không
nhiều, thậm chí có thứ còn giảm, như gạo). Tại Hà Nội, đối với lớp trung
lưu, giá tăng 18%, đối với thợ thuyền, giá tăng 17%. Ðối với ngoại kiều, chỉ
số giá tăng từ 30 đến 60% do sử dụng nhiều sản phẩm nhập khẩu.
5. Kế hoạch hiện đại hoá và trang bị cho Ðông Dương
Vấn đề đưa ra một kế hoạch tiến triển và định hướng cho
nền kinh tế Ðông Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai là hoàn toàn phù hợp
với một chính sách thực dân. Trên tinh thần đó, một bản kế hoạch phát triển
10 năm đã được phê chuẩn với một quyết định cấp bộ ngày 18/9/1948. Nội dung
của nó đề cập đến việc trang bị cho Ðông Dương, như đã được nêu ra trong một
bản báo cáo dài 16 trang từ năm 1945. Nguồn gốc của bản kế hoạch này còn xa
hơn nữa. Từ năm 1930, các chuyên gia và công chức của Pháp đã bắt đầu đặt
nền móng cho kế hoạch này, như lời ông Bourgoin (cố vấn về kế hoạch hoá của
Cao uỷ Pháp tại Ðông Dương) phát biểu tại Ðà Lạt vào tháng 11/1947. Mặt
khác, sự chiếm đóng của quân Nhật đã đem lại một vài ý tưởng cho kế hoạch
này: khi Ðông Dương bị chia làm nhiều phần, cách cai trị của người Nhật đã
chứng tỏ rằng với một chính sách kinh tế đóng, Đông Dương không thể tồn tại.
Chúng ta có thể tóm tắt các phương hướng của bản kế hoạch theo công thức
sau: Tái thiết - Hiện đại hoá - Sáng tạo.
Sự tái thiết, đặc biệt chú trọng đến cơ sở hạ
tầng đã bị phá hỏng bởi các bên tham chiến trong quá trình giải phóng Ðông
Dương.
Hiện đại hoá nền công nghiệp hiện hữu.
Còn sáng tạo ở đây có nghĩa là tạo ra những lĩnh
vực hoạt động, những đơn vị sản xuất kinh doanh mới, nhằm tận dụng nguồn lực
sẵn có, cả về vật chất lẫn nhân công, đồng thời làm tăng thêm tính độc lập
của nền kinh tế trong việc đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên,
bản kế hoạch này làm ta nhớ lại song đề chứa đựng trong kế hoạch Monnet:
"Hiện đại hoá hay suy tàn". Về mặt cấu trúc của tài liệu này, có 3 điểm đáng
lưu ý là: (1) sưu tập các nguồn lực sẵn có, (2) tập hợp các kiến nghị, các
mục tiêu và phương tiện thực hiện để nhằm sử dụng một cách tốt nhất các
nguốn lực này, (3) phân tích chi phí, tài chính và doanh thu tiềm năng.
Ðâu là những nguồn lực và làm thế nào để tập hợp
được như một công cụ của bản kế hoạch? Nền kinh tế Ðông Dương, vè cơ bản
là một nền nông nghiệp, lâm nghiệp và khai thác mỏ. Gần 3/4 tổng thu nhập
quốc dân là rút từ các ngành này. Cụ thể hơn, sản phẩm quan trọng nhất về
sản lượng cũng như về tầm quan trọng trong việc cung cấp lương thực là gạo,
với diện tích canh tác gần 5 triệu hecta độc canh và 300.000 hecta thâm
canh. Ðương nhiên, thóc là một yếu tố trọng tâm của kế hoạch. Nhưng bên cạnh
đó, các sản phẩm khác cũng được chú ý đến như ta thấy trong bảng sau:
Biểu 5: các
sản phẩm nông nghiệp
Sản
phẩm |
Khả
năng hiện tại (tấn) |
Mục
tiêu hướng tới (tấn) |
Tăng trưởng kế hoạch (%) |
thóc |
6.500.000 |
8.850.000 |
+36 |
cây lấy đường |
550.000 |
800.000 |
+45 |
đường mía |
70.000 |
150.000 |
+114 |
dầu dừa |
16.000 |
22.000 |
+37,5 |
dầu lạc |
6.000 |
12.000 |
+100 |
dầu thầu dầu |
1.300 |
5.000 |
+284 |
dầu trẩu |
900 |
10.000 |
+1011 |
bông gòn |
1.000 |
4.000 |
+300 |
vải bông |
3.000 |
6.000 |
+100 |
lụa |
100 |
400 |
+300 |
chè |
8.000 |
16.900 |
+111 |
thuốc lá |
13.000 |
17.000 |
+31 |
Những sự tăng trưởng mạnh đặt ra là nhằm vào 2 mục tiêu
chính. Một mặt, nhất là với sản phẩm gạo, tốc độ tăng trưởng sản xuất buộc
phải cao hơn sự gia tăng dân số thì mới cải thiện được mức sống của dân
chúng. Mặt khác, sự đa dạng hoá và phát triển các ngành trồng trọt phải phù
hợp với nhu cầu xuất khẩu để giải quyết các vấn đề về mặt tài chính.
Làm thế nào để đạt được các mục tiêu nói trên? Sự mở
rộng diện tích canh tác chỉ giải quyết được một phần của vấn đề. Người ta
phải tập trung vào cải thiện năng suất của các loại cây trồng. Trên thực tế,
trước thời điểm áp dụng kế hoạch, mức năng suất ở các nơi rất thấp (thấp hơn
3,5 lần so với Nhật bản). Ðể thực hiện công tác này, bản kế hoạch đã đề ra
phương hướng triển khai một ngành công nghiệp phân bón (chủ yếu đạm và lân).
Ngành này dựa trên cơ sở phát triển quy mô của công nghiệp hoá chất, với sản
lượng dự kiến được nêu trong bảng sau:
Biểu 6: sản
phẩm hoá chất
Sản phẩm |
Sản lượng mục tiêu (tấn) |
|
|
Phốt phát |
- Supe phốt phát |
- Axít phốt pho ric |
|
|
|
Xút |
- Cacbonat natri |
- Xút điện giải |
|
|
|
|
2.500 |
Lưu huỳnh
|
- Axít sunfuric |
|
26.250 |
Các mục tiêu trên dự kiến sẽ đạt được nhờ cải tiến nhà
máy sản xuất axít sunfuric Mai Khê ở Bắc bộ; đồng thời, cũng trong khu vực
đó, mở thêm những nhà máy mới: một sản xuất sunfat amôn, một sản xuất
cacbonat natri và một sản xuất phân bón từ quặng apatít (phôtphat canxi tự
nhiên) ở Lào Cai. Trên vịnh Cam Ranh, một nhà máy phải được xây dựng đồng
thời với các nhà máy clorat và supe photphat ở Drah.
Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp khác cũng được quan
tâm đến: ngành cơ khí để sửa chữa tàu thuỷ (trên toàn Ðông Dương), thiết bị
hàng không (tận dụng vị trí địa lý của Ðông Dương, giao điểm của nhiều đường
bay chính trong khu vực các nước Ðông-Nam Á), công nghiệp luyện kim. Nhưng
bản kế hoạch cũng chỉ ra những khó khăn trong một số ngành công nghiệp, ví
dụ như lượng than béo khai thác không đủ để đáp ứng cho công nghệ luyện cốc.
Việc phát triển ngành khai thác khoáng sản, phục vụ cho các công nghiệp nói
trên, sẽ được triển khai nhờ tăng sản xuất nội địa. Biểu sau đây cho thấy kế
hoạch tăng trưởng.
Biểu 7:
khai thác khoáng sản
Sản
phẩm |
Sản lượng hiện tại (tấn) |
Sản lượng mục tiêu (tấn) |
tăng trưởng kế hoạch (%) |
than
quặng sắt
thiếc
vonfram
kẽm
photphat
bô xít |
2.600.000
140.000
1.500
300
6.300
35.000 |
3.600.000
420.000
2.000
500
10.000
800.000
120.000 |
+38
+200
+33
+66
+59
+2.186 |
Ðể tăng sản lượng khai thác như vậy đòi hỏi phải có sự
hiện đại hoá quy trình khai thác và xử lý quặng.
Mặc dù vậy, xét về tổng thể, vấn đề công nghiệp hoá còn
phụ thuộc vào ngành sản xuất năng lượng (dồi dào và rẻ). Theo dự kiến của
bản kế hoạch thì lượng điện cần thiết sẽ phải có ít nhất là 714 triệu kwh.
Muốn vậy, cần phải có thêm 2 nhà máy điện: một ở miền Bắc (nơi tập trung hầu
hết các mỏ khoáng sản và theo như kế hoạch, sẽ là nơi tập trung đại đa số
các nhà máy), một ở Khrông Pha, sử dụng thác Ða Nhim để làm nhà máy thuỷ
điện. Việc lắp đặt này sẽ do Tập đoàn thuỷ điện Nam Ðông Dương thực hiện
bằng vốn đóng góp của Pháp và Ðông Dương. Mặt khác, công nghiệp hoá đòi hỏi
sự bổ sung nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Vì thế, bản kế hoạch cũng
đưa ra vấn đề cải thiện các dịch vụ y tế, vệ sinh, đồng thời phát triển giáo
dục. Việc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng cũng rất quan trọng: sửa chữa và làm
mới các hệ thống đường sá, cầu cảng đã bị hư hại do chiến tranh, cải tiến hệ
thống đường sắt, điện khí hoá một số tuyến đường chính và xây dựng thêm một
số cảng mới, nhất là ở khu vực Nam bộ.
Các chi phí, các khoản thu trước và cơ sở hạ tầng để
thực hiện toàn bộ dự án này là gì ? Các khoản chi dự tính trước bằng
triệu đồng của năm 1939 được phân bổ như sau:
Biểu 8: các
khoản chi dự tính trước
(triệu đồng
năm 1939)
Lĩnh vực |
Xây
dựng lại |
Hiện đại hoá |
Tổng cộng |
Cơ
cấu (%) |
Trang thiết bị công cộng Nông nghiệp
Mỏ
Năng lượng
Công nghiệp hoá
Thiết bị xã hội
|
473
91
51
12
125
5 |
976
706
91
162
311
195 |
1.449
797
142
174
436
200 |
45,4
24,9
4,4
5,4
13,6
6,3 |
Tổng cộng |
757 |
2.441 |
3.198 |
100 |
Ba nguồn tài chính chủ yếu của dự án này là: ngân sách
gần 1,5 tỷ đồng dành cho hiện đại hoá và 500 triệu đồng trợ cấp cho những cơ
sở công nghiệp đã có (để mở rộng hoạt động). Các quỹ tư nhân được Nhà nước
đảm bảo là 532 triệu đồng, còn 474 triệu đồng nữa thu được từ các nguồn vốn
tư nhân không được đảm bảo. Sự đóng góp của nước ngoài gần như không đáng
kể. Vai trò điều khiển và thực hiện kế hoạch là của Nhà nước, nhưng nó cũng
để cho các doanh nghiệp quyền tự do và khả năng sáng tạo tối đa. Ngoài ra,
nó cũng khai thác những kinh nghiệm của các chuyên gia về kỹ thuật và công
nghệ của Pháp. Tập đoàn nghiên cứu về tái xây dựng và trang bị kinh tế không
chỉ tiến hành các khảo cứu tại chỗ về sự phát triển của Ðông Dương, mà còn
khuyến khích hoặc khởi xướng các sáng kiến nhằm sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực vật chất đã có. 60% vốn của tập đoàn này là của Ðông Dương, phần
còn lại nằm trong tay các doanh nghiệp có tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá.
Bản kế hoạch đã có kết quả ra sao ? Kế hoạch
Ðông Dương bao gồm một sự phát triển đồng thời và phụ thuộc lẫn nhau của
miền Bắc và Nam Ðông Dương: ở miền bắc, vùng mỏ Bắc bộ phát triển ngành công
ngiệp nặng; miền Nam phát triển nông nghiệp, sử dụng phân bón của miền Bắc.
Từ năm 1949, Ðông Dương cũng đã đạt được một số tiến bộ khiêm tốn về kinh
tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.Tuy vậy, sự tăng trưởng đó không phải
là nhờ sử dụng phân bón mà chủ yếu là do mở rộng diện tích. Ðây chỉ là một
biện pháp có tính chất ngắn hạn, trong khi năng suất vẫn có chiều hướng sút
giảm.Bên cạnh đó, sản lượng khai thác khoáng sản cũng chẳng tăng mấy. Ngành
cơ khí cũng vậy. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu đội ngũ người lao động lành
nghề. Hơn nữa, kế hoạch bị quản lý chặt chẽ bởi chính quyền Pháp. Trong khi
đó, năm 1948, Hiệp định Vịnh Hạ long đã công nhận nền độc lập của Việt Nam.
Chắc chắn là, nền độc lập của một quốc gia không thể được thực hiện nếu
thiếu chủ quyền về kinh tế. Nếu hiệp định công nhận nền độc lập của các
nước Ðông Dương, nền độc lập này chỉ được phép thực hiện trong Liên hiệp
Ðông Dương. Do đó, kế hoạch công nghiệp hoá chỉ có thể đứng vững được nếu
liên minh ( về kinh tế và thuế quan) tồn tại, điều mà khó có thể thực hiện
được như chúng tôi đã nêu ra phần trên. Cũng như vậy, vào tháng 3/1949, nền
độc lập của Việt Nam, một lần nữa được phía Pháp công nhận, nhưng vẫn bị hạn
chế về mặt kinh tế và chính trị. Tình hình đó càng xô đẩy các bên tới chỗ
đối đầu về quân sự. Trong đó, Chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố phải "đẩy lui "
quân Pháp ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Một phần quan trọng của bản kế hoạch chỉ đề cập đến
việc xây dựng lại những công trình đã bị phá huỷ trong chiến tranh thế giới
mà không tính gì đến việc phá huỷ sau đó của Việt Minh. Hơn nữa, sự cải tạo
các cơ sở hạ tầng công cộng không thể tiến hành trong điều kiện không có an
ninh. Kế hoạch công nghiệp hoá với mục đích phát triển kinh tế đã mau chóng
biến thành các kế hoạch thiết lập đường giao thông chiến lược cho các hoạt
động quân sự. Kết quả là, kế hoạch tài chính dự kiến (chia làm 2 giai đoạn 5
năm) đã không bao giờ được thực hiện. Vì lý do chi cho quân sự, khoản dành
cho mua sắm các trang thiết bị trong ngân sách đã bị xoá bỏ năm 1950, chuyển
sang các nước trong Liên hiệp. Chiến tranh ở Ðông Dương đã làm tiêu tan mọi
kết quả của bản kế hoạch, và tình hình những năm đầu thập kỷ 50, trái ngược
hoàn toàn với những gì người ta dự kiến, còn tồi tệ hơn cả giai đoạn sau
chiến tranh thế giới. Ví dụ như, sản lượng thóc, đáng lẽ phải tăng 35% thì
đã giảm đi 46%. Cũng tương tự, sản lượng than năm 1954, so với năm 1939, đã
giảm đi 68%. Sản lượng điện, trọng tâm của bản kế hoạch, cũng không đạt được
mức 714 triệu kwh (con số đó chỉ là 100 triệu, với cả Việt Nam và Campuchia,
năm 1952). Như vậy, Ðông Dương để tuột mất cơ hội công nghiệp hoá nền kinh
tế, chủ yếu là vì những lý do quân sự. Tuy nhiên, cho dù bản kế hoạch đã có
thể được thực hiện, thì hiệu quả thực tế của nó cũng còn phải xem xét. Mục
tiêu của kế hoạch chỉ hướng tới một Ðông Dương với những cơ sở hạ tầng và
một nền công nghiệp nặng phù hợp với một nền kinh tế hiện đại. Nó không hề
đả động gì đến thủ công nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ khác. Nguồn tài
chính của một chiến lược phát triển như vậy là phải trông cậy vào nông
nghiệp và công nghiệp hoá chất thông qua con đường xuất khẩu. Nhưng không có
gì thực sự đảm bảo cho một sự khai thông đáng kể với bên ngoài.
6. Bảng tổng kết vắn tắt của giai đoạn 1940-1953
Chúng ta sẽ làm một phép so sánh những kết quả của năm
1952, 1953 với thời điểm trước chiến tranh.
Biểu 9: sản
xuất nông nghiệp
(nghìn
tấn)
|
1938 |
1942 |
1952 |
thóc
ngô
cao su |
7.000
650
60 |
6.280
418
71,8 |
4.393
102
61 |
Năm 1942, riêng Việt Nam sản xuất được 5,06 triệu tấn
thóc, 100.000 tấn ngô, 51.800 tấn cao su. Năm 1952, sản lượng thu hoạch của
Việt Nam là 2,49 triệu tấn thóc, 33.000 tấn ngô và 44.700 tấn cao su.
Biểu 10:
sản lượng than khai thác được ở Bắc bộ
(nghìn tấn)
1938 |
1945 |
1949 |
1951 |
1952 |
1953 |
1.640 |
188 |
352 |
586 |
759 |
783 |
Biểu 11:
cán cân thương mại
(triệu đồng
1953)
1946 |
1947 |
1950 |
1952 |
1.335 |
-1.290 |
-3.453 |
-6.850 |
Biểu 12:
đầu tư của Pháp vào Ðông Dương
(franc năm
1953)
1943 |
1.050 tỷ, trong đó 770 tỷ là của tư nhân |
1954 |
450 tỷ, trong dó 260 tỷ là của tư nhân |
Biểu 13: tỷ
giá của đồng bạc Ðông Dương so với đôla
|
12/1945 |
cuối
năm 1948 |
9/1949 |
1 đôla
đổi được |
7 đồng |
15,5
đồng |
20,6
đồng |
Biểu 14:
chi phí của chiến tranh
(tỷ franc
1953)
|
Pháp |
Việt Nam (Bảo Ðại) |
Mỹ |
1946
1950
1951
1952
1953
1954 |
108
241
292
334
285
142 |
4
16,7
34
35 60 |
40
70
103,5
119
275 |
Nên lưu ý, chi phí của Mỹ ở đây là chi viện trợ trực
tiếp bằng đôla. Nếu tính thêm viện trợ vũ khí, năm 1954, Mỹ đã chi cho chiến
tranh ở Đông Dương 488 tỷ franc 1953 (71% của tổng chi phí chiến tranh của
năm 1954. Theo một nguồn tài liệu khác, phần của Mỹ năm 1954 là 80%). Tổng
chi phí cho chiến tranh ở Việt Nam lên tới 3.370 tỷ franc, tính theo giá
1953, tức là khoảng 337 tỷ franc năm 1990.
Biểu 15: Số
dư tài chính dịch chuyển từ Ðông Dương vào Pháp
(tỷ franc)
|
1948 |
1949 |
1950 |
1952 |
- Theo
giá danh nghĩa |
44 |
90 |
115 |
145 |
- Theo
giá cố định năm 1953 |
68,6 |
126 |
115 |
145 |
Bảng trên cho thấy lượng tiền dịch chuyển ra khỏi Ðông
Dương ngày càng nhiều, có thể là vì lý do chiền tranh.
Chúng ta có thể tự hỏi rằng, liệu Ðông Dương, vào thời
điểm 1953, 1954 có còn đem lại những lợi ích kinh thế cho nước Pháp? Ðông
Dương, trong chiến tranh vẫn là một thị trường hấp dẫn đối với một số lĩnh
vực như len, bông, hoá dược phẩm, giấy, bìa, luyện kim, xe đạp, môtô, nước
giải khát, đồ hộp, bơ, đường... Trong quý 1 năm 1953, Ðông Dương đã nhập
khẩu 21% trong tổng số hàng hoá mà Pháp xuất sang các thuộc địa, tức là 8%
tổng giá trị xuất khẩu của Pháp. Một vài ngành có thể bị khủng hoảng nếu thị
trường Ðông Dương bị mất. Ðiều đó nói lên rằng những tác động về kinh tế có
thể đưa ra để biện bạch cho sự hiện diện của Pháp ở Ðông Dương. Nhưng thật
ra có đúng như vậy không? Ta hãy xem xét 3 lĩnh vực quan trọng nhất ở Ðông
Dương.
Trước năm 1940, sản lượng gạo xuất khẩu của Ðông
Dương lên đến 1,6 triệu tấn/năm, trong đó có từ 500.000 đến 800.000 tấn là
xuất cho Pháp và khoảng 150.000 tấn cho các thuộc địa khác của Pháp. Năm
1952, 1953, Đông Dương chỉ xuất khẩu khoảng 250.000 tấn gạo, bao gồm 50.000
tấn cho các thuộc địa Pháp và 4.000 tấn cho Pháp (do có vùng Camargue, miền
Nam nước Pháp).
Công ty khai thác than của Pháp ở Bắc kỳ, thành
lập năm 1890, vẫn duy trì được một phần hoạt động sau năm 1945 (với các mỏ
lộ thiên ờ Hòn Gai và Cẩm Phả). Tuy nhiên, sản lượng của năm 1945 cũng chỉ
bằng 11% so với năm 1938. Một bản đề án, soạn thảo năm 1948 về kế hoạch mở
rộng khai thác, hướng tới sản lượng 1 triệu tấn năm 1952 đã gặp phải nhiều
khó khăn về mặt tài chính. Công ty chỉ nhận được 19 triệu đồng tiền bồi
thường những thiệt hại do chiến tranh, so với khoản kê khai 150 triệu, dự
kiến sẽ dùng 135 triệu cho kế hoạch đầu tư nói trên. Cuối cùng, công ty cũng
trang bị được một số máy móc hiện đại của Mỹ nhờ có những khoản tạm ứng và
tiền vay ngân hàng. Dẫu sao, tầm quan trọng của ngành than Ðông Dương cũng
chỉ là tương đối. Cho dù Ðông Dương có làm ra được 1 triệu tấn hay không thì
cũng chớ nên quên rằng trong thời điểm ấy, Pháp đã khai thác 55 triệu
tấn/năm, rằng Ðông Dương chỉ xuất đi từ 5 đến 20% sản lượng khai thác mà
thôi.
Về cao su, trước chiến tranh, đầu tư vào lĩnh
vực này rất hấp dẫn. Trên 100.000 hecta cây cao su đã được trồng (77% ở miền
Nam Việt Nam, còn lại ở Campuchia). Phục hồi lại việc xuất khẩu cao su sang
Pháp, sau những biến cố năm 1945, nhất là trong điều kiện chiến tranh, hoàn
toàn không đơn giản. Ví dụ, không có sẵn công nhân lành nghề. "Chiến tranh
kinh tế " của Việt Minh (được khẳng định trong " Kinh tế Việt Nam 1945-1954
" chương 13, Hà Nội, 1967) không phải là không có tác dụng. Năm 1947, chỉ có
38% diện tích trồng cao su được khai thác. Do đó, sản lượng giảm đi một nửa
so với năm 1938. Hơn nữa, những biến động trên thị trường thế giới cũng
không thuận lợi cho Ðông Dương: cung cao hơn cầu. Năm 1950, sản lượng cao su
của thế giới đạt 1,85 triệu tấn trong khi mức tiêu thụ chỉ là 1,6 triệu. Vì
vậy, xu hướng chung là hạ giá. Cao su Ðông Ðương lại có chi phí sản xuất
cao, nhất là chi phí cho việc bảo vệ. Nó chỉ có thể được thương mại hoá tại
Pháp nếu như có sự trợ giá đối với người trồng. Năm 1949, các xưởng chế biến
của Pháp mua cao su của Ðông Dương với giá 136,7 franc/kg, nhưng thực ra
người trồng đã được trả tới 141,7 franc. Trong khi đó, trên thị trường
Singapore, một kilô cao su chỉ được bán với giá 120,3 franc.
Chúng ta cũng đã nêu ra ở trên là phần chi phí cho
chiến tranh năm 1954 lên đến 687 tỷ franc tính theo giá của năm 1953, tức là
bằng 4,5% GDP của Pháp (khoảng 15.100 tỷ franc giá 1953), tuy rằng phần của
Pháp chỉ là khoảng 21% (xấp xỉ 1%GDP năm 1953 của Pháp). Chi phí mà Pháp
dành cho chiến tranh đã không ngừng gia tăng và đã đạt đến con số 2.022 tỷ
franc tính theo franc 1953, tương đương với 17% giá trị GDP của Pháp năm
1953.
Ðồng thời cũng lưu ý rằng Kế hoạch hiện đại hoá và
trang bị cho Ðông Dương đã bị thất bại vì lý do tài chính, vì Chính phủ liên
hiệp Ðông Dương vốn có những mối bất đồng trong nội bộ, vì Việt Minh vẫn
tiến hành một cuộc chiến tranh du kích chống lại mọi toan tính về tái thiết
kinh tế ở Việt Nam.
Tóm lại, trên góc độ kinh tế, sự hiện diện của Pháp ở
Ðông Dương ngày càng tỏ ra là một vụ "làm ăn " không mấy hiệu quả, thậm chí
còn thua lỗ.
Vậy thì, vì cớ gì nước Pháp lại quay trở lại Ðông Dương
vào năm 1945, nếu như điều đó hoàn toàn không có lợi? Ðoạn viết dưới đây,
trích từ báo cáo " Ðông - Nam Á, mũi nhọn chiến lược của lục địa Á châu; vai
trò của Ðông Dương" (" Asie du Sud-Est, pivot stratégique du continent
asiatique, rôle de l'Indochine "), do Cao uỷ Pháp tại Ðông Dương soạn thảo,
tháng 1/1950, có thể làm sáng tỏ một vài ý: " Nước Pháp đã bị suy yếu sau
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Nó ở vị trí thứ yếu so với các thế lực
khác lúc bấy giờ đang mạnh ". Hành động quay trở lại của Pháp năm 1945 vượt
qua quyền lợi của người Pháp ở Ðông Dương." Vấn đề không phải là tìm hiểu
xem nó (các quyền lợi đó) đáng được bảo vệ hay không, mà là tìm hiểu xem uy
tín và quyền lực của nước Pháp, trên mọi lĩnh vực, trong nhiều thập kỷ, có
xứng đáng và có thể biện minh cho một sự cố gắng như thế " (" il ne s'agit
plus de savoir s'ils valent le prix que l'on met à les défendre, mais bien
de savoir si le prestige et l'autorité de la France toute entière dans tous
domaines, pour plusieurs dizaines d'années, mériterait et justifierait un
tel effort").
Charles-Henri Dimaria
(OECD), Lê Văn Cường (Trung tâm
quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp)
Tài liệu tham khảo
1. Hugues Tertrais : " Le coût de la guerre d'Indochine
1945 -1954 ", Luận án, Ðại học Paris 1, 1998.
2. Kinh tế Việt Nam 1945-1954, Hà Nội 1967.
3. Le mouvement économique en France 1949-1979, Séries
longues macroéconomiques, INSEE 1983
4. Annuaire rétrospectif de la France, séries longues,
1948-1988, INSEE 1990.
5. Jacques de Folin: "Indochine 1940-1955, la fin d'un
rêve". Perrin ed. Paris 1993.
Nhũng tài liệu sau đây nằm trong kho lưu trữ của bộ
ngoại giao Pháp.
6. L'évolution de l'économie indochinoise en 1949,
Notes et études documentaires, la Documentation française, 13
/06/1950.
7. Philippe Devillers: "La situation dans l'Union
française", Problèmes économiques, 1948.
8. Plan d'équipement industriel de l'Indochine, 3 /10/
1945.
9. "L'Asie du Sud-Est, pivot stratégique du continent
asiatique; rôle de l'Indochine ", Haut-Commissariat de France pour
l'Indochine, 01/1950.
10. " Situation actuelle des 3 Etats associés
d'Indochine telle qu'elle résulte de l'application des accords passés avec
la France", không có ghi ngày.
11. " La mise en valeur de l'Indochine française ",
Notes et Etudes documentaires, bộ Thông tin, 11/6/1945.
12. " La réforme agraire se réalise: l'abattement des
taux de fermage ", Revue Vietnam, N° 50, 2/05/1953.
13. "Action de la France en Indochine au point de vue
économique ", Direction générale des affaires politiques, 26/08/1944.
14. "Memorandum de la sous-commission de la
reconstruction des régions dévastées (14 février 1947, New York) ".
15. "Evolution de l'économie indochinoise en 1949 ",
Notes et Etudes documentaires, 13/06/1950.
16. "Note relative aux trafics ", Note de Monsieur
Salade au ministère des affaires étrangères, 10/06/1953.
17. "Compte rendu des opérations exercice 1953 ",
Institut d'émission des Etats du Cambodge, du Laos et du Vietnam.
18. "Procès verbal relatif à la constitution de la
société Air Vietnam ", Ministère des travaux publics, des transports et
du tourisme, service général à l'aviation civile, 1951.
19. "Etude sur la situation économique de l'Asie et
de l'ExtrêmêOrient en 1953 ", chapitre 2, Commission Economique pour l'Asie
et l'Extrême - Orient, 15/12/1953.
20. "Bref aperçu de l'économie indochinoise ",
30/01/1954.
21. Robert Morizot: "Note sur l'importance du marché
indochinois pour les industries cotonnières métropolitaine et coloniale et
pour l'artisanat", 29/01/1945.
Đã đăng ở
Thời Đại Mới