Mở
đầu: Vấn đề gì cần đặt ra?
1.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu
2.
Cơ cấu mậu dịch Việt Trung
3.
Vài hàm ý về mặt lý luận
Thay
lời kết: Con đường để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ
Mở đầu: Vấn đề gì cần đặt ra?
Với qui mô dân số và với tốc độ phát triển nhanh kéo dài hàng chục năm, kinh
tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trên nhiều phương diện.
Sự tác động đó lớn hay nhỏ, nhất thời hay làm ảnh hưởng sâu sắc đến con
đường phát triển của nước khác là tùy theo trình độ phát triển và cơ cấu
kinh tế của nước chịu tác động.
Tại Đông Á, Nhật và Hàn Quốc cũng bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác
động của hiện tượng nầy đến con đường phát triển của nước họ. Nhưng trình độ
phát triển của hai nước nầy cao hơn Trung Quốc nhiều, GDP đầu người còn lớn
hơn Trung Quốc 9-10 lần (Nhật) hoặc 5-6 lần (Hàn Quốc), về chất lượng thể
chế, tiềm năng khoa học, công nghệ của họ còn đi trước Trung Quốc nhiều chục
năm. Do đó, Nhật và Hàn Quốc ý thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc để vừa nỗ
lực hơn trong việc củng cố lợi thế hiện tại và lợi dụng cơ hội từ thị trường
Trung Quốc.
Cũng là nước lân cận với Trung Quốc nhưng vị thế của Việt Nam hoàn toàn
tương phản. Nhìn từ nhiều mặt, Việt Nam ở trình độ phát triên thấp hơn Trung
Quốc. GDP đầu người của Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc, chất
lượng giáo dục, trình độ phát triển khoa học, công nghệ cũng đi sau nước
nầy. Thêm vào đó, về qui mô, kinh tế Trung Quốc lớn áp đảo, tốc độ phát
triển cũng nhanh hơn Việt Nam. Từ nhận định nầy ai cũng thấy thách thức của
sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với con đường phát triển của Việt Nam là vô
cùng lớn. Việt Nam cần nghiên cứu sâu tác động của sự trỗi dậy của Trung
Quốc để có chiến lược, chính sách phát triển thích hợp.
Đây là một đề tài lớn. Bài viết nầy chỉ xoay quanh vấn đề phát triển công
nghiệp. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản
xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp đang và sẽ tác động như thế nào đến con
đường công nghiệp hóa của Việt Nam?
Dưới đây, sau khi điểm qua các đặc trưng trong sản xuất và xuất khẩu hàng
công nghiệp của Trung Quốc (Tiết 1), bài viết sẽ phân tích quan hệ ngoại
thương Việt Trung (Tiết 2) và nhìn từ một số lý thuyết về mậu dịch để rút ra
vài hàm ý đối với vấn đề công nghiệp hóa của ta (Tiết 3). Các phân tích nầy
sẽ cho thấy, cùng với trào lưu tự do mậu dịch ở Đông Á hiện nay, sự tác động
của Trung Quốc đối với kinh tế Việt Nam sẽ rất sâu sắc và có thể tạo ra nguy
cơ lâu dài. Cuối cùng, trong phần kết luận, bài viết sẽ đề cập đến một số
chiến lược, chính sách để Việt Nam có thể tránh được nguy cơ từ sự trỗi dậy
của Trung Quốc.
1.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công
nghiệp
Từ đầu thập niên 1980 đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình gần
10%. Kết quả là hiện nay nước nầy vươn lên vị trí thứ hai thế giới về GDP và
mậu dịch và có lượng dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới.
Từ góc độ quan tâm của bài viết nầy ta thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc có
một số đặc điểm sau: thứ nhất, đó là quá trình công nghiệp hóa tiến nhanh
trên quy mô lớn. Nhiều ngành trong công nghiệp chế biến, chế tác
(manufacturing) phát triển trên dưới 20% mỗi năm như đồ điện gia dụng, xe
hơi, máy tính cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều mặt hàng thuộc
các ngành này, Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới. Vì vậy
mà Trung Quốc được xem là công xưởng của thế giới.
Thứ hai, phát triển của Trung Quốc ngày càng dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu
ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong qúa trình công nghiệp hóa của nước nầy.
Tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP chỉ có 7 % vào năm 1980 nhưng đã tăng lên
33% năm 2008. Xuất khẩu của Trung Quốc hiện nay cũng hầu hết là hàng công
nghiệp. Vào những năm mới mở cửa, tỉ trọng của hàng công nghiệp trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc chưa tới 50% nhưng từ năm 2001 con số đó
đã lên trên 90%. Như vậy trong quá trình phát triển, Trung Quốc ngày càng
hướng ngoại và chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng hàng công nghiệp.
Thứ ba, phát triển của Trung Quốc còn có đặc tính là dựa nhiều vào đầu tư.
Trước năm 1992 tỉ lệ của đầu tư trên GDP vào khoảng 30% nhưng năm 2002 tăng
lên 40% và mấy năm gần đây lên tới 50%. Các tỉnh cạnh tranh đầu tư và sản
xuất hàng công nghiệp, gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa
làm kém hiệu suất của toàn nền kịnh tế. Nhưng đối với Việt nam và các nước
có nền kinh tế còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện tượng sản xuất thừa của Trung Quốc
là một trong những nguyên nhân chính làm tràn ngập hàng công nghiệp giá rẻ
vào thị trường các nước nầy.
Thứ tư, cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch lên cao.
Khuynh hướng nầy phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu. Biểu 1 chia các mặt
hàng thành 5 nhóm, trong đó 3 nhóm được chia theo 3 trình độ liên quan đến
kỹ năng (skill) của lao động. Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ càng cao
càng cần nhiều lao động có kỹ năng cao và do đó để sản xuất và xuất khẩu
được những mặt hàng này đòi hỏi nền giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học
phải cung cấp đủ nguồn nhân lực có trình độ tương ứng.
Biểu 1 cho thấy hiện nay (2008) có tới trên 30% kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao (high skill) như máy
tính, máy móc về viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v.. . Nếu kể cả nhóm hàng
dùng nhiều kỹ năng vừa phải (medium skill) như xe hơi, xe máy, đồ điện gia
dụng, kim khí, v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng nầy chiếm tới 50% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý là các mặt hàng có hàm
lượng kỹ năng thấp như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn còn
chiếm một tỉ trọng lớn. Tỉ trọng trong xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm
đáng kể trong hai lãnh vực nông sản và nguyên liệu. Điều nầy cho thấy các
loại hàng công nghiệp, từ trình độ thấp đến trình độ cao Trung Quốc đều hiện
diện trên thị trường thế giới với số lượng lớn.

Nhìn ở một khía cạnh khác,
sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải chỉ tạo ra thách thức đối với khu vực
Á châu và thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh không phải chỉ nhập khẩu tài
nguyên, năng lượng mà còn trở thành một thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp
nhập khẩu từ nước ngoài. Như Biểu 2 cho thấy, từ năm 1990 đến 2008, nhập
khẩu của Trung Quốc tăng 18 lần. Trong 983 tỉ USD nhập khẩu năm 2008, hàng
công nghiệp chiếm trên 60%, đặc biệt riêng các loại máy móc chiếm khoảng
40%. Từ cùng nguồn tư liệu như trong Biểu 2, ta tính thử tỉ trọng của các
loại máy móc trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc thì thấy con số đó là
47.5%. Nhìn từ hàm lượng kỹ năng trong hàng xuất khẩu, Biểu 1 cũng cho thấy
khuynh hướng tương tự. Máy móc là các loại sản phẩm có nhiều bộ phận, linh
kiện, công đoạn nên trong nội bộ mỗi ngành, các công ty đa quốc gia (MNCs)
triển khai phân công lao động trên qui mô toàn cầu, hình thành các chuỗi
cung ứng (supply chain).[1]
Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút đầu tư
nước ngoài (FDI) tập trung trong các ngành chế tạo các loại máy móc từ trung
cấp (như đồ điện gia dụng) đến cao cấp (như máy tính, máy chụp hình kỹ thuật
số) làm thành các cụm công nghiệp ở các tỉnh ven biển, nhất là ở tam giác
sông Châu Giang tỉnh Quảng Đông. Qua đó, Trung Quốc tham gia mạnh mẽ vào
chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu các mặt hàng thuộc nội
bộ các ngành nầy, Hiện nay có hơn 50% kim ngạch xuất và nhập khẩu của Trung
Quốc do MNCs thực hiện, nhất là MNCs có gốc Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan.

Phân tích ở trên cho thấy
Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô lớn và triển khai
hầu như toàn diện trong các lãnh vực, từ sản phẩm có hàm lượng công nghệ
thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao; đồng thời
Trung Quốc triển khai phân công hàng ngang (horizontal trade), phân công nội
ngành (intra-industry trade) với các nước khác trong các mặt hàng chế tạo
các loại máy móc, là những lãnh vực chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay.
Với tính chất nầy, các nước phát triển ở trình độ cao hơn Trung Quốc như
Nhật, Hàn Quốc, hoặc các nước đã thành công trong việc tham gia chuỗi cung
ứng toàn cầu (như Malayssia, Thái Lan,…) có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang
Trung Quốc những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao hoặc trung bình. Nhưng
đối với các nước ở trình độ phát triển thấp hơn, sự trỗi dậy của Trung Quốc
là một thách thức lớn vì vừa bị Trung Quốc cạnh tranh mạnh trong những mặt
hàng có hàm lượng kỹ năng thấp nhưng lại chưa có năng lực triển khai phân
công hàng ngang với Trung Quốc trong những nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng
trung và cao cấp.
2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm
khoảng 60% nhưng chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm
vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm
trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng
lao động cao, chỉ chiếm độ 10% tổng xuất khẩu. Trở lại Biểu 1, so sánh cơ
cấu xuất khẩu của Việt Nam với Trung Quốc ta thấy Việt Nam còn phụ thuộc
nhiều vào nông sản, nguyên liệu, và trong các sản phẩm công nghiệp thì Việt
Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc trong những mặt hàng dùng công nghệ thấp
và dùng nhiều lao động kỹ năng thấp. Tỉ trọng các mặt hàng đòi hỏi lao động
có kỹ năng cao chỉ bằng Trung Quốc vào năm 1990.
Riêng mậu dịch với Trung Quốc, cơ cấu của Việt Nam còn yếu hơn nữa.
Mậu dịch hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Từ
năm 2000 đến năm 2009, đối với Trung Quốc, nhập khẩu của Việt Nam tăng 11
lần nhưng xuất khẩu chỉ tăng 5 lần. Từ năm 2003 Trung Quốc vượt Nhật trở
thành nước có thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và sau đó
ngày càng bỏ xa Nhật Bản. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam
đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Năm 2009, riêng nhập siêu vơi Trung
Quốc (11,5 tỉ USD) chiếm tới 90% tổng nhập siêu của Việt Nam.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy
nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Theo Biểu 3 (Biểu nầy dựa
trên thống kê nhập khẩu của Trung Quốc), 7 mặt hàng (SITC 3 con số)
[2]xuất
khẩu sang Trung Quốc có kim ngạch cao nhất (năm 2007) đều nằm trong 2 nhóm
nguyên liệu và nông phẩm. Riêng than đá đã chiếm gần 30%. Hàng công nghiệp
chỉ chiếm 12% (năm 2007). Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm
qua. Các loại máy móc (và linh kiện) dùng cho văn phòng, cho công nghệ thông
tin, cho điện lực,… gần đây bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc do kết quả của
chiến lược triển khai chuỗi cung ứng của các công ty Nhật như Canon,
Sumiden, Hitachi (các công ty nầy đầu tư vào miền Bắc Việt Nam để bổ sung
vào mạng lưới sản xuất của họ ở vùng Hoa Nam Trung Quốc). Tuy nhiên, những
sản phẩm nầy mới chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc.

Nhìn sang cơ cấu
nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc ta thấy hàng công nghiệp chiếm vị trí
áp đảo (chiếm tới 75% vào năm 2007). Tất cả 20 mặt hàng có kim ngạch nhập
khẩu nhiều nhất đều là hàng công nghiệp (Biểu 4).
Các loại hàng nầy có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là
nguyên vật liệu hoặc sản phẩm trung gian như thép để chế biến thành
phẩm tiêu dùng, hai là các loại máy móc (và bộ phận, linh kiện) như xe hơi,
khí cụ dùng cho bưu chính viễn thông, và nhóm thứ ba là các loại sản phẩm
trung gian ngành dệt may như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,… Điều
nầy cho thấy nền công nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào sản
phẩm trung gian nhập từ Trung Quốc. Nếu xét đến quá trình
phát triển kinh tế, Việt Nam lẽ ra phải có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực
vải sợi (trừ loại sợi cao cấp chủng loại đặc biệt như tơ sợi tổng hợp). Tuy
nhiên trên thực tế, các sản phẩm như vải dệt may hay dệt kim hầu hết Việt
Nam phải nhập từ Trung Quốc.Trong vài ngành nằm trong dây chuyền cung ứng
toàn cầu của các công ty đa quốc gia (các loại máy dùng cho văn phòng như
máy tính xách tay, máy in, …) Việt Nam có xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng
kim ngạch còn rất nhỏ.

Mậu dịch ở biên giới qua 3 cửa khẩu chính cũng mang tính
chất tương tự. Tại cửa khẩu Lào-Cai-Hà Khẩu (Vân Nam), Việt Nam xuất khẩu
nông lâm thủy sản và nhập phân bón, thuốc trừ sâu, v.v.. Lạng Sơn-Bằng Tường
(Quảng Tây) là cửa khẩu chuyên nhập các loại máy móc, thiết bị từ Trung Quốc
vào Việt Nam. Tại của khẩu Mông Cái-Đông Hưng (Quảng Tây) Việt Nam xuất khẩu
than và nhập hàng công nghiệp tiêu dùng.
Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như phân tích ở trên đã hình
thành từ những năm 1990 và hiện nay cơ cấu nầy vẫn như cũ. Từ năm
2002 tôi đã gọi đây là cơ cấu mậu dịch có tính Nam Bắc,
nghĩa là cơ cấu giữa nước chậm phát triển và nước tiên tiến.[3]
Với cơ cấu nầy, khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN Trung
Quốc (ACFTA) được thực thi hoàn toàn thì áp lực của Trung Quốc đối với Việt
Nam còn mạnh hơn nữa. ACFTA ký kết vào tháng 11 năm 2002 và có hiệu
lực từ tháng 7 năm 2005 (thuế suất bắt đầu cắt giảm). Đối với các thành viên
mới trong khối ASEAN như Việt Nam, thời hạn hoàn thành thời khóa biểu cắt
giảm thuế đối với hàng nhập từ Trung Quốc là đầu năm 2015, nghĩa là chỉ còn
hơn 4 năm nữa, chỉ trừ một số mặt hàng nằm trong danh mục nhạy cảm, tất cả
hàng công nghiệp nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ không bị đánh
thuế. Thêm vào đó, thuế suất của phần lớn những mặt hàng trong danh mục nhạy
cảm cũng sẽ phải giảm xuống dưới 5% trước năm 2020. Đặc biệt so với thuế
suất hiện hành mà Việt Nam áp dụng đối với hàng nhập từ các nước thành viên
WTO, thuế suất cắt giảm đối với hàng nhập từ Trung Quốc theo khuôn khổ ACFTA
sẽ rất lớn đối với hàng công nghiệp trong các lãnh vực như tơ sợi và vải,
các loại hóa chất, đồ điện gia dụng và sản phẩm phụ trợ, xe hơi và sản phẩm
phụ trợ.[4]
Như đã thấy ở trên, đây là những mặt hàng mà Việt Nam hiện nay nhập khẩu
nhiều từ Trung Quốc dù thuế suất cao. Do đó, khi ACFTA hoàn thành những mặt
hàng nầy sẽ tràn sang Việt Nam nhiều hơn nữa.
3. Vài hàm ý về mặt lý luận
Thử bàn thêm về quan hệ kinh tế Việt Trung nhìn từ một số lý thuyết về
mậu dịch để thấy rõ hơn những vấn đề của Việt Nam.
Trước hết là mô hình về lực dẫn (gravity model). Theo mô hình nầy,
mậu dịch giữa hai nước tùy thuộc vào lực dẫn của nước nầy đối với nước kia.
Lực dẫn lớn hay nhỏ tùy theo quy mô thị trường (đo bằng GDP) và khoảng cách
địa lý giữa hai nước. Khoảng cách địa lý càng nhỏ thì phí tổn chuyển chở
hàng hóa và các dịch vụ như bảo hiểm càng thấp và thông tin về thị trường
cũng dễ thu thập. GDP lớn và tăng nhanh cũng tăng sức mua đối với hàng hóa
của nước ngoài.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nền kinh tế phát triển với tốc độ cao hoặc
tương đối cao, lại ở cạnh nhau nên hội đủ cấc yếu tố thuận lợi trong mô hình
về lực dẫn. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc là nền kinh tế lớn và phát
triển nhanh. Thế nhưng như đã phân tích trong Tiết 1 và 2, Việt Nam không
tận dụng được thế mạnh nầy, chỉ xuất khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế trong
khi các nước khác đẩy mạnh được xuất khẩu hàng công nghiệp sang nước nầy.
Nguyên nhân chỉ có thể được giải thích bằng năng lực cung cấp yếu và hạn chế
của phía Việt Nam. Mô hình về lực dẫn chỉ chú ý đến mặt cầu. Cần phải phân
tích mặt cung nữa.
Lý luận thứ hai liên quan đến điều kiện giao dịch (terms of trade),
tức là quan hệ tương đối giữa giá hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Từ giữa
thập niên 1950, các nhà nghiên cứu về kinh tế phát triển hầu như thống nhất
nhận định cho rằng điều kiện giao dịch của các nước xuất khẩu nông phẩm và
nguyên liệu tức sản phẩm khai thác từ tài nguyên luôn bất lợi vì nhu cầu của
các sản phẩm nầy tăng ít, giá cả lại biến động, trong khi đó nhu cầu và giá
cả của hàng công nghiệp luôn tăng nhanh vì có đàn tính thu nhập cao (thu
nhập của người dân càng tăng thì nhu cầu về các mặt hàng ấy càng tăng, tăng
hơn cả thu nhập). Do đó, điều kiện giao dịch của các nước sản xuất và xuất
khẩu sản phẩm khai thác từ tài nguyên sẽ càng bất lợi và các nước nầy càng
tăng xuất khẩu càng giảm sức mua. Nhận định nầy đã trở thành cơ sở cho chủ
trương là các nước xuất khẩu tài nguyên phải công nghiệp hóa thì kinh tế mới
phát triển.
Về quan hệ mậu dịch Việt Trung, Việt Nam cũng xuất khẩu nguyên liệu, nông
sản. Theo ý kiến chính thống trong lý luận về kinh tế phát triển thì Việt
Nam bất lợi trong điều kiện giao dịch với Trung Quốc. Tuy nhiên, có ý kiến
ngược lại cho rằng kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với quy mô lớn nên
nhu cầu về nguyên liệu luôn tăng, do đó các nước xuất khẩu nguyên liệu có
lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cụ thể là điều kiện giao dịch với Trung
Quốc chẳng những không bất lợi mà ngược lại.[5]
Điểm nầy cần được kiểm chứng. Rất tiếc người viết bài nầy chưa có điều kiện
về thì giờ cho việc kiểm chứng nầy nhưng có thể suy đoán là điều kiện giao
dịch của Việt Nam không bất lợi vì các lý do sau:
Thứ nhất, giá cả trên thì trường thế giới về những mặt hàng chủ yếu mà Việt
Nam xuất sang Trung Quốc trong 10 năm qua có khuynh hướng tăng, đặc biệt,
như Hình 1 cho thấy, các mặt hàng nguyên liệu, năng lượng như than đá, dầu
thô từ khoảng năm 2002 đến năm 2008 đã tăng gấp 3-4 lần. Tình trạng săn lùng
tài nguyên của Trung Quốc trên khắp châu Phi, châu Á và Nam Mỹ cho thấy nhu
cầu của nước nầy rất cao và ngày càng tăng.
Hình 1 Biến động giá trên thị trường thế giới của một số nguyên liệu

Tư liệu: Datastream.
Thứ hai, các mặt hàng công nghiệp Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam giá
thường rẻ. Trên thế giới Trung Quốc còn bị phê phán là bán phá giá. Tại Việt
Nam hàng Trung Quốc cũng nổi tiếng giá rẻ. Như đã nói đến ở Tiết 1, các tỉnh
ở Trung Quốc cạnh tranh nhau trong đầu tư sản xuất gây ra vấn đề sản xuất
thừa.
Tuy nhiên dù cho điều kiện giao dịch đang theo chiều hướng thuận lợi, một
nước đông dân như Việt Nam không thể phát triển dựa trên khai thác và xuất
khẩu tài nguyên. Không kể khả năng tài nguyên sẽ cạn kiệt, mô hình phát
triển nầy sẽ không kích thích, không khuyến khích việc xây dựng nguồn nhân
lực có tri thức, có kỹ năng cao, những điều kiện cần để có một nền kinh tế
phát triển bền vững. Thu nhập qua việc khai thác tài nguyên cũng thường được
phân phối giữa những người thuộc tầng lớp lãnh đạo hoặc quan chức và doanh
nghiệp liên hệ. Đây là hiện tượng liên quan đến giả thuyết về lời nguyền của
tài nguyên (resource curse) đã được phân tích nhiều cả về lý luận và thực
chứng.[6]
Vấn đề ở đây là dù biết xuất khẩu tài nguyên là bất lợi trên đường phát
triển nhưng với quy mô sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp quá lớn, và
nhu cầu tiêu thụ tài nguyên với quy mô lớn và đang tăng mạnh của Trung Quốc,
thách thức đối với Việt Nam là rất lớn. Thêm vào đó, trong quan hệ mậu dich
Việt Trung, còn một điểm nữa về mặt lý luận cũng đáng quan tâm. Đó là ảnh
hưởng của trào lưu mậu dịch tự do hiện nay.
Ở Đông Á hiện nay, Hiệp định tự do mậu dịch (FTA) và Hiệp định hợp tác kinh
tế (EPA) đang trở thành trào lưu chính trong quan hệ kinh tế giữa các nước.
Mục tiêu chính của các hiệp định là cắt giảm hoặc bãi bỏ các hàng rào quan
thuế và phi quan thuế, đẩy mạnh phân công lao động, tăng mậu dịch và đầu
tư. Đối với các nước thành viên, do thị trường mở rộng, và do các yếu tố
sản xuất như lao động, tư bản dịch chuyển nhanh sang các ngành có lợi thế so
sánh, kinh tế phát triển nhanh hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong các
hiệp định tự do mậu dịch mà trình độ phát triển giữa các nước thành viên quá
khác biệt, cơ hội và thách thức đối với các nước sẽ không giống nhau. Đối
với các nước còn ở trình độ phát triển thấp, thách thức lớn hơn cơ hội nếu
không nỗ lực nhanh chóng hình thành và thực hiện các chiến lược, chính sách
phát triển thích hợp trước khi hiệp định được thực thi hoàn toàn. Khác với
kinh nghiệm của những nước đã phát triển (như Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan,
v.v..), các nước đang phát triển ngày nay không đủ thời gian để bảo hộ các
ngành công nghiệp còn non trẻ, ít thời gian để chuẩn bị chuyển dịch sang một
lợi thế so sánh mới. Do đó, trong khi chưa có các chính sách, chiến lược
hiệu quả, trong khuôn khổ của FTA hoặc EPA, hàng công nghiệp từ các nươc
phát triển trước sẽ tràn ngập vào các nước phát triển sau. Trong quá trình
hội nhập, lợi thế so sánh hiện tại của các nước đi sau có khả năng sẽ bị
cố định hóa. Tôi đã có dịp bàn vấn đề nầy chi tiết hơn trên Thời Đại mới
(TV Thọ 2006) và đưa ra thuật ngữ Cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do
trên Thời báo kinh tế Saigon để nói về thách thức mà Việt Nam phải
trực diện trên đường hội nhập (TV Thọ 2007).
Đối với Việt Nam, ảnh hưởng của Hiệp định mậu dịch ASEAN Trung Quốc (ACFTA)
là đáng lo ngại. Như đã phân tích ở Tiết 2, chỉ còn hơn 3 năm nữa thì hiệp
định nầy sẽ được thực hiện hoàn toàn giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiệp định
nầy sẽ làm cho tác động từ sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với Việt Nam càng
mạnh mẽ hơn. Cơ cấu về lợi thế so sánh của Việt Nam sẽ bị cố định hóa, nghĩa
là cơ cấu xuất nhập khẩu hiện tại (các Biểu 1, 3 và 4) của Việt Nam có nguy
cơ sẽ kéo dài nhiều năm trong tương lai. Việt Nam có nguy cơ sẽ trở thành
thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp của Trung Quốc và cung cấp tài nguyên
và các sản phẩm nông lâm, ngư nghiệp cho nước nầy.
Thay lời kết: Con đường để Việt Nam thoát ra khỏi nguy cơ
Phân tích trên đây cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây tác động
lớn, đang trở thành trở lực lớn trên con đường công nghiệp hóa của Việt Nam.
Mặt khác, nhìn tình trạng và chính sách kinh tế, chính sách giáo dục của
Việt Nam hiện nay, ta không thể không bi quan. Nếu lãnh đạo hiện nay không ý
thức đầy đủ thách thức nầy và khẩn trương đưa ra các chiến lược, chính sách
thích hợp và dốc toàn lực thực hiện các biện pháp liên hệ thì nguy cơ đến từ
dòng thác công nghiệp Trung Quốc cộng với cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự
do chắc chắn sẽ xảy ra.
Đâu là con đường để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ nầy? Đề tài nầy sẽ được bàn
đến trong một dịp khác. Bài viết nầy chỉ có chủ đích phân tích hiện trạng để
thấy rõ hơn bản chất của sự trỗi dậy của Trung Quốc và xét xem sự trỗi dậy
đó ảnh hưởng như thế nào đến con đường phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên,
để kết thúc bài viết, ta thử nêu vài điểm liên quan đến chiến lược, chính
sách của Việt Nam nhằm đối phó với nguy cơ nầy.
Thứ nhất, trước mắt và trong trung hạn (độ 3 năm), cần có ngay các chính
sách tăng sức cạnh tranh quốc tế của những mặt hàng đang có lợi thế so sánh
(nhóm hàng có hàm lượng kỹ năng thấp trong Biểu 1) và chuẩn bị tham gia mạnh
mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng trung
bình. Chính sách nầy gồm rất nhiều bộ phận. Một là phải tạo điều kiện khai
thông thị trường vốn, thị trường lao động để doanh nghiệp tiếp cận được đến
các yếu tố sản xuất (hiện nay có tình trạng khu công nghiệp thiếu lao động
trong khi lao động dư thừa ở nông thôn; doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
nhỏ và vừa không có vốn để đầu tư thay đổi công nghệ). Chính sách hạ tầng xã
hội liên quan đến đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất cũng phải được quan tâm. Hai là phải cải thiện ngay các điều kiện về hạ
tầng, ưu tiên cung cấp điện cho sản xuất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng
giao thông liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Ba là phải cải
thiện các khâu liên quan thủ tục hành chánh ở bến cảng, ở khu công nghiệp và
những nơi có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Những vấn đề nầy có thể thực hiện được ngay. Nhưng vấn đề là lãnh đạo phải
có quyết tâm và quan chức liên hệ phải có năng lực và tinh thần trách nhiệm.
Thứ hai, trong dài hạn phải có chiến lược chuẩn bị điều kiện để chuyển dịch
cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, tham gia được vào sự phân công hàng ngang
với Trung Quốc và các nước khác ở Đông Á trong những mặt hàng có hàm lượng
kỹ năng cao. Có hai điểm quan trọng liên quan đến chiến lược nầy. Một là
triệt để cải cách giáo dục và đầu tư thích đáng cho giáo dục và nghiên cứu
khoa học, công nghệ để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp như đã nói. Hai là có chiến lược chọn lựa,
thu hút dòng đầu tư nước ngoài (FDI) có chất lượng cao để nhanh chóng tham
gia vào mạng lưới phân công lao động trong các ngành có hàm lượng công nghệ
cao, đòi hỏi kỹ năng lao động cao. Nếu không có các chính sách nầy, Việt Nam
sẽ không bao giờ theo kịp Trung Quốc và sẽ sa vào một cái bẫy khác, cái bẫy
của nước thu nhập trung bình.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đang và sẽ tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam.
Tránh được nguy cơ nầy hay không tùy thuộc vào bản lãnh, quyết tâm của lãnh
đạo và quan chức Việt Nam.
Tư liệu có trích dẫn
Ando,
Michiyo (2006), Fragmentation and Vertical Intra-Industry Trade in East
Asia, North American Journal of Economics and Finance, 17, Issue 3
(December), pp. 257-281.
Athukorala, Prema-chandra (2009), The Rise of China and East Asian Export
Performance: Is the Crowding –Out Fear Warranted? , The World Economy,
32-2, pp. 234-266.
Coxhead,
Ian (2007), A New Resource Curse? Impacts of China’s Boom on Comparative
Advantage and Resource Dependence in Southeast Asia, World Development,
Vol. 35 No. 7, pp. 1099-1119.
Coxhead,
Ian and Sisira Jayasuriya (2009), China, India and the Commodity Boom:
Economic and Environmental Implications for Low-Income Countries, The
World Economy, pp. 1-27.
Kimura
Fukunari and Michiyo Ando (2005), Two-Dimensional Fragmentation in East
Asia: Conceptual Framework and Empirics, International Review of
Economics and Finance, 14, Issue 3, pp. 317-348.
Kwan, C.
Hung (2010), China As Number One, Toyo Keizai Shinpo-sha, Tokyo.
Trần Văn
Thọ (2002), Tính chất bắc-Nam trong quan hệ kinh tế Việt Trung, Thời báo
kinh tế Saigon, số báo Tết Nhâm Ngọ, pp. 17-18.
Trần Văn
Thọ (2006), Cộng đồng kinh tế Đông Á nhìn từ các nước đi sau, Thời đại
mới số 8 (tháng 7). .
Trần Văn
Thọ (2007), Việt Nam trước cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do, Thời báo
kinh tế Saigon (31/12/2007)
Trần Văn
Thọ (2009), Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt Trung,
Diễn Dàn (Tết Kỷ Sửu), bổ sung và đăng lại ở Tuanvietnam
(Vietnamnet) ngày 6/1/2010.
Tran Van
Tho & Kunichika Matsumoto (2010), Chugoku to Betonamu no Boueki no Jittai
(Thực thể ngoại thương Việt Trung), Ch. 2 trong Viện nghiên cứu Việt Nam
(2010), Chíến lược, chính sách nâng cao sức cạnh tranh quốc tế
của công nghiệp Việt Nam trước sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc, Đại
học Waseda, Tokyo.
Chú thích
[1]
Hiện tượng nầy gần đây được phân tích bằng lý luận về sự phân khúc
hoặc phân đoạn (fragmentation theory). Xem, chẳng hạn Kimura and
Ando (2005), Ando (2006). Từ góc độ nầy, phân tích của Athukorala
(2008) cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đẩy mạnh phân công nội
ngành với các nước Á châu khác.
[2] SITC:
Mã số tiêu chuẩn phân loại của thống kê Liên Hiệp Quốc.
[3] Xem
Trần Văn Thọ (2002). Vấn đề nầy được phân tích trở lại trong Trần
Văn Thọ (2009).
[4] Theo
kết quả tính toán trong Tran & Matsumoto (2010).
[5] Điển
hình cho ý kiến nầy là Kwan (2010). Ông ta cho rằng trong quá trình
trỗi dậy của TQ những nước có vai trò bổ sung (xuất khẩu nguyên
liệu) thì được lợi và những nước ở vị trí cạnh tranh (cùng xuất khẩu
hang công nghiệp như TQ) thì bất lợi.
[6] Về vấn
đề nầy, tư liệu khá nhiều. Riêng bàn về ảnh hưởng của Trung Quốc đến
các nước Đông Nam Á, xem, chẳng hạn, Coxhead (2007).