Những bài cùng tác giả
Kính dâng Tổ
quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long
Nguyễn Trung
(Như tên gọi của nó, bài viết này chỉ
tập trung nêu lên những vấn đề chính Việt Nam sẽ phải đối mặt, phải giải
quyết trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ này. Với suy nghĩ cho rằng làm rõ
được những vấn đề đặt ra là việc phải làm trước khi suy nghĩ về các giải
pháp. Vì vậy bài viết này không đề cập tới, mà xin dành việc bàn về các giải
pháp cho các dịp khác. Với tất cả tinh thần trách nhiệm của mình, người viết
bài này đưa ra cách nhìn riêng về một số vấn đề, để ai quan tâm thì tham
khảo. Hiểu biết và điều kiện làm việc rất giới hạn, nên những ý kiến trong
bài chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong được bổ khuyết.)
Vấn đề đặt ra
Việt Nam, kể từ 1986, sau một phần tư thế kỷ thực hiện sự thay đổi căn bản
mang tên là đổi mới, đã kết thúc thời kỳ phát triển theo chiều
rộng với nhiều thành tựu to lớn có tính bước ngoặt, thay đổi bộ mặt đất nước
và được thế giới ghi nhận. Cần nhận định dứt khoát như vậy để rỡ bỏ mọi rào
cản, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Cần nhận định dứt khoát như vậy
trước khi tìm hiểu những vấn đề đặt ra cho Việt Nam phía trước trên con
đường phát triển của mình.
Mặt khác cũng phải tỉnh táo nhận thấy, so ta với chính ta trước kia, những
thành tựu đạt được trong 25 năm qua là rất to lớn; nhưng nếu so với chặng
đường 25 năm đầu tiên trên con đường trở thành NIC (nước mới công nghiệp
hóa) của Hàn Quốc, Đài Loan.., nước ta phát triển như thế là chậm, so với
những thách thức hiện tại và phía trước nước ta phải đối mặt lại càng chậm.
Nên có cái nhìn nhiều chiều như vậy để định liệu công việc của mình, và nhờ
đó có thể “đỡ” rơi vào cái bệnh “mẹ hát con khen hay”!
Việt Nam bước vào thập kỷ 2020 đúng vào lúc kinh tế thế giới – trước hết là
những nền kinh tế lớn mà đầu tầu là kinh tế Mỹ - đang tìm cách ra khỏi cuộc
khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để tìm đường chuyển sang một thời kỳ
phát triển mới. Trong khi đó Trung Quốc đang dấn bước vào thập kỷ 2020 với
mọi nỗ lực quyết liệt nhất để đi nhanh hơn nữa trên con đường trở thành siêu
cường vào giữa thế kỷ này; giới nghiên cứu trên thế giới hầu như chia sẻ
nhận định chung: Thập kỷ 2010 đánh dấu bước ngoặt mang tính thời đại của
Trung Quốc trên con đường đi tới siêu cường, thập kỷ 2020 hiện tượng Trung
Quốc sẽ còn nóng bỏng hơn nữa trên trường quốc tế.
Như vậy, thập kỷ 2020 đến với Việt Nam với ba đặc điểm:
(1) thế giới đang tìm đường ra khỏi
cuộc khủng hoảng hiện nay, trên thực tế là đang phải tìm đường chuyển sang
một thời kỳ phát triển mới khác trước,
(2) hiện tượng Trung Quốc trên con
đường trở thành siêu cường ngày càng trở nên nóng bỏng trên trường quốc tế -
nhất là tại khu vực, và
(3) Việt Nam vừa phải thích nghi với
bối cảnh thế giới mới rất quyết liệt so với trước, đồng thời vừa phải tự
mình tìm đường chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn để có thể đứng
vững trong tình hình mới.
3 đặc điểm của thập kỷ 2020 vừa trình bầy trên đặt ra cho Việt Nam nhiều
thách thức mới, tới mức có thể nói:
Kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước ngày 30
Tháng Tư năm 1975, do đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc tế mới, chưa bao
giờ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và tương lai phát triển
của đất nước phải đối phó với nhiều thử thách nguy hiểm và quyết liệt như
ngày nay. Cụ thể là con đường phát triển của đất nước ta đang đặt ra nhiều
đòi hỏi gắt gao, đồng thời cục diện quốc tế và khu vực đang đi vào một bước
ngoặt đặt nước ta trước nhiều thách thức mới. Tất cả tạo nên sức ép căng
thẳng bên ngoài và bên trong, đòi hỏi cả nước phải dấn lên đối mặt.
Chỉ cần nhìn vào bức tranh thế giới, bản đồ địa chính trị hiện thời của khu
vực nước ta với một Trung Quốc đầy tham vọng, và nhìn vào các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội, vào các vấn đề an ninh quốc phòng, vào những đòi hỏi
của phát triển và cạnh tranh.., sẽ thấy rõ những điều vừa trình bầy. Tính
chất quyết liệt của chặng đường nước ta phải đi trong thập kỷ 2011-2020 là:
Làm chủ được tình hình này sẽ tạo ra thời cơ lớn cho tương lai của đất nước,
thất bại trong xử lý tình hình này, đất nước đi vào con đường đầy hiểm họa.
“Cách đây đúng 151 năm, năm 1858, thực dân Bồ Đào Nha và thực dân Pháp
nã súng đánh thành Đà Nẵng, dẫn đến 80 năm mất nước, dân tộc ta phải
chịu ách nô lệ. Nguyên nhân chủ yếu không phải vì dân tộc ta và triều
Nguyễn hồi đó yêu nước kém ngày nay, chiến đâu kém dũng cảm hơn ngày
nay! Muôn ngàn lần không phải như vậy! Song mất nước có thể coi như là
tất yếu, bởi lẽ nước ta so với kẻ địch tụt hậu hẳn một giai đoạn phát
triển. Ngày nay, kinh tế nước ta nếu tiếp tục đi sâu vào cơ cấu các sản
phẩm thượng nguồn như đang làm bô-xít, sớm muộn sẽ rơi vào nguy cơ thành
bãi thải công nghiêp. Đồng thời nước ta đang phải đối phó với 3 nguy cơ
khác nữa; đó là: sự o ép từ bên ngoài, sự xâm lăng về văn hóa, sự
tàn phá của môi trường tự nhiên do không được bảo vệ thỏa đáng. Cả 4
nguy cơ này có thể dấn nước ta vào một tình trạng tụt hậu nguy hiểm, đến
lúc nào đó có thể sẽ tạo ra cho nước ta một sự nô dịch mới – sự nô dịch
của nghèo nàn và lạc hậu, của lệ thuộc, sự nô dịch không có chủ nghĩa
thực dân. Đừng để cho việc khai thác bô-xít góp phần làm tăng thêm những
nguy cơ này.”
Nguyễn Trung,
tham luận tại hội thảo 09-4-2009 về bô-xít Tây Nguyên, do Phó thủ tướng
Hoàng Trung Hải chủ trì. |
Dưới đây xin trình bầy một số vấn đề chính có liên quan.
I. Những nét mới nổi bật trong bối cảnh quốc tế liên quan mật thiết đến
nước ta
(trong phạm vi bài này không bàn rộng ra những vấn đề khác)
Cục
diện thế giới đang có thay đổi lớn cả về kinh tế và chính trị, không náo
nhiệt như khi chiến tranh lạnh kết thúc, song hầu như tác động sâu sắc hơn
nhiều đến mọi quốc gia. Thậm chí tại nhiều nước – kể cả Mỹ - cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới hiện nay tác động trực tiếp đến từng gia đình.
Cuộc đại khủng khoảng kinh tế thế giới đang diễn ra là vô tiền khoáng hậu.
Sau một năm ròng rã (09-2008 tới 09-2009) đánh vật với cuộc khủng hoảng này,
các nền kinh tế lớn đã phải bỏ ra tổng cộng ước khoảng trên 10 nghìn tỷ USD
(tương đương với 2/3 GDP của cả nước Mỹ và với 1/6 GDP toàn thế giới), đồng
thời phải tiến hành nhiều liệu pháp đau đớn mang tính điều chỉnh vỹ mô và hệ
thống để cứu chữa. Hiện nay cuộc khủng hoảng này được xem là đã chạm đáy;
nhưng lối ra có lẽ sẽ phải mất nhiều năm, hiện vẫn chưa xác định được; nguy
cơ lại xảy ra khủng hoảng mới ngấp nghé.
Chưa ai dám nói bao giờ và như thế nào kinh tế thế giới sẽ phục hồi và lấy
lại được sự phát triển năng động đã có như trong một hai thập kỷ vừa qua.
Tuy nhiên, có khá nhiều người trong giới nghiên cứu chia sẻ ý kiến:
1.
kinh tế thế giới hiện
nay
vừa phải khắc phục sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bong của hệ thống
tài chính tiền tệ thế giới, đồng thời về nhiều mặt đang phải đối phó với một
cuộc khủng hoảng thừa rất sâu sắc có những thuộc tính cơ cấu,
còn nhiều vấn đề nan giải chưa lường hết được; một khi kinh tế thế giới
ra khỏi cuộc khủng hoảng này, có lẽ nó sẽ không thể giữ nguyên cấu trúc và
sự vận hành như trước nữa – nói cụ thể hơn: trong và sau cuộc khủng hoảng
này của kinh tế thế giới, các quốc gia sẽ không thể giữ nguyên cách làm ăn
như lâu nay (kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc),
2.
cơ cấu sản phẩm trong
mỗi quốc gia sẽ dần dần có những thay đổi lớn theo hướng quan tâm hơn nữa
đến sự bền vững của thị trường nội địa mỗi nước và của môi trường, nghĩa là
sẽ xuất hiện những điều chỉnh vỹ mô.
3.
hệ thống tài chính
tiền tệ thế giới đang có những xáo trộn lớn, buộc phải cải tổ cơ bản để hạn
chế những rủi ro - đặc biệt là trên 2 vấn đề: (1)sự suy yếu ngày càng nhanh
chóng của đồng USD và (2)vai trò đang nổi lên đầy tính lũng đoạn của đồng
Nhân dân tệ (Trung Quốc);
4.
phải tăng cường hơn
nữa vai trò điều tiết của nhà nước để hỗ trợ “bàn tay vô hình” của thị
trường; khung khổ WTO tuy vẫn được duy trì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cọ
sát mới gay gắt hơn,
5.
phải sớm có các chính
sách và biện pháp thân thiện hơn với môi trường tự nhiên để giảm thiểu các
đại họa, tại nhiều nước đã phải hướng mạnh tới nền kinh tế có hàm lượng
carbon thấp...
6.
phải thay đổi nhiều
điều quan trọng trong tư duy kinh tế; một số học giả nổi tiếng như Krugman,
Stiglitz, Fukuyama, thượng nghị sỹ Max Baucus... cho là kinh tế học hiện đại
có nhiều điểm lỗi thời.
6 điểm nêu trên cho thấy kinh tế thế giới hiện nay đi vào thời kỳ khủng
hoảng sâu sắc mang tính hệ thống với những dấu hiệu chuyển sang một thời kỳ
phát triển khác.
Trong khi đó cục diện quốc tế có hai hiện tượng nổi bật nhất kết thúc thời
kỳ hậu chiến tranh lạnh:
(a)
sự suy yếu nhanh chóng
của siêu cường Mỹ,
và
(b)
vai trò ngày càng nổi
lên của các cường quốc khác – trước hết là Trung Quốc, rồi đến
Nga, Ấn Độ.
*
Về Mỹ: Chiến tranh Iraq và chiến tranh chống khủng bố -
trước hết là chống Al-Qeada - Taliban – không đem lại kết quả như Mỹ đề ra,
thậm chí chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm, cùng với tình trạng từ năm 2008
Mỹ lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề nhất trong lịch sử quốc gia này, đã
dẫn tới Mỹ phải điều chỉnh căn bản chiến lược toàn cầu của mình. Mức độ điều
chỉnh gay cấn đến nỗi Singapore cho rằng Mỹ đang tạo ra khoảng trống cho
Trung Quốc hoành hành ở châu Á.
Để hiểu rõ thực
trạng kinh tế Mỹ trong khủng hoảng hiện nay, xin trích dẫn phân tích sau
đây của Francis Fukuyama:
“ ...Chỉ
riêng từ
năm
2001
đến năm 2008, (trước đó không tính) hơn 5 nghìn tỷ USD tiền tiết kiệm của
nước ngoài đã đổ vào nền kinh tế giầu nhất thế giới – nước Mỹ, thúc đẩy
một cao trào đi vay và kích thích quá mạnh chi tiêu của các hộ gia đình
cũng như các tập đoàn. Mức độ nợ liên tục gia tăng và ở mức rất cao: khi
xảy ra suy thoái đầu thập kỷ 1980 tổng nợ tư nhân (hộ gia đình và các tập
đoàn, công ty) mới chỉ là 123% GDP, nhưng đã vọt lên 290% GDP năm 2008.
Trong khoảng thời gian này, riêng nợ của các hộ gia đình là 48% GDP đầu
thập kỷ 1980 đã vọt lên tới 100% GDP vào năm 2008. Vì vậy mọi cố gắng của
Quỹ dự trữ Liên bang (FED) tung tiền ra để tăng thêm khả năng thanh toán
của nước Mỹ chẳng còn mấy hiệu quả. Các hộ gia đình và các tập đoàn lâm
vào tình trạng suy sụp kéo dài hơn các thời kỳ suy thoái trước. Người Mỹ
bắt đầu phải học để trở thành người tiết kiệm, nhất thiết phải như vậy.
Nhưng việc tỉnh táo quay trở lại với nghịch lý nổi tiếng của Keynes về sự
tằn tiện lại gây ra cho nước Mỹ bệnh thiếu máu!..” – xem trong:
Thinking About the Future of American
Capitalism
Francis Fukuyama
http://www.the-american-interest.com/contd/ |
Sự điều chỉnh này của Mỹ thực chất là sự thoái lui một bước quan trọng có
tính bắt buộc trong chiến lược toàn cầu so với thời George W. Bush, nguyên
nhân chủ yếu là lực bất tòng tâm. Mỹ hiện nay vẫn còn là siêu cường số 1,
song vai trò và ảnh hưởng của nó giảm sút đáng kể so với thời kỳ hậu chiến
tranh lạnh.
Hiện tượng Obama thắng cử không đơn thuần chỉ là một thắng lợi độc nhất vô
nhị cho đến nay của thể chế dân chủ Mỹ và trên thế giới. Sâu xa hơn thế,
hiện tượng Obama nói lên tầm vóc điều chỉnh chiến lược chưa từng có kể từ
sau chiến tranh thế giới II mà Mỹ phải chấp nhận.
Điều đáng chú ý là so với tất cả mọi thời kỳ khác kể từ chiến tranh thế giới
II kết thúc, siêu cường Mỹ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh chiếm vị thế
quốc tế cao nhất trong toàn bộ lịch sử của nó. Song chính trong thế thượng
phong này của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, siêu cường Mỹ đã chịu nhiều thất
bại và tổn thất nhất, đã sa sút nhanh nhất so với tất cả các thời kỳ trước
đó kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Nguyên nhân chủ yếu là “tham
vọng và gánh nặng đế chế” quá lớn cùng với sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa
tân tự do trong kinh tế. Sự thoái lui này diễn ra trong bối cảnh
Trung Quốc phát triển “rất nóng” trên con đường trở thành siêu cường, vì thế
trên thế giới đang manh nha những biến động chao đảo của quá trình hình
thành một trật tự mới, nhiều quốc gia sẽ chịu tác động – trong đó có nước
ta. Tình hình quyết liệt tới mức chưa bao giờ sách báo và các
phương tiện truyền thông Mỹ lại đày rãy như hiện nay các nhận định, đánh giá
nói về Hiện tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trở thành chủ
nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới hạn của
quyền lực Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của Washington đang hủy
hoại nước Mỹ, về Triển vọng chẳng lấy gì làm sáng sủa của
Obamanomics, về Sự cáo chung của đế chế Mỹ, vân vân, -
và về …Thế giới trong thập kỷ tới này nghiêng về phương Đông!..
Hiện tượng Obama cũng đồng thời cho thấy Mỹ quyết tâm thay đổi và có lẽ có
thể thay đổi được – chính điều này cho phép Mỹ sẽ còn tiếp tục duy trì được
– dù không còn mạnh như trước - vị trí siêu cường số 1 trên bàn cờ của một
thế giới đang tiến vào cục diện một siêu đa cường. Sự điều chỉnh của Obama
trong kinh tế thông qua các luật pháp mới và gói kích thích (stimulus) thực
chất là một cuộc xắp xếp lại và điều chỉnh lại nền kinh tế. Rất nhiều khó
khăn còn ở phía trước, và tiếng nói trong nước Mỹ chỉ trích cái gọi là
Obamanomics không phải là ít. Đơn giản là cuộc cải cách nào cũng
đau đớn; bởi vì trong phạm vi nguồn lực có hạn xóa sổ ai, cứu ai đều vấp
phải cọ sát gay gắt. Hiện tượng Obama đánh dấu một thời kỳ thay đổi sâu sắc
đang diễn ra sôi động ở tất cả các nước phát triển trong thế giới phương Tây
– mới đây nhất là sự kiện ngày 30-08-2009 thủ tướng Yukio Hatoyama
đảng Dân Chủ ở Nhật thắng cử và lên cầm quyền, chấm dứt thời kỳ đảng Dân chủ
Tự do ngự trị chính quyền Nhật hơn nửa thế kỷ!
Nét nổi bật của điều chỉnh chiến lược toàn cầu của nước Mỹ Obama là: Mỹ
quyết rút khỏi Iraq để tập trung vào các vấn đề như mặt trận chống Al-Qaeda
– Taliban tại Afghanistan, vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, vấn đề vũ khí
hạt nhân của Bắc Triều Tiên... Ngày 17-9-2009 Mỹ đi thêm một nước cờ chiến
lược nữa là quyết định rút bỏ kế hoạch lá chắn tên lửa Châu Âu
để tăng thêm hòa hoãn với Nga (đã được Nga hưởng ứng) và tập trung cố gắng
tìm kiếm các khả năng xử lý vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran. Bước đi này còn
nhằm phân hóa bớt các thế lực gây sức ép khác đối với Mỹ. Quan hệ Mỹ - Nga
ấm hẳn lên cho thấy tầm vóc của quyết định 17-09-2009. Khả năng nâng quan hệ
với Nga để tranh thủ thêm điều kiện đối phó với Iran đang được Mỹ tính đến.
Những cải cách trong đối nội của nước Mỹ đang diễn racàng làm rõ những thay đổi trong chiến lược đối ngoại của nước này.
Có thể
nói cải cách, thay đổi theo cái mới là việc diễn ra thường xuyên và liên
tục năm này qua năm khác ở các nước phương Tây. Tuy nhiên những thay đổi
qua cuộc khủng hoảng này thực sự là một đợt cải cách sâu rộng. Đặc biệt
tại Mỹ, công việc điều chỉnh vỹ mô hiện nay có lẽ quyết liệt hơn các cường
quốc phương Tây khác, được bắt đầu từ cải cách giáo dục, đổi mới việc đào
tạo nguồn nhân lực, đặt lại cách nhìn về “outsourcing” (lấy nguồn từ bên
ngoài) và cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế Mỹ trong tình hình mới (nhất
là trước tình hình sản phẩm Trung Quốc ngày càng thôn tính thị trường Mỹ),
cải cách mạnh mẽ các thể chế về tài chính, bảo hiểm y tế, về điều hành
kinh tế, v... v... Nói chung là không thể phó thác cho “laissez faire” với
bất kỳ giá nào của “chủ nghĩa tân tự do” như đã diễn ra trong mấy thập kỷ
vừa qua. Việc Mỹ ngày 11-9-2009 quyết định áp mức thuế 35% (mức cũ là 4%)
đối với lốp xe hơi nhập từ Trung Quốc, không đơn thuần chỉ là một hành
động “trả miếng”, mà còn liên quan mật thiết đến việc xem lại chủ trương
“outsourcing” (lấy nguồn lực từ bên ngoài) hiện nay. Tóm lại, có thể nói:
Nội dung cơ bản nhất của điều chỉnh vỹ mô ở Mỹ hiện nay là chia tay với
trạng thái cực đoan vừa qua của chủ nghĩa tân tự do, hướng mạnh hơn vào
nền kinh tế carbon thấp, tăng cường vai trò kinh tế trong thị trường nội
địa. Vì những lẽ này, gọi đấy là sự điều chỉnh mang tính hệ thống. Còn có
thể nói một cách khác: Đó còn là sự điều chỉnh có nhiều dân chủ hơn. |
Từ tình hình trên, có thể thấy phát biểu của Tổng thống Obama
tại
phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp quốc ngày 23-0-2009
''...đã
đến lúc thế giới chuyển sang một hướng mới. Chúng ta phải dấn
thân vào một thời đại tiếp cận mới dựa trên quyền lợi chung và
cùng tôn trọng nhau...'' không đơn thuần là một lời nói ngoại
giao, mà hàm ý rõ ràng kêu gọi cộng đồng các quốc gia trên thế giới nỗ lực
cho một cách sống chung mới. Phát biểu này đánh đi tín hiệu khá rõ:
Chính Mỹ cũng đang tìm cách ứng xử mới trong thế giới ngày nay.
Liên quan đến Đông Nam Á, đặc biệt là Biển Đông, nhiều lần các nhà quân sự
Mỹ tuyên bố (ngay từ cuối thời George W. Bush): Mỹ đứng ngoài việc tranh
chấp biển đảo ở khu vực này, miễn là giữ được thông thương tự do trên eo
biển Malacca, các quyền lợi của Mỹ ở khu vực này được bảo đảm, và không được
đụng chạm đến Đài Loan. Có thể hiểu đây sẽ là ranh giới cuối cùng Mỹ
sẽ có thể chấp nhận một khi tình hình đòi hỏi bắt buộc phải như vậy.
Mặt khác Mỹ khuyến khích giải quyết những đề tranh chấp trên Biển Đông trên
diễn đàn đa phương giữa các nước liên quan ở Đông Nam Á. Trong cuộc nghe
điều trần của về Biển Đông tháng 7-2009, Thượng viện Mỹ đã bầy tỏ mối quan
ngại sâu sắc của Mỹ về tình hình Trung Quốc ngày càng lấn át về kinh tế và
quân sự ở khu vực này. Cuộc điều trần này cho thấy Mỹ chủ trương phải có
thái độ chủ động hơn đối với các nước trong khu vực Biển Đông,
“...từ quan hệ về chính sách đến đối thoại về chiến lược, lên tới tầm mức
hoạt động quân sự, bằng cách gia tăng khả năng quân sự cho các nước đối tác.
Trong khi đó Hoa Kỳ cũng tăng cường hoạt động ngoại giao quân sự với Trung
Quốc, gia tăng đối thoại để tránh nguy cơ tính toán sai lầm gây xung đột bất
ngờ”.
Trong khi đó, tại cuộc họp ASEAN - Mỹ 24-07-2009 ngoại trưởng H. Clinton
khẳng định Mỹ tiếp tục tăng cường quan hệ với ASEAN.
Cũng không thể bỏ qua một thực tế khác là trong quan hệ song phương Mỹ -
Trung hiện nay, phía Mỹ cũng chủ động đảy mạnh xu thế hòa hoãn.
Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung
(khai mạc phiên đầu tiên tại Washington 27-09-2009) đã thực sự trở thành
diễn đàn G2 mà nhiều đồng minh của Mỹ không muốn. Tại diễn đàn này Obama
nói “Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc sẽ định hình cho thế kỷ 21… Đây là trách nhiệm mà hai bên phải
gánh vác.”
Trong
điện chúc mừng phiên họp đầu
tiên của diễn đàn này, Hồ Cẩm Đào viết: “Cả Trung Quốc và Mỹ gánh vác
trên vai trách nhiệm quan trọng về những vấn đề trọng đại liên quan đến hòa
bình và sự phát triển của nhân loại.”
Chắc chắn rồi đây lúc hòa hoãn, lúc căng thẳng, song phía Mỹ sẽ vẫn có các
bước đi tiếp mở rộng quan hệ với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, bên nào cũng
có thừa khôn ngoan giành cái lợi về cho mình.
Như vậy có thể thấy chính sách đa dạng của Mỹ nói trên đối với khu vực Biển
Đông sẽ còn tùy thuộc đáng kể vào chính thái độ các nước ASEAN (đối với Mỹ
và Trung Quốc), đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ Mỹ - Trung.
*
Về Trung Quốc: Sự lớn mạnh của Trung quốc với tính
cách là “công xưởng của thế giới” đang thúc đẩy khát vọng của Trung Quốc đi
nhanh trên con đường trở thành siêu cường, dự kiến khoảng năm 2050, mặc dù
kinh tế và nội trị Trung Quốc còn rất nhiều vấn đề nhạy cảm, thậm chí rất
nhạy cảm.
Sẽ là phiến diện trong đánh
giá Trung Quốc nếu bỏ qua những vấn đề nhạy cảm luôn luôn xuất hiện trong
kinh tế và trong nội trị của quốc gia này. Báo chí nước ngoài nhận xét:
Cái yếu nhất của Trung quốc là Trung Quốc là nước của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (Willi Lam), chính vì lẽ này Trung Quốc không thể trở thành siêu
cường với nghĩa lãnh đạo thế giới. Thậm chí cần thấy rõ trong quá trình
phát triển của nó, quốc gia này luôn luôn đứng trước không ít những vấn đề
nan giải về phân hóa và bất công xã hội, về khoảng cách giầu nghèo quá
lớn, nguy cơ phân rã, sự mong manh của hệ thống ngân hàng tài chính tiền
tệ, những thách thức thường trực đối với hệ thống chính trị... Thực tế này
giải thích tại sao Trung Quốc sẵn sàng thực hiện các biện pháp cực đoan
không tưởng tượng nổi và chưa từng có như “cách mạng văn hóa”, “sự kiện
Thiên An Môn”, chính sách đối với Tân Cương và Tây Tạng... Nhạy cảm lớn
nhất đối với hệ thống chính trị của Trung Quốc là vấn đề dân chủ. Điều cần
chú ý: Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, nghĩa là trong tình hình
cấp thiết, Trung Quốc có thể huy động mọi khả năng và lực lượng có thể, để
chế ngự và kiểm soát tình hình nội tại; Trung Quốc có thể làm tất cả mọi
việc rất cực đoan với cách nghĩ “mục tiêu biện minh cho mọi biện
pháp”, chấp nhận trả giá ghê gớm để giành được mục tiêu Trung Quốc
muốn... Lịch sử cho thấy Trung Quốc đã làm được một số việc cực đoan và
đẫm máu như vậy. Lịch sử còn chứng kiến, khi nội bộ có khó khăn hoặc cần
giải quyết một yêu cầu chính trị nào đó, Trung Quốc thường hướng “ngòi nổ”
ra bên ngoài, đó là lúc tiến hành cách mạng văn hoá thì giương cao ngọn cờ
chống đế quốc “gió Đông thổi bạt gió Tây”; khi tiến hành cuộc chiến tranh
biên giới chống Việt Nam tháng 2-1979 thì gương cao ngọn cờ chống tiểu bá
và dậy cho Việt Nam bài học…
|
Với nguồn tài nguyên Trung Quốc đem về bằng mọi cách từ khắp nơi trên thế
giới, trước hết là từ châu Phi và châu Mỹ Latinh, Úc.., Trung Quốc hiện nay
đứng đầu thế giới trong sản xuất nhiều nguyên liệu cơ bản như sắt, thép,
đồng, nhôm, ciment..; là cường quốc thứ nhất trong xuất khẩu tầu biển, là
cường quốc thứ hai sau Mỹ trong xuất khẩu ô-tô, trong vòng một vài năm tới
GDP kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ vượt Nhật...
Báo chí thế giới thừa nhận Trung Quốc thành công vượt xa chủ nghĩa thực dân
mới của phương Tây tại châu Phi, Mỹ Latinh và một số nơi khác trên thế giới
(trong đó có Đông Nam Á...). Những khoản viện trợ lớn của chính phủ Trung
Quốc dành cho các quốc gia này với danh nghĩa “không can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước nhận viện trợ”. Trên thực tế là Trung Quốc quan
hệ trực tiếp và ủng hộ giới thống trị ở những quốc gia này, bất luận bản
chất những chế độ này như thế nào. Phương thức hợp tác song phương như vậy
của Trung Quốc tại những quốc gia này đang mang lại nhiều kết quả lớn cho
Trung Quốc (tuy nhiên gần đây một số nước châu Phi đã phản ứng chống lại sự
tham lam thái quá của Trung Quốc). Hơn thế nữa, hiện tượng Trung Quốc trở
thành đối tác kinh tế ngày càng quan trọng với Iran, Iraq, với các nước và
lực lượng “cánh tả” (chống Mỹ) ở châu Mỹ Latinh – nơi được coi là sân sau
của Mỹ - đang làm cho Mỹ và phương Tây lo lắng.
Bàn về sự
thành công của Trung Quốc...
“East Timor hit over 'dirty' power plants”
http://www.theage.com.au/world/east-timor-hit-over-dirty-power-plants-20090403-9qqc.html
Và
nhiều bài khác về chủ
đề này.
Những bài nói trên
toát lên những ý chính sau đây:
Với danh nghĩa “không can
thiệp vào công việc nội bộ”, Trung Quốc không đặt ra những đòi hỏi về dân
chủ hay nhân quyền, hay những đòi hỏi về chấm dứt chiến tranh sắc tộc, nội
chiến, về bảo vệ môi trường... đối với các nước nhận viện trợ ở châu Phi,
châu Mỹ Latinh... (đặc biệt là đối với Sudan trong vấn đề tàn sát sắc tộc
ở Dafur, và đối với nội chiến ở Congo...) ; Trung Quốc cũng không quan tâm
đến những quy định cấm đoán có liên quan của Liên Hiệp Quốc. Trong khi đó
các nước phương Tây coi những đòi hỏi nêu trên là chuẩn mực cho hợp tác
của họ với những quốc gia này.
Nói khái quát: Viện trợ chính
phủ, xóa nhiều khoản nợ lớn, quà biếu, xuất khẩu nguồn nhân lực dồi dào,
cùng với sự hậu thuẫn mãnh mẽ từ phía chính phủ Trung Quốc cho các công
ty của họ hoạt động theo phương thức đổi các công trình kết cấu hạ tầng
lấy tài nguyên và đất đai... và nhiều phương thức khác, đã giúp cho Trung
Quốc thu về được những nguồn nguyên liệu to lớn và làm chủ nhiều khu mỏ
quan trọng tại những nơi này. Nạn tham nhũng và quan liêu trầm trọng của
nhiều quốc gia nhận viện trợ cũng tự nó góp phần đáng kể vào sự thành công
của Trung Quốc. Các nước nhận viện trợ này phát triển ra sao, đời sống của
nhân dân những nước này có được cải thiện gì không... không phải là những
vấn đề Trung Quốc quan tâm. Tại một số nơi đã xảy ra bất mãn và chống đối
của nhân dân với chính quyền tại chỗ, đụng độ giữa lao động Trung Quốc và
dân địa phương - có khi rất nghiêm trọng như ở Algérie...
Với phương thức “Ít ý thức
hệ thôi, trước hết vì lợi nhuận!” chủ nghĩa thực dân của Trung Quốc đang
thành công vượt hẳn Anh và Mỹ trước đây
(Serge Michel và Michel Beuret)...
Một sự kiện đang gây nhiều sự
chú ý trong ngoại giao là trong khi Đại sự quán Trung Quốc ở Dili (thủ đô
Đông Timor) nỗ lực tuyên truyền trong dư luận quốc tế về quan điểm
“thắng – thắng” thể hiện qua sự viện trợ hào phóng của Trung Quốc
cho Đông Timor và sự hợp tác tốt đẹp giữa hai quốc gia này, thì Tòa án
Hiến pháp Đông Timor vừa qua đã bác bỏ một dự án nhiệt điện do Trung Quốc
làm chủ đầu tư mà thủ tướng Đông Timor đã phê duyệt, lý do: đắt, công nghệ
quá lạc hậu, gần như mua sắt vụn, gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Hiện
nay, nhiều tổ chức phi chính phủ ở Đông Timor đang lên án nhiều dự án khác
do Trung Quốc đầu tư – trong đó có nhà máy điện hạt nhân – không thông qua
đấu thầu rõ ràng... Báo chí nói rõ mọi nỗ lực của Trung Quốc ở Đông Timor
là nhắm vào các mỏ dầu phong phú của quốc gia này.
Vân Vân...
Liên quan đến Việt Nam nên tìm đọc
toàn bộ quá trình phản biện của cả nước và các trí thức người Việt ở nước
ngoài về việc Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên.
Với nguồn dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới (2100 tỷ USD) Trung Quốc đang
tìm cách thay đổi hệ thống tiền tệ thế giới. Trước mắt Trung Quốc chưa thể
“hạ bệ” đồng USD (hiện nay vẫn còn chiếm tới 60% tổng giao dịch tiền tệ và
thương mại trên thế giới). Song với tư cách là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, đang
nắm giữ khoảng 60% trái phiếu và những giấy tờ có giá khác của Mỹ,
Trung Quốc đòi hỏi đồng nhân dân tệ cũng phải được coi là phương tiện thanh
toán quốc tế. Đòi hỏi này bị bác bỏ tại cuộc họp G20 (London 02-04-2009) với
lý do đồng nhân dân tệ chưa phải là đồng tiền chuyển đổi tự do. Trung Quốc
chuyển sang chiến thuật mới là đòi nâng cao vai trò của Trung Quốc tham gia
vào “quyền rút vốn đặc biệt” (SDR – một đơn vị được coi như là tiền của IMF)
để làm yếu và tiến tới thay thế dần đồng USD. Đồng thời Trung Quốc áp dụng
các biện pháp đòi các nước có quan hệ buôn bán với Trung Quốc trực tiếp dùng
đồng nhân dân tệ làm phương tiện thanh toán trong quan hệ song phương, một
số nước đã chấp thuận. Có thể nói đây là một bước mới bổ sung quan trọng cho
việc mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới – đặc biệt
là quyền lực mềm.
Trong số hàng nghìn tập đoàn kinh tế của Trung Quốc đã có nhiều tập đoàn lọt
vào danh sách các nhóm TNCs top 100, TNCs top 50 của thế giới,
trong đó phải kể đến tập đoàn dầu khí PetroChina có số vốn
vượt 1000 tỷ USD và trở thành TNC đứng đầu thế giới về quy mô vốn.
Tình hình vừa trình bầy trên cho thấy chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc ngày càng tự bộc lộ ra là chủ nghĩa tư bản Trung Hoa thời nay
trong hệ thống chính trị một Đảng. Đấy chính là chủ nghĩa tư bản toàn trị
với đặc trưng Khổng giáo.
Thế giới, nhất là các nước láng giềng của Trung Quốc, ngày càng lo ngại
trước hiện tượng Trung Quốc cũng đang trên đường trở thành siêu cường quân
sự - đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Bình luận trên nhật báo Giải phóng quân Nhân dân (Trung Quốc) ngày
12-03-2009, Hoàng Thôn Luận viết:
“...Quyền lợi quốc gia của Trung Quốc vượt xa ra ngoài biên cương lãnh thổ,
vùng trời, vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả các vùng đại dương bao la
nơi các tầu chở dầu của Trung Quốc qua lại, cũng như không gian vũ trụ…
Quyền lợi quốc gia Trung Quốc mở rộng đến đâu, sứ mệnh của lực lượng vũ
trang của chúng ta (Trung Quốc) được mở rộng đến đấy!.. Đứng trước nhiệm vụ
lịch sử mới, lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung Quốc) không chỉ bảo vệ
biên giới lãnh thổ, mà còn phải bảo vệ biên giới quyền lợi quốc gia của
chúng ta.”
Ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc hai thập kỷ nay thường xuyên
tăng 2 con số (từ 10 đến 17%/năm). Số liệu thống kê chính thức của Trung
Quốc cho biết chi tiêu quốc phòng của nước này năm 2007 ước khoảng 70 tỷ
USD. Song theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ, của RAND - cơ quan nghiên cứu
của Mỹ, và của RAW
(Research and
Analysis Wing) –
cơ quan nghiên cứu của Ấn Độ, thực chi cho ngân sách quốc phòng của Trung
Quốc năm 2007 ước khoảng 138 – 156 tỷ USD, đứng vào hàng thứ 2 trên thế giới
– nghĩa là ước khoảng 1/4 – 1/3 ngân sách quốc phòng của Mỹ, vượt Nga, gấp 5
lần của nước Anh, và bỏ xa Ấn Độ... Ngày 21-09-2009 Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc Lương Quang Liệt tuyên bố nước này có hầu hết mọi hệ thống vũ khí
hiện đại của các nước phương Tây.
Trên
nhiều phương diện, hiện tượng Trung quốc trên đường trở thành siêu cường
đang là vấn đề nóng bỏng và rất phức tạp của cả thế giới. Giáo sư Thôi Lý
Nhũ, chủ tịch Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế đương đại (CICIR – Bắc Kinh),
một viện nghiên cứu chiến lược của Trung Quốc tầm cỡ quốc tế, đầu năm nay
phát biểu thẳng thắn trước giới học giả nước ngoài:
“Mười năm qua Trung Quốc đã phát triền từ một vị thế
tương đối thấp lên một vị thế tương đối mạnh, vì vậy những xung đột giữa
Trung Quốc với thế giới bên ngoài không đặc biệt quyết liệt lắm (not
particularly vehement). Tuy nhiên, trong vòng mười năm tới, Trung Quốc sẽ đi
tiếp từ vị thế tương đối mạnh hiện nay lên một vị thế còn mạnh hơn nữa. Ảnh
hưởng của Trung Quốc đối với thế giới sẽ còn lớn hơn nữa – và nỗi lo của thế
giới về Trung Quốc cũng sẽ tăng theo...”
Trên thế giới, kể cả Mỹ, không ai đặt vấn đề đối đầu với Trung Quốc. Nhưng
tất cả các quốc gia đều phải cùng nhau hay riêng lẻ nỗ lực tìm cách ứng xử
và đối xử thích hợp nhất với hiện tượng Trung Quốc trong thế kỷ 21 này sao
cho phù hợp với xu thế tiến bộ chung của loài người. Đó còn là phương thức
hữu hiệu nhất, khuyến khích hay bắt buộc Trung Quốc cũng phải thích nghi với
trào lưu chung của thế giới.
II. Một số vấn đề đối ngoại đặt ra cho Việt Nam
Sự suy yếu tiếp tục của Mỹ và mối quan hệ Mỹ - Trung trong cục diện thế giới
như vừa trình bầy trên là hai yếu tố mới, nổi bật nhất, trực tiếp nhất kết
thúc thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, vẽ lại bản đồ chính trị của thế giới:
hiện tượng một siêu đa cường.
Riêng trên Biển Đông đang hình thành với nhiều diễn biến phức tạp xu thế hai
cực Mỹ - Trung. Thực tế này liên quan trực tiếp đến nước ta trong thập kỷ
tới trên nhiều phương diện. Mối quan hệ Việt – Trung trở thành vấn đề đối
ngoại quan trọng nhất và khó xử lý nhất đối với nước ta trong thập kỷ tới.
1.
Vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại hiện nay của các nước trên
thế giới
Trước khi bàn sâu quan hệ Việt – Trung, xin nêu lên một vài nhận
xét khái quát về vị thế Việt Nam ngày nay trên trường quốc tế.
Có thể nói hiện nay Việt Nam đạt được vị thế quốc tế cao nhất trong
lịch sử của mình với tính cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Việt
Nam ngày nay là đối tác chiến lược của nhiều nước, đầu tư nước ngoài và kim
ngạch ngoại thương tăng trưởng năng động. Chính sách đối ngoại hòa bình –
hợp tác – hữu nghị của Việt Nam cùng với cục diện thế giới hiện nay mang lại
cho Việt Nam vị thế này. Sự thiện cảm của nhân dân thế giới dành cho sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước của Việt Nam trong thế
kỷ trước cũng là yếu tố quan trọng góp phần làm nên vị thế quốc tế ngày nay
của đất nước. Toàn bộ thực tế vừa trình bầy tạo ra thuận lợi rất quan trọng
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, cho thực hiện nghĩa vụ đối với
thế giới của Việt Nam với tính cách là một quốc gia thành viên đầy đủ và
bình đẳng trong cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, cần nhận rõ một sự thật khác, đó là vị trí của Việt Nam
trong chính sách đối ngoại của nhiều nước đối tác, nhất là các nước đối tác
quan trọng, nói chung là tương đối thấp so với khả năng Việt Nam có thể đạt
được – nguyên nhân chính không phải là nước ta nghèo mà chủ yếu vì:
(1)
Về một số phương diện
nhất định nước ta vẫn chưa bước ra khỏi phong cách đối ngoại thời kháng
chiến – phong cách tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng thế giới là chính, mà
chưa chủ động và tích cực dấn thân tham gia vào những vấn đề chung của cộng
đồng thế giới, trong khi cuộc sống luôn luôn đòi hỏi có cho có
nhận chứ không thể một chiều chỉ nhận – nhất là
nước ta bây giờ là một quốc gia thành viên đầy đủ trong các thể chế của cộng
đồng quốc tế.
(2)
Tuy ta có thiện chí
hợp tác – dù song phương hay đa phương, nhưng do khả năng của ta, do nhiều
vấn đề nội bộ riêng của nước ta chưa một lòng một ý, dẫn tới sự hợp tác của
ta chưa đạt được mức tiềm năng cho phép, chưa đúng mức các đối tác mong đợi,
thậm chí có lúc ta chịu nhiều thua thiệt. Trong 25 năm qua nhiều lần ta bỏ
lỡ cơ hội lớn rất đáng tiếc và không lấy lại được.
(3)
Nền ngoại giao Việt
Nam hiện nay do ảnh hưởng của ý thức hệ nên tiếp tục có những hẫng hụt nhất
định trong nhận thức những diễn biến mới trên thế giới, chưa chủ động dấn
thân tiến cùng với trào lưu thế giới - đây còn là vấn đề của tri thức, trí
tuệ, phẩm chất chính trị và mưu lược -, do đó chưa xác lập được cho mình bản
lĩnh mới để khai thác hay chủ động ứng phó với sự vận động của xu thế thế
giới. Bản lĩnh ngoại giao ngày nay của nước ta rất yếu so với thời kỳ kháng
chiến.
(4)
Trên hết cả ngoại giao
Việt Nam đang thiếu một nội trị vững mạnh (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội) và một ý chí thống nhất làm nền tảng. Phải thừa nhận: Nội trị hiện nay
của nước ta cản trở đáng kể phát huy vị thế đối ngoại của đất nước.
Những nhược điểm trình bầy trên đang hạn chế sức mạnh ngoại giao
nước ta và ảnh hưởng đến sức mạnh của nước ta nói chung, nhất là trong việc
tập hợp đồng minh để bảo vệ lợi ích quốc gia và để tiếp tục phát huy vị thế
mới của đất nước.
Do sự vận động của tình hình thế giới, đặc biệt là do các mối tương
quan mới giữa các cường quốc – bao gồm cả hiện tượng Trung Quốc đang trên
đường trở thành siêu cường, xuất hiện tại nhiều nước các châu lục khác nhau
trên thế giới mối lo Việt Nam có thể rơi vào vòng tay của Trung Quốc.
Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các cường quốc phương Tây, kể
cả Mỹ, đều không muốn có một Việt Nam yếu, chịu lệ thuộc vào Trung Quốc.
Những nước này, kể cả Mỹ, hiểu rõ ý thức độc lập tự chủ của Việt Nam và vì
thế có lẽ không có ảo tưởng lôi kéo Việt Nam đi vào con đường ngoại
giao của những đối trọng. Có thể hiểu, xu thế chính của những nước
này là muốn có một Việt Nam mạnh đúng với vị thế đang có trong khu vực, giữ
vững được độc lập tự chủ của mình – vì các lý do:
(1)
Việt Nam ngày nay
không phải là “đối tượng” của những cường quốc này;
(2)
Việt Nam ngày nay
không có có xung đột lợi ích với họ;
(3)
một Việt Nam mạnh, độc
lập tự chủ và có vị thế như thế sẽ có lợi nhất cho họ trên bàn cờ thế giới
hiện tại...;
(4)
một Việt Nam lệ thuộc
vào Trung Quốc hoặc để Trung Quốc khống chế là điều nguy hại đối với hòa
bình và an ninh khu vực với nhiều hệ quả xấu khác – đây là điều nhiều cường
quốc và nhiều nước láng giềng và bè bạn của ta không muốn, chính nhân dân ta
cũng không chịu;
(5)
vân… vân…
Cần nói rõ như vậy để không cường điệu hóa đến mức nhầm lẫn coi các sự việc
“can thiệp vào nội bộ Việt Nam để diễn biến hòa bình dưới chiêu bài dân
chủ và nhân quyền” là quốc sách lật đổ của các nước phương Tây đối với
nước ta. Trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, bất kể sự cường điệu
nào với mầu sắc như vậy đều có hại cho nước ta.
Hiển nhiên giữa chế độ chính trị nước ta và chế độ chính trị của
các nước phương Tây có nhiều giá trị khác nhau, đặc biệt là chung quanh vấn
đề dân chủ và nhân quyền.
Các nước phương Tây vì lợi ích của chính mình có chủ trương khai thác các
vấn đề như xã hội dân sự, dân chủ và nhân quyền – một xu thế ngày càng trở
thành một trào lưu mạnh trên thế giới – để phát huy ảnh hưởng của họ vào các
nước khác, kể cả vào Trung Quốc. Có quốc gia nào, nhất là các nước lớn, lại
không muốn phát huy ảnh hưởng của mình ra bên ngoài, để tập hợp lực lượng,
để khai thác, để tác động vào những điểm yếu của các nước có liên quan, v...
v..?
Xin đừng quên cuộc sống và quy luật tiến hóa của xã hội loài người cũng như
trong quan hệ giữa các quốc gia trên trái đất này xưa nay và mãi mãi sẽ có
“diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nhau như vậy. Cứ xem Trung Quốc “diễn
biến”, “diễn biến hòa bình” vào nước ta như thế nào trong lịch sử 2000 năm
quan hệ hai nước cho đến ngày nay cũng sẽ rõ. Trong sự “diễn biến” vào nhau
này, quy luật muôn đời vẫn là: Người thắng cuộc luôn luôn là kẻ có
khả năng thích nghi và vượt trội cao hơn đối tượng của mình. Yếu tố
căn bản để trở thành người thắng cuộc là phải đồng hành với tiến bộ
và những giá trị cao đẹp. Chẳng lẽ lịch sử 2000 năm của nước ta không nói
lên điều gì trong mối quan hệ qua lại này?
Cũng là chuyện hiển nhiên các tổ chức của một số người Việt ở nước ngoài
muốn sử dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để lật đổ nhà nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Họ làm mọi việc và “lobby” mọi người, mọi tổ chức, mọi
cơ quan nước họ cư trú, vận động dư luận, để tranh thủ nhân vật này hay lực
lượng nọ của nước sở tại hoặc ở những nơi khác cho mục đích lật đổ, chống
đối của họ. Vấn đề chống đối hay lật đổ như thế trước hết là vấn đề giữa
trong nước và những lực lượng người Việt này ở nước ngoài.
Nếu cho câu chuyện chống đối và lật đổ của những người Việt này là quốc sách
hay là nằm trong quốc sách của các cường quốc phương Tây, kể cả Mỹ, thì sẽ
là sự cường điệu đến mức chệch hướng. Nếu các cường quốc phương Tây lúc này
có quốc sách muốn lật đổ hay muốn diễn biến hòa bình để lật đổ Cộng Hòa Xã
Hội chủ Nghĩa Việt Nam thì họ phát triển quan hệ mọi mặt với Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, dành cho Việt Nam không ít sự giúp đỡ để làm gì? Mà Việt
Nam đã, đang nhận và sẽ tiếp tục nhận sự giúp đỡ ấy. Thậm chí Việt Nam đang
yêu cầu họ thừa nhận nền kinh tế của mình là nền kinh tế thị trường, muốn họ
tăng cường giúp đỡ...
Nếu các cường quốc phương tây lúc này có quốc sách lật đổ hay diễn biến hòa
bình để hạ gục nước ta, tại sao một số nước trong các nước phương Tây lại
đồng ý nâng quan hệ hợp tác với nước ta lên tầm đối tác chiến lược?.. Các
nước phát triển từ hàng chục năm nay liên tục dành cho nước ta những khoản
viện trợ ODA không nhỏ, nguồn vốn tài trở này góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Hàng năm chính phủ ta tiếp tục vận
động các nước duy trì nguồn tài trợ này. Hội nghị các nước tài trợ ODA
tháng 12-2009 đã quyết định viện trợ ODA cho Việt Nam 8 tỷ USD, mức cao nhất
từ trước đến nay – trong lúc bản thân những nước này chưa ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tại hội nghị này các nước nhấn mạnh: muốn
phía Việt Nam xử nghiêm khắc vụ Huỳnh Ngọc Sỹ và đảy mạnh chống tham nhũng
nói chung, đình chỉ một số vụ việc mất dân chủ và nhân quyền... Giữa lúc
nước ta đang nỗ lực khắc phủng khủng hoảng kinh tế, sự giúp đỡ này càng có ý
nghĩa. Có thể coi những đòi hỏi này của các nước viện trợ là diễn biến hòa
bình chống đối hay lật đổ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa việt Nam? Còn chủ
trương của trong nước dùng vấn đề “diễn biến hòa bình” để giải quyết những
vấn đề trong nội bộ nước ta lại là câu chuyện hoàn toàn khác.
Sự thực có một thứ diễn biến hòa bình khác nhất thiết phải vô hiệu hóa, đó
là sự câu kết giữa tham nhũng, tha hóa ở trong nước và bàn tay can thiệp của
quyền lực mềm từ bên ngoài. Song cho đến nay chưa được đặt ra yêu cầu chống
sự diễn biến nguy hiểm này. Những dự án kinh tế lớn công nghệ lạc hậu có vốn
đầu tư nước ngoài được hình thành thông qua những quá trình đấu thầu méo mó,
tình trạng buôn lậu, xuất khẩu lậu những khối lượng hàng hóa lớn và nhiều sự
việc nghiêm trọng khác đã xảy ra… đòi hỏi phải ngăn ngừa sự lũng đoạn nguy
hiểm này.
Nói thêm về vấn đề làm bạn với người
Cần nhấn mạnh đường lối ngoại giao muốn làm bạn với người của nước
ta là đúng đắn. Tuy nhiên, lẽ đời nghiệt ngã: chỉ có thiện chí “chay” –
nghĩa là chẳng có thực lực hay ảnh hưởng gì làm căn bản – thì trước sau
“chay” vẫn hoàn “chay”! Vì vậy, không thể bỏ qua một chuỗi câu hỏi tiếp theo
và rất nhiều việc phải làm, để cho đường lối làm bạn này trở thành hiện
thực:
-1- Ta muốn làm bạn với người, nhưng
người có muốn làm bạn với ta không? – đấy là hai chuyện khác nhau.
-2- Làm thế nào để ta có thể là bạn
được của người? người cũng muốn nhận ta làm bạn? – Còn thứ “làm bạn” do được
ban phát thì chẳng hay ho gì – vì đó sẽ là nếu sang thì làm đĩ, nếu kém sang
một chút thì làm thằng hầu!
-3- Làm thế nào để người cần phải làm
bạn với ta?
-4- Làm thế nào để người nếu không
muốn làm bạn với ta thì cũng không chống được ta?
-5- Làm thế nào để người nếu không
muốn làm bạn với ta thì cũng phải tôn trọng ta?
-6- Làm thế nào để người không thể
phản ta hay bán rẻ ta?
-7- Làm thế nào để người nếu chưa phải
là bạn của ta hoặc chưa muốn thì cũng không chống ta?
-8- Làm gì và làm thế nào để nước ta
không bị lôi vào trò chơi “đối trọng”, lúc là “cái mộc” cho người này, lúc
là “lá chắn” cho kẻ
khác..?
-9- Làm thế nào để ngày càng thêm
bạn, bớt thù?
-10- Làm thế nào để không ai cô lập
được Việt Nam?..
-11- Vân... vân...
Tóm lại, muốn làm bạn với người, trước hết phải biết mình là ai, và
cần hiểu mình phải (sẽ phải) là ai. Điều này cũng có nghĩa ta phải quyết tâm
là chính ta, rồi mới đủ trí tuệ và bản lĩnh tính chuyện làm bạn với người.
Đừng quên độc lập tự chủ là một trong những bài học quý được xếp ngang với ý
chí Không gì quý hơn độc lập tự do!
Có thể nói ngoại giao Việt Nam vô cùng giầu có những bài học này. Vậy lo câu
chuyện làm bạn, trước hết là lo cho mình có lực, có trí tuệ, có tư cách, có
tính cách, có ảnh hưởng lan tỏa, có khí phách, có mưu lược và có bản lĩnh
thực hiện đường lối đối ngoại làm bạn. Tại hội nghị Thành Đô (1990) ta muốn
làm bạn, thậm chí muốn làm đồng chí nữa, nhưng Trung Quốc có chấp nhận đâu!
Có thể nói dứt khoát đường lối ngoại giao làm bạn phải bắt
nguồn từ nội trị lành mạnh và đầy sức sống của quốc gia, từ sự chủ động dấn
thân vào trào lưu chung của thế giới – nếu khộng, thì đường lối này chỉ đưa
nước ta trở thành con đĩ hay thằng hầu. Không có ý thức hệ nào thay đổi được
quy luật này trong cuộc sống.
Việt Nam đang có vị thế đối ngoại cao chưa từng có trong lịch sử của mình để
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mở rộng ảnh hưởng của mình
đối với thế giới bên ngoài. Song vấn đề hàng đầu của ngoại giao Việt Nam
ngày nay vẫn là nhận biết chuẩn xác thế giới và giác ngộ triệt để lợi ích
quốc gia, dấn thân với tất cả tinh thần độc lập tự chủ.
2.
Một số suy nghĩ về quan hệ Việt – Trung
2.1.Đại
hán, bài Hoa, thần phục Hoa
Trước hết nên đặt sang một bên những ảnh hưởng di sản lịch sử để lại và tách
ra khỏi mọi cách nghĩ bài Hoa hay thần phục Hoa
để tỉnh táo nhìn nhận sự việc.
Ví dụ không ít người nghĩ rằng sự bành trướng của Trung Quốc là do tư tưởng
đại Hán. Điều này đúng nhưng không đủ. Nghĩ thế hàm
nghĩa khi nào Trung Quốc bỏ được đại Hán – một điều không
tưởng – thì sẽ hết bành trướng
Thực ra đòi hỏi về không gian sinh tồn của Trung Quốc trên con đường trở
thành siêu cường đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn so với tư tưởng
đại hán. Nghĩa là dù có hay không tư tưởng đại hán, vấn đề mở rộng
không gian sinh tồn của cái công xưởng thế giới này vẫn là tất
yếu – vì “đầu vào” và “đầu ra” của nó là cả thế giới, nhằm vào thế giới. Tự
Trung Quốc đã nói lên: Hàng hóa Trung Quốc tới đâu, quyền lực mềm của Trung
Quốc tới đó. Điều này cho thấy chẳng có liên minh hay đồng minh nào cùng ý
thức hệ, cũng chẳng có tư duy bài Hoa hay thần phục
Hoa nào có thể vô hiệu hóa được đòi hỏi mở rộng không gian sinh tồn
này
của cái công xưởng thế giới. Thực tế này đòi hỏi nước ta phải
có một cách tiếp cận khác và cách giải quyết khác những thách thức đặt ra.
Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường rất khó mở rộng không gian
sinh tồn đi lên hướng Bắc, sang phía Đông hay về phía Tây. Cứ nhìn bản đồ
địa dư và bản đồ địa chính trị thì thấy rõ điều này. Trong lịch sử đã có vụ
Ussuri với Liên Xô cũ năm 1969, phần trên bài viết này đã nêu ví dụ Timothy
Keating từ chối đề nghị của Trung Quốc đầu năm nay về chia đôi Thái Bình
Dương, Nhật bản trước sau không chịu chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc về
biển đảo, biên giới Ấn – Trung hiện nay đang căng thẳng... Hướng thuận
lợi nhất làm bàn đạp cho Trung Quốc mở đường giành vị thế siêu cường chỉ còn
lại hướng Nam, Việt Nam trong tình hình này trở thành chướng ngại vật
chính! Thực hiện được cái “lưỡi bò” ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ khống chế
được tuyến đường biển huyết mạch Malacca và từ đó có thể khống chế đáng kể
Thái Bình Dương, sẽ có thêm sức nặng mặc cả để nâng cao vị thế của Trung
Quốc. Chuyện Biển Đông có thể là đột phá khẩu, là cú hích đẩy Trung Quốc lên
vị thế chiến lược toàn cầu cao hơn, chứ không đơn thuần là Trung Quốc chỉ
tranh chấp lãnh hải và tài nguyên. Xin đừng quên điều này.
Hơn nữa, trong thập kỷ vừa qua sự đi xuống quá nhanh của phương Tây – trước
hết là Mỹ, sự đi lên quá nóng của Trung Quốc trên thực tế đã dẫn đến tình
hình Lý Quang Diệu mô tả: Đang hình thành khu vực trống (vacuum) trong chính
sách của Mỹ khiến cho Trung Quốc tự do hoành hành ở châu Á.
Không phải ngẫu nhiên mối quan ngại của hầu hết các nước châu Á về một siêu
cường Trung quốc đang gia tăng, nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Sự
vận động của cục diện thế giới và sự phát triển tự thân của Trung Quốc tạo
nên tình huống như vậy; chẳng có đạo đức, thiện chí, ý thức hệ hay cuồng
vọng nào có thể thay đổi được. Sự thật duy nhất Trung Quốc phải tuân thủ là
cường quốc đang phát triển năng động này tuy thế cũng không thể làm gì vượt
quá khả năng và tầm với của nó.
Trong chiến lược toàn cầu của mình, hiện nay Trung quốc vẫn chủ trương “giấu
mình chờ thời”, tiếp tục tranh thủ thời gian để mạnh thêm và để cho
các đối thủ chính của mình – trước hết là Mỹ - tiếp tục suy yếu thêm. Đồng
thời Trung Quốc sẽ không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào có các “bước đi nóng” (hot
performances) trong phạm vi cục bộ, nhất là đối với Việt Nam - như chúng ta
đã thấy từ hơn nửa thế kỷ nay: trong cuộc chiến tranh biên giới chống Việt
Nam 2-1979, trong đàm phán biên giới trên bộ, trong đánh chiếm các đảo của
ta ở Biển Đông, các hoạt động uy hiếp khác trên biển, vân vân… Thế giới về
cơ bản vẫn là cục diện hòa bình, song một nửa thế kỷ qua Đông Nam Á luôn có
những sự cố như vậy. Đây là điểm khác nhau quan trọng giữa cục diện quốc tế
nói chung và tình hình khu vực nước ta đang sống nói riêng. Giới hạn hay yêu
cầu Trung Quốc đặt ra cho những “bước đi nóng” này là về đại cục miễn sao
không cản trở, mà phải thúc đẩy nhanh hơn mục tiêu chiến lược là sớm trở
thành siêu cường của Trung Quốc.
Cũng không phải ngẫu nhiên, các Đại hội của Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ năm
1949 đến nay không lúc nào không tìm cách xoa dịu mối lo của thế giới, luôn
luôn giương cao ngọn cờ chống bá quyền, thực chất là để thanh minh cho chính
mình. Gần đây nhất Trung Quốc bỏ cả cách nói trỗi dậy hòa bình,
và ngày càng nói nhiều đến win-win. Trong khi đó phương tiện
truyền thông nội địa Trung Quốc gần như không có thời kỳ nào, kể cả hiện
tại, ngớt nói công khai suy nghĩ của Trung Quốc về không gian sinh tồn, điển
hình có lẽ là bài nói của tướng Trì Hạo Điền – nguyên bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, tại Hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc bàn về chiến lược chiến tranh
tương lai, tổ chức năm 2005 (được công bố trên Tạp chí "Các vấn đề chiến
lược", Ấn Độ, 15/4/2009) và các bài nói về thời cơ đang đến cho Trung
Quốc giải quyết dứt điểm vấn đề Biển Đông.
Như vậy cách nghĩ đại Hán, bài Hoa, thần phục Hoa chẳng ích
gì. Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước mình đi chỗ khác để
tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng tại chỗ,
suy nghĩ,
làm những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái công
xưởng thế giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn trọng?
Hoàn toàn có khả năng trở thành một đối tác làm ăn được Trung Quốc tôn
trọng, nếu nước ta là một đối tác tin cậy và được tôn trọng của cả thế giới.
Mặt khác, hợp tác được với Trung Quốc với tư cách là một Việt Nam độc lập và
là một đối tác được tôn trọng, Việt Nam cũng sẽ hợp tác được với cả thế
giới.
Thiếu điều căn bản này, nhân nhượng của ta đối với Trung Quốc
không thể giúp nước ta yên thân, mà chỉ khuyến khích Trung Quốc lấn tới. Hơn
nữa, cần nhìn vào chính sách của Trung Quốc đối với từng nước ASEAN riêng rẽ
để thấy rõ thực tế trần trụi này. Làm thế nào để cả dân tộc một lòng một dạ
đem hết trí tuệ và nghị lực của mình làm bằng được điều căn bản
này, đấy là chìa khóa để giải quyết vấn đề. Cần nói thẳng thắn: Hiện nay
chưa làm được như vậy! Hiện nay con đường làm như vậy thậm chí có những sự
việc tự ngăn chặn!
2.2. Thực tế quan hệ Việt – Trung hiện nay
Hội nghị cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô năm 1990 tuy còn nhiều vấn đề
phải bàn cãi,
song đã mở đầu thời kỳ quan hệ bình thường Việt- Trung hiện nay. Đến nay đã
được 2 thập kỷ, xen kẽ những đoạn đường lúc hợp tác, lúc căng thẳng, nơi này
nơi khác vẫn còn đổ máu – lúc ở biên giới trên bộ, lúc trên biển.
Đáng chú ý, sau khi hoàn tất cắm mốc biên giới trên bộ đầu năm 2009, với tất
cả những nhượng bộ và thiện chí phía Việt Nam có thể làm, tình hình lại rộ
lên vấn đề Biển Đông, lúc này lúc khác ngư dân nước ta bị giết hoặc ngược
đãi dã man, “cái lưỡi bò” vẫn được mưu toan triển khai, kể cả
kịch bản dùng vũ lực cũng được báo chí Trung Quốc đề cập tới... Giống như
chim phải đạn, trong ký ức, một không khí lạnh buốt năm 1946 phảng phất lại
“…ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới!..” Người Việt Nam ai quên
được khoảnh khắc ngày xưa ấy?!.. Tuy nhiên thời thế đã xoay vần…
Mới đây, đúng một ngày sau khi Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng đi thăm Tứ Xuyên,
Hội nghề cá nước ta phải ra tuyên bố ngày 16-10-2009 phản đối Trung Quốc
ngược đãi và cướp bóc 200 ngư dân ta vào lánh nạn cơn bão Ketsana 26-09-2009
tại đảo Trụ Cẩu – Hoàng Sa thuộc ta, ngày 21-10-2009 người phát ngôn Bộ
ngoại giao ta phải trao tiếp công hàm phản đối cho đại sứ Trung Quốc.
Đặc biệt là những hoạt động ngược lại với 16 chữ như thế của
Trung Quốc trong các năm 2008 và 2009 ráo riết hơn và nghiêm trọng hơn so
với trước, mặc dù phía Việt Nam hết sức kiềm chế – như người phát
ngôn Bộ Ngoại giao ta vẫn nói. Đến nỗi dư luận nước ngoài cho rằng: Trung
Quốc nắm thóp được Việt Nam không bao giờ dám ngả vào Mỹ và phương Tây, nên
càng làm tới!.. Việt Nam mất cắp mà không dám la làng thì thế giới làm sao
bênh được!..
Những hiện tượng “nóng”/ “lạnh” như thế xen kẽ nhau thường xuyên. Trong khi
đó chính giới hai nước không thiếu các chữ vàng lời đẹp nói về quan hệ hai
nước! Khoảng cách có thuốc súng và máu giữa thực tế và lời nói như vậy cho
thấy điều gì?
Xin lưu ý, trong bối cục của tình hình thế giới những năm 1980 Trung Quốc đã
dùng vũ lực thường xuyên uy hiếp Trường Sa, – đặc biệt là cuộc tấn công đẫm
máu của hải quân Trung Quốc đánh chiếm thêm các bãi cát ngầm và một số đảo ở
Trường Sa ngày 14-03-1988. Ngày nay không thể không đặt ra câu hỏi: Trung
Quốc dự định và có thể sẽ làm gì nữa trong bối cảnh thế giới hiện tại?
Trong bài đăng trên Hoàn Cầu Thời báo, ngày 18/03/09, tác giả Đới
Hy, đại tá không quân Trung Quốc và nhà bình luận có tiếng, kêu
gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường Sa: "Song song với việc
phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải (Biển Đông), cần thiết lập căn
cứ quân sự trên quần đảo Nam Sa (Trường Sa), với các cơ sở dành cho
máy bay, trực thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và
không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân
sự... không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải (Biển
Đông) mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội."
Trong quan hệ kinh tế hai nước có rất nhiều vấn đề phức tạp. Không biết phía Trung Quốc lobby thế
nào
mà
thắng thầu nhiều công trình kinh tế lớn do phía Việt Nam làm chủ đầu tư, kể
cả tại nhiều địa điểm có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh quốc phòng của
ta. Đáng chú ý là nước ta hiện nay đã đạt được trình độ phát triển nhất
định, mà hầu như tất cả các công trình do Trung Quốc thực hiện đều dưới dạng
chìa khóa trao tay (EPC) - với công nghệ chắc chắn là hạng hai hạng
ba gì đó – ví dụ công nghệ cho nhà máy Nhân Cơ sơ chế bô-xít thành alumin ở
Tây Nguyên là công nghệ Bayer có từ 100 năm nay! - cùng với thiết bị và vật
tư gần như 100% là của TQ, đưa hàng vạn người Trung Quốc không có tay nghề
vào làm việc không có giấy phép. Có nhiều hiện tượng gian lận trong thực
hiện các dự án, có nơi đưa vào nước ta từ cái hố xí bệt như báo chí ta đã
phanh phui!.. Họ ở lại sinh con đẻ cái thì sẽ làm sao? Xin nhắc lại, đấy là
những sự việc thật, không có chuyện bài Hoa ở đây. Vì thế
không thể không đặt ra câu hỏi: Trong những dự án đã ký kết, đã thực hiện,
và đang thực hiện, có sự thao túng nào không của bàn tay tham nhũng? chúng
luồn lách từ đâu? đến mức độ nào?..
Phần lớn đầu tư của Trung Quốc vào ta là khai thác khoáng sản và chuẩn bị
địa bàn hoạt động mới ở nước ta cho công nghiệp của Trung Quốc – gần đây
nhất là khu công nghiệp An Dương – Hải Phòng do Thâm Quyến xúc tiến. Trong
khi đó ngoại thương ta nhập siêu từ Trung Quốc mỗi năm 10 – 13 tỷ USD,
khoảng 80 – 90% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Trung Quốc là nguyên liệu.
Buôn bán qua biên giới (biên mậu) là một kênh quan trọng trong quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, song không hiếm lúc Trung Quốc đưa
ra đủ mọi thứ lý do đơn phương “đóng cửa” với các lý do khác nhau - mỗi lần
xảy ra như thế hàng trăm triệu đồng sản phẩm xuất khẩu của ta bị hủy hoại
bên trong biên giới… Tình hình này cộng với nhập lậu ồ ạt hàng Trung Quốc
kém chất lượng thực sự gây nguy hiểm cho đất nước. Duy trì tình trạng này
trong tương lai, đầu tư của Trung Quốc và kim ngạch ngoại thương hai nước
càng lớn, nước ta phải đối mặt với mối nguy và sự lệ thuộc càng lớn. Tăng
cường quan hệ kinh tế Việt – Trung có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước
ta, song mở rộng hợp tác kinh tế với các tỉnh Trung Quốc mà không cải thiện
được tình hình nêu trên sẽ càng bất lợi.
Ngoài việc gây sức ép các hãng BP và EXON phải hủy các hợp đồng thăm dò dầu
khí đang làm với ta (nhưng phía ta lại giải thích với báo chí là các hãng
này đã làm xong việc và tự rút!), Trung Quốc tiếp tục nêu yêu sách “lưỡi bò”
trên Biển Đông, tuyên bố vùng cấm đánh cá từ 16-05-2009 đến 1-08-2009 kinh
độ 170 Đông xuống tận vỹ tuyến 12; có lúc đưa tầu quân sự đánh đuổi tầu cá
của ta trong vùng biển của ta chỉ cách bờ 65 hải lý… khiến hàng nghìn ngư
dân của ta thất nghiệp, khốn đốn…
Còn không ít các vấn đề phức tạp khác nữa của quyền lực mềm...
Toàn bộ thực tế nói trên sẽ chi phối sâu sắc tình hình phát triển và an ninh
của nước ta trong thập kỷ 2011-2020. Lịch sử tranh chấp giữa các siêu cường
mà nước ta đã nếm trải thời chiến tranh lạnh sẽ không lặp lại. Nhưng mối
quan hệ tay đôi và sự tranh chấp hay tranh giành ảnh hưởng như vậy giữa hai
nước lớn này thời nào cũng dễ đẩy các nước nhỏ lâm vào cảnh “trâu bò húc
nhau ruồi muỗi chết”.
Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính sách đối đầu với Trung Quốc. Ngày nay
cả thế giới – kể cả Mỹ - không nước nào chọn chính sách đối đầu với Trung
Quốc. Việt Nam càng không có lý do để làm việc này. Kể từ khi ra đời, nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – ngày nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
nước ta đã từng sống trong thời kỳ quan hệ Việt – Trung đúng với tinh thần
vừa là đồng chí vừa là anh em, núi liền núi sông liền sông…
Không hoài cổ, nhưng không thể không đặt ra câu hỏi: Cái gì tốt đẹp đã đạt
được trong quá khứ, tại sao không đạt được trong tương lai?
Câu trả lời về phía Trung Quốc, để cho Trung Quốc trả lời.
Câu trả lời về phía chúng ta, tự chúng ta phải trả lời. Để có câu trả lời
ấy, dân tộc Việt Nam ta hôm nay cần bắt đầu từ lòng tự trọng và ý chí thoát
ra khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay, rồi mới đến các việc phải làm khác. Một
nước Việt Nam èo uột không thể làm bạn với Trung Quốc hoặc với bất kỳ nước
nào trên thế giới này. Điều chắc chắn là Trung Quốc cần thế giới nếu không
hơn thì cũng không kém các cường quốc khác. Có thể sẽ có một Trung Quốc siêu
cường, nhưng có lẽ không thể có một đế chế Trung Quốc, một Pax Sinica trong
thời đại ngày nay. Thực lực và những giá trị Trung Quốc có, hoặc sẽ có đều
khó lòng cho phép Trung Quốc trở thành một đế chế như thế. Tự thân Trung
Quốc cũng nói lên điều này. Vì thế, Việt Nam nên có một vai trong cái thế
giới mà Trung Quốc cần ấy.
Trung Quốc có thể rất thâm độc, nguy hiểm, rất hung hãn như chúng ta đã
từng thấy từ Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, như trong vấn đề chiến
tranh Khmer đỏ chống Việt Nam, chiến tranh biên giới tháng 2-1979, các cuộc
đánh chiếm cướp các đảo của ta, tiếp tục uy hiếp trên Biển Đông, thâm nhập
sâu vào Tây Nguyên... Nhưng Trung Quốc sẽ làm được gì nữa nếu cả nước ta
trên dưới một lòng và có sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ? Trung Quốc sẽ
làm được gì nữa, nếu nước ta hiểu rõ bàn cờ thế giới mọi thời đoạn, không tự
trói buộc mình vào bất kỳ một ý thức hệ nào ngoài lý tưởng duy nhất và ý chí
sắt đá: Phải khôn ngoan đến cùng để thực hiện lợi ích quốc gia trên hết!
Mặt khác quan hệ Việt – Trung hai, ba thập kỷ vừa qua phải chăng cho thấy
nhân nhượng Trung Quốc bao nhiêu cũng không đủ? hòa hiếu đến thế nào nữa
cũng vẫn không được tôn trọng? Thậm chí nhiều lúc Trung Quốc tỏ ra rất hỗn
xược – điển hình nhất có lẽ là chuyện nửa đêm gọi đại sứ ta ở Bắc Kinh để
trách cứ chuyện báo chí ta nói nhiều về thực phẩm Trung Quốc xuất vào việt
Nam nhiễm hóa chất độc hại, chuyện lãnh đạo Trung Quốc phê phán Việt Nam cải
cách quá nhanh! Còn bao nhiêu chuyện đau lòng khác nữa!.. Trong khi đó
thượng nghị sỹ Obama lúc tranh cử cũng như sau khi đắc cử tuyên bố thẳng
thừng không cho nhập khẩu các đồ chơi của trẻ em có nhiều chất chì sản xuất
từ Trung Quốc, phía Trung Quốc hoàn toàn lặng lẽ!
Nhìn chung, từ sau 30-4-1975, đặc biệt từ sau hội nghị Thành Đô (1990),
Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong quan hệ với Việt Nam, đồng thời Trung Quốc
khuyến khích hay để ngỏ cửa cho phát triển những mối quan hệ hợp tác nhẩt
định. Với cả hai cánh tay “cứng” – “mềm” như vậy, Trung quốc nhất quán theo
đuổi mục đích làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc hoặc phải nằm trong quỹ
đạo của Trung Quốc. Cũng phải nói cho khách quan: Từ xưa đến nay có cường
quốc nào không đối xử với các nước nhỏ hơn hay các con mồi của mình như thế?
Lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay có biết bao nhiêu bài học
phong phú trong mối quan hệ như vậy với các “người bạn lớn” muốn chi phối
vận mệnh nước ta!
Tuy nhiên, trước hết ta cũng phải tự trách mình: Ta có làm sao thì người mới
dám xử sự với ta như thế chứ!? Hay là mọi việc xảy ra chưa đủ thức tỉnh lòng
tự trọng của dân tộc Việt Nam thời này?! Còn ai muốn hiểu những điều trình
bầy trên là kích động chống quan hệ hữu nghị hợp tác Việt – Trung xin cứ
phản bác.
Không chống Trung Quốc, không bài Hoa, nhưng nhất thiết phải tự ta là ta và
phải có thực lực để trở thành một đối tác được tôn trọng! Hữu nghị “chay”
kết quả sẽ là “âm”. Dân tộc Việt Nam ta chẳng lẽ không có kinh nghiệm gì về
tình bằng hữu ăn xin?
Và trên hết cả, hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát
triển với cái công xưởng thế giới là điều kiện căn bản cho chung sống
hòa bình, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đừng chọn kịch bản để cho
Việt nam trở thành một bãi thải, một lá chắn hay một con đê chắn sóng Trung
Quốc, mà cần tìm ra và lựa chọn kịch bản Viêt Nam trở thành cầu nối giữa các
bên với Trung Quốc - cho một thế giới của hợp tác hòa bình và phát triển.
Đòi hỏi sống còn này đặt ra cho nước ta nhiệm vụ phải phấn đấu tự nâng cao
mình toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,
ngoại giao, trước hết là đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực và bản lĩnh
con người Việt Nam thời nay, toàn dân tộc là một ý chí thống nhất mạnh mẽ!
Trên hết cả, đòi hỏi này được đặt ra trách nhiệm trực tiếp và vô cùng quan
trọng cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia.
Xin đừng quên lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã hơn một
lần đem lại cho nước ta bài học cay đắng: Quyền lợi quốc gia của ta luôn
luôn đứng trước nguy cơ bị các nước lớn bán rẻ, tranh giành nhau, hoặc đem
ra đổi chác với nhau. Điều gì sẽ xảy ra nếu ở khu vực Đông Nam Á sẽ do thế
hai cực Trung – Mỹ với các kịch bản khác nhau chi phối: kịch bản cân bằng,
kịch bản giành giật, kịch bản thỏa hiệp – nhất là kịch bản Mỹ vì thế đi
xuống và vì lợi ích chiến lược toàn cầu của mình muốn hi sinh, muốn đem lợi
ích của Việt Nam đổi chác lấy cái gì đó?.. Làm sao nước ta đứng vững được
trong bất kỳ kịch bản nào?
Tất cả xoáy vào câu hỏi: Làm gì để Việt Nam thoát được nghèo hèn như một tật
nguyền?
II. Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới
Bước
vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước kể
từ khi hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất đất nước vừa
tròn 35 năm. Trong xuốt thời kỳ 35 năm này, nước ta mất trắng 5 năm đầu tiên
với nhiều hy sinh lớn lao cho chiến tranh chống bọn diệt chủng Polpot –
Yengsari ở Campuchia và chống cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Trung Quốc
trên biên giới phía Bắc nước ta, được gọi là cuộc chiến tranh 17-02-1979.
Cuộc chiến tranh giúp nhân dân Campuchia chống lại bọn Khmer đỏ diệt chủng
còn kéo dài ác liệt thêm nhiều năm nữa sau khi Phnompenh đã được giải phóng.
Cuộc chiến tranh biên giới 17-02-1979 biến thành xung đột đẫm máu với Trung
Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, kéo dài mãi đến năm 1989 mới thực sự
kết thúc. Trong khi đó đất nước lâm vào cảnh khốn khó với biết bao nhiêu
chuyện đau lòng – từ những đổ vỡ, hy sinh mất mát mới trong nước phải chịu
đựng, đến những tang tóc khôn kể xiết rơi vào những người vượt biển phải bỏ
đất nước ra đi…
Điểm lại thực tế lịch sử nêu trên để thấy rõ bối cảnh vô cùng phức
tạp đất nước ta phải đối phó khi bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất
nước trong hòa bình. Người Việt Nam ta dù là ai, trong nước, ngoài nước, bất
luận tôn giáo, chính kiến, đẳng cấp nào, nếu còn nặng lòng với đất nước nhất
thiết phải cùng nhau nghiêm túc rút ra từ khoảng thời gian lịch sử này những
bài học không được phép quên. Vì vậy rồi đây sẽ phải đánh giá chuẩn xác và
khách quan 15 năm (1975-1989) bi kịch đầy máu và nước mắt sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc – không phải chỉ để làm rõ trách nhiệm
trước lịch sử, quan trọng hơn là để không vấp lại sai lầm cũ, để làm rõ con
đường phải đi phía trước.
Điểm lại như vậy thực tế lịch sử trước khi nói về kinh tế chỉ muốn xin lưu
ý ngay từ đầu:
Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết đòi hỏi
phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới - với lý tưởng lợi
ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và
bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ
được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối
quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ được.
Đương nhiên, mỗi người Việt nam được nói tới ở đây, còn món nợ lớn hơn thế
đối với tổ quốc mình trước sau nhất thiết phải trả. Đó là: Phải dũng cảm và
nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam ta đã trải qua từ khi
chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào
muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển và văn minh
mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được và có
những khúc quanh có không cưỡng lại được, nhưng bài học thì phải rút ra.
Đặt vấn đề như vậy, phải chăng có thể rút ra:
(1)Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2)sự giác ngộ không
đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động vô cùng
phức tạp, (3)sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng - phải chăng
đấy là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất nước 35 năm
qua? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới trên
nhiều phương diện. Suy cho cùng, trước sau đấy vẫn là những vấn đề của trí
tuệ, tầm nhìn và ý chí!
Dưới đây xin tập trung nêu ra một vài vấn đề phát triển kinh tế của đất nước
trong thập kỷ 20 tới.
1.Một mô hình phát triển theo chiều rộng hiện nay đã đi trọn vòng đời
Kể từ khi xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp và bắt tay tiến hành công cuộc đổi
mới năm 1986, nước ta thực sự bắt đầu đi vào thời kỳ phát triển trong thời
bình. Tính đến nay, chặng đường này trọn một phần tư thế kỷ (nếu lấy năm họp
Đại hội toàn quốc ĐCSVN lần thứ XI làm cột mốc).
Trong 25 năm này kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng theo
chiều rộng: chủ yếu dựa vào (1)khai thác lợi thế so sánh về giá lao động
rẻ (trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng
kể là lao động cơ bắp), (2)khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3)đẩy mạnh đầu
tư từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử
dụng nhiều lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4)sử
dụng lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường. Nhìn chung mô hình
phát triển như thế cho thời kỳ này là cần thiết, nước ta đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng kinh tế
thấp và càng về sau càng thấp so với công sức bỏ ra, hoặc so với những cái
giá phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát
triển theo chiều rộng.
Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi đổi mới,
nước ta cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm thô,
nguyên liệu thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo với
hàm lượng công nghệ thấp, đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu
hút FDI chủ yếu cho công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp, gây nhiều gánh
nặng cho môi trường tự nhiên và xã hội... Với chiến lược phát triển dựa vào
4 yếu tố như vậy, thế mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất
nước là con người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta đang đi
vào xu thế trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê
với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Nước ta có kế hoạch hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Nhưng
trong 25 năm qua quá trình công nghiệp hóa chủ yếu vẫn dựa vào 4 yếu tố của
phát triển vừa nói trên. Vì thế vẫn chưa làm bộc lộ rõ và chưa xác lập được
thế mạnh để nền kinh tế nước ta có thể bứt phá trở thành một nước công
nghiệp hóa trong một tương lai gần. Cho đến nay cũng chưa xác định được đâu
sẽ là chỗ đứng trong tương lai của nền công nghiệp nước ta trong kinh tế thế
giới để vươn tới.
Với GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng khoảng 10
lần so với khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm nước đang phát
triển có thu nhập thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp
trên các phương diện: trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh
doanh, năng lực quản lý đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con
người, của văn hóa, xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị... Nhìn chung
sau 25 năm nước ta vẫn còn là một quốc gia lạc hậu, vẫn chưa thấy hình hài
của một nền kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung một quốc gia
công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra sao. Điều này có
nghĩa vào năm 2020 nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa các chỉ tiêu của một
nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.
Theo IMF, năm 2008 GDP danh nghĩa (nominal) tính theo đầu người của
ta là 1040 USD, của Thái Lan là 4115 USD. Để đạt được mức phát triển
trên nhiều phương diện như của Thái Lan hiện nay (kết cấu hạ tầng, nhà
nước pháp quyền, thu nhập tính theo đầu người, quyền tự do dân chủ của
dân...), ước tính nước ta cần 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Song Thái lan
hiện nay vẫn chưa được coi là một NIC và vẫn trong tình trạng cứ vài ba
năm lại một cuộc đảo chính quân sự. Từ đó có thể suy ra: Tiếp tục
con đường phát triển hiện nay, nước ta
hai ba chục năm nữa vẫn chưa thể trở thành một nước công nghiệp hóa.
Theo cách định nghĩa của UNDP và một số viện nghiên cứu trên thế giới,
một nước được
coi là nước mới hoàn thành công nghiệp hóa (NIC), đại thể phải có
các tiêu chuẩn sau đây:
Có những chuyển biến cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
công nghiệp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm phần nhỏ nhất trong
tổng số lao động cả nước, (theo đánh giá của Hội đồng quy hoạch kinh
tế và phát triển Đài Loan, sau 25 năm đầu tiên tiến hành công
nghiệp hóa, tỷ trọng này ở Đài Loan còn 18%, ở Hàn Quốc còn 12% lao động
cả nước), tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn rất thấp, công nghiệp chế
biến chiếm tỷ trọng chủ yếu trong công nghiệp và đã có các tập đoàn kinh
tế tham gia vào các “chuỗi” cung ứng hay sản xuất toàn cầu, trong toàn bộ
nền kinh tế khu vực dịch vụ vượt khu vực công nghiệp và khu vực nông
nghiệp...
·
Có khả năng lớn trong thu hút FDI.
·
Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và trong khung khổ của pháp luật.
·
Quyền công dân và các quyền tự do dân chủ khác trong xã hội ngày càng mở
rộng. Nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển.
·
Có đội ngũ lãnh đạo mạnh và tinh thông.
·
V… v |
Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn nhận theo
các tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Đơn giản là rất khó tồn tại một
nước công nghiệp hóa trong một thể chế chính trị - văn hóa – xã hội lạc hậu.
Trên phương diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so với một nước công
nghiệp hóa và so với thế giới chung quanh về nhiều mặt: dân trí, tính công
khai minh bạch, xã hội dân sự, năng lực + tính trách nhiệm và tính tin cậy
được (accountability) của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đặt Hiến
pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc phục những tha
hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, đặc biệt nghiêm trọng
là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ thống giáo dục
với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai...
Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta có lẽ mới
chỉ đi được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng đường công nghiệp
hóa mà thôi.
Từ nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa chặng
đường còn lại không?
Trả lời:
Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như mô hình phát triển
hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn
thập kỷ tới, hoặc không bao giờ!
Những điều vừa trình bầy trên cho thấy: Nhìn về bất kỳ phương diện nào, nước
ta chắc chắn không thể hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa vào năm 2020.
Tóm lại, sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế phát triển
theo chiều rộng và còn mang nặng các đặc tính: manh mún, bóc ngắn cắn dài,
tranh thủ được cái gì thì làm cái nấy. Nền kinh tế nước ta ngày càng có
những mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô
nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính mất cân đối, tính lạc hậu này và
tình trạng ô nhiễm môi trường đã tới ranh giới chịu đựng cuối cùng của đất
nước, vượt qua nó sớm muộn sẽ dẫn tới đổ vỡ lớn.
Xin đơn cử một vài ví dụ:
o
Xuất khẩu than, dầu,
gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả năng cho phép, không thể vượt
qua được, thậm chí tiếp tục duy trì những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm
họa (hiện nay đã trù tính phải nhập than từ năm 2012).
o
Ô nhiễm môi trường và
sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục
tăng, ruộng đất ngày càng khan hiếm.
o
Cơ cấu kinh tế lạc hậu
và nhiều chính sách kinh tế - xã hội hiện nay không cho phép tận dụng được
mọi cơ may mà “cơ cấu dân số vàng”
có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân số vàng” này có thể biến
thành mối đe dọa lớn vì nạn thất nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang ngày
càng nghiêm trọng.
o
Những yếu kém về nhiều
mặt trong thu hút FDI khiến nước ta về nhiều mặt thực chất đang là nước
đi làm thuê và là đất nước cho thuê.
o
Nhập siêu và thâm hụt
ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.
o
Càng nhiều đô thị hiện
đại mọc lên do phát triển không đồng bộ (nhất là quy hoạch, luật pháp, năng
lực hành chính, các chính sách kinh tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực,
các ngành cung ứng...) các thất bại và ách tắc càng lớn…
o
Vân vân... Vân vân...
Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng động”, về
“triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng hấp dẫn” của thị
trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang lên”, về vân vân... ru ngủ
chúng ta. Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn
Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ họ
đang không muốn có hay muốn loại bỏ ở nước họ, hoặc những thứ các nơi đang
thừa ế và muốn tống khứ! Vinashin, các dự án thép và xi-măng khổng lồ là
những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf….
Những năm 1994-1995 kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng đầu tiên sau
10 năm đổi mới. Nguyên nhân chính là lực đẩy đầu tiên của đổi mới đã làm
xong nhiệm vụ của nó, kinh tế bắt đầu có những mất cân đối mới, đầu tư kém
hiệu quả, tăng trưởng và xuất khẩu đều giảm, lạm phát tăng cao. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ 1997 ở châu Á xảy ra chậm hơn và không phải là
nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế 1994-1995 ở nước ta (sự thật là
nước ta kém nhạy bén nên không tận dụng được một số cơ hội do cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 đem lại).
Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn lần thứ 2
kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy vọt lên 12,6%, trong
khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát bùng lên 19,89%
(22,8% theo WB và IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,
năm 2009 dự kiến lạm phát 9,4% và tăng trưởng GDP đạt 5,2% (nguồn: TCTK và
Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như cuộc khủng hoảng 1994-1995,
cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm trọng của một số chính sách
vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa là chậm gần một năm so với ở nước ta)
làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ
không phải là nguyên nhân. (Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng
thẳng, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng
trưởng về khối lượng và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm
2008 và 2009).
Tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua, đặc biệt là những tín hiệu giống
nhau của 2 cuộc khủng hoảng nối nhau liên tiếp cho thấy: Mô hình phát triển
kinh tế theo chiều rộng đã đi trọn vòng đời của nó, bắt buộc phải chuyển
sang mô hình khác.
2.Tính hiệu quả và chất lượng của phát triển kinh tế ngày càng thấp.
Hiện tượng này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số ICOR của
nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và thuộc loại
cao nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng. Nói nôm na
đấy là hiện tượng: Tiền của công sức bỏ ra ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế
thu được có tỷ lệ ngày càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.
Biểu 1
Năm |
Tăng trưởng
GDP |
Tỷ lệ lạm
phát |
Chỉ số ICOR |
2006 |
8,17%7% |
7,7% |
5,0 lần |
2007 |
8,48 |
12,6 |
5,2 |
2008 |
6,23 |
19,89 (22,97)* |
6,9 |
2009 |
5,2 |
9,4 |
8 |
Nguồn: Dự báo
của Tổng cục Thống kê 9-2009
Theo thông báo
của TCTK cuối tháng 12-2009 tăng trưởng GDP là 5,32% và chỉ số lạm
phát là 6.88%.
Chú ý: Chỉ số ICOR thời kỳ 2000 – 2006 của nước ta là 5,0. Một số chuyên gia
đánh giá chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2008 cho toàn bộ nền kinh tế nếu tính
đủ là <7, và riêng cho khu vực nhà nước là <8 hoặc 2 con số, trong khi đó
của khu vực tư nhân là 3,2, của khu vực FDI là 5,2.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung quốc chỉ số ICOR của nhiều thập
kỷ gần đây, phổ biến là 3 hoặc >3, nghĩa là chỉ số ICOR của nước ta cao gấp
rưỡi hoặc gấp đôi so với những nước này.
Theo WB từ tháng 12-2007 đến tháng 6-2008 tài sản thị trường chứng khoán
Việt Nam giảm mất 17 tỷ USD – nghĩa là mất một nửa giá trị; lạm phát trong 8
tháng đầu năm 2008 của Việt Nam là 28,3%.
Vân… vân…
Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á

Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
căn cứ vào 9 tiêu chí chủ yếu là (1)thể ca, sản phẩm và doanh nghiệp.
Trong số các quốc gia được đem ra so sánh, năm 2006 nước ta xếp hạng thứ 64,
năm 2007 xếp hạng thứ 68, năm 2008 xếp hạng thứ 70; nếu so sánh riêng trong
khu vực Đông Á, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines và Campuchia (Myanmar
chưa được xếp hạng).
Đấy là các tín hiệu rõ nét minh họa thêm tính hiệu quả của nền kinh tế nước
ta ngày càng giảm sút.
Hiện nay Việt Nam được liệt vào danh sách các nước đứng đầu thế giới về giá
thuê trụ sở văn phòng cho các doanh nghiệp nước ngoài, về chi phí trung
gian, về tốn kém thời gian trong xử lí các dịch vụ phục vụ kinh doanh... Bộ
Công Thương nước ta cũng thừa nhận tình trạng sử dụng đất đai và tài nguyên
ở nước ta rất lãng phí, mức độ tiêu hao năng lượng cho một sản phẩm mới
trung bình cao gấp đôi so với Thái Lan, Malaysia...
Các làng ung thư, các dòng sông chết - nhiều vùng kinh tế quan trọng hầu như
không còn một con sông nào được coi là không bị ô nhiễm, nạn khan hiếm nước
nước và nước sạch cũng như nhiều tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và đang
vượt khỏi khả năng kiểm soát của bộ máy nhà nước. Chất lượng cuộc sống tiếp
tục xuống cấp – thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực giáo dục và y tế, ách tắc
giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn quan liêu tham nhũng gia tăng...
3. Càng phát triển, nền kinh tế càng tích tụ nhiều ách tắc hay mất cân đối
mới, thậm chí mất phương hướng phát triển Những hiện tượng ách tắc này được đặt dưới cái tên gọi chung là những
thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng gay gắt
-
giữa khả năng đáp ứng
của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển của nền kinh tế; giữa sự phát
triển yếu kém nguồn nhân lực và đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội;
-
giữa khả năng quản trị
quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa
và hội nhập tình trạng quan liêu và nạn tham nhũng rất nặng nề, khả năng
thực thi pháp luật yếu kém..;
-
đặc biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách rất nghiêm
trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và được coi là ở mức báo động.
Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và
ước khoảng 10% GDP; song đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp
2,4 lần so với năm 2006) và đến hết tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên
tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng trên 20% GDP/năm)... Nếu phân tích các
quốc gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức tranh trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung
Quốc và các nước châu Á – là các quốc gia có công nghệ thấp). Thâm hụt ngân
sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm, riêng năm 2009 dự kiến là 8%
GDP/năm.
-
Mất cân đối giữa một bên là năng lực và chất lượng thấp trong việc hoạch
định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển.., và một bên là đòi hỏi
phát triển mọi mặt đất nước. Tình trạng hiện nay là càng phát triển càng rối
và không đồng bộ. Quyết định sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô Hà Nội nhưng đến bây
giờ chưa có quy hoạch tổng thể thủ đô được mở rộng, quyết định khai thác
bauxite ở Tây Nguyên và quy trình triển khai lộn ngược của 2 dự án khai thác
bauxite ở Nhân Cơ và Tân Rai là hai ví dụ điển hình của tình trạng rối ren
này…Còn
nhiều quyết định kinh tế hay dự án khác vội vã, kém chất lượng với hệ quả
khôn lường như vậy. Không thể không đặt câu hỏi: Tại sao những chuyện như
thế cứ lặp đi lặp lại qua các năm?
-
vân vân...
Hệ quả lớn nhất của tình trạng này là càng phát triển tích tụ ngày càng
nhiều ách tắc và mất cân đối lớn, phá vỡ mọi chiến lược hay chủ trương phát
triển có tính dài hạn.
4. Một số vấn đề lớn trong quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua
4.1.
Trên thực tế chưa có một chiến lược công nghiệp hóa?
Đọc lại các văn kiện các Đại hội Đảng VII, VIII, IX và X về công nghiệp hóa
– hiện đại hóa, điều đáng chú ý là trong khi các văn kiện này dành nhiều sự
chú ý và nêu nhiều yêu cầu cụ thể cho quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa trong công nghiệp hóa, phần bàn về nội dung công nghiệp hóa lại chỉ
nêu: không công nghiệp hóa theo kiểu cũ, cần tận dụng lợi thế so sánh,
cần đẩy mạnh hướng về xuất khẩu nhưng chú ý đến thay thế nhập khẩu các sản
phẩm tự làm ra có lãi, chú ý thu hút FDI, các chỉ tiêu tăng trưởng của từng
kế hoạch 5 năm, và cái đích: vào năm 2020 trở thành một
nước công nghiệp hóa (gần đây điều chỉnh là: cơ bản trở thành một nước công
nghiệp hóa) theo hướng hiện đại.
Các nghị quyết viết như vậy cho phép rút ra kết luận: Đấy là những chỉ
tiêu số lượng cần đạt được của từng kế hoạch 5 năm, một số quan điểm và cái
đích mong muốn cho năm 2020, chứ không phải là một chiến lược công nghiệp
hóa.
Nhìn lại chặng đường 25 năm công nghiệp hóa, thực tế cho thấy:
(a)
Rất
khó nói rằng quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam đã nhất quán đi theo
một chiến lược phát triển hay một quan điểm chiến lược rõ rệt nào đã được
xác lập, sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa ra làm sao? nước
Việt Nam công nghiệp hóa sẽ định chiếm chỗ đứng ở đâu trong thị trường kinh
tế thế giới? – (thời toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày nay không thể có một
quốc gia hay một nền kinh tế công nghiệp hóa mà không trả lời chuẩn xác hai
câu hỏi này; công nghiệp hóa của một quốc gia ngày nay nhất thiết phải gắn
liền với kinh tế thế giới). Thậm chí có thể nói gần như thiếu hẳn một
chiến lược công nghiệp hóa thống nhất và xuyên xuốt các kỳ đại hội Đảng và
các nhiệm kỳ với một lộ trình rõ ràng, khiến cho không có được quá trình
thực hiện liên tục của một chiến lược, cái đích phải đạt được trở nên mơ hồ,
mâu thuẫn, mỗi Đại hội Đảng nói một khác (hiện nay nói là:
Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020!).
(b)
Việt
Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử lý thỏa đáng
– điều này có nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình để không phải lặp
lại những sai lầm của các nước đi trước, tránh các nguy cơ trở thành “bải
thải công nghiệp” của các nước khác, đồng thời tìm ra cho mình con đường
thuận lợi hơn. Thị trường thường chật cứng đối với nước đi sau – vì vậy phải
khai thác lợi thế nước đi sau trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách
(các “niches”), vào các chuỗi cung - ứng trong thị trường thế
giới.., mà muốn thế phải có các chính sách giáo dục đào tạo, kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa và chính sách đối ngoại… cho phép liên kết,
chiếm lĩnh những khâu nào đó trên thị trường thế giới; hiển nhiên 25 năm qua
những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không được đặt ra đúng tầm để phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta.
(c)
Thiếu
hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát triển kết cấu hạ tầng
đi song song hoặc đi trước một bước mở đường cho sự tiến triển của công
nghiệp hóa với nội dung khai thác thị trường ngách và chiếm thị trường mới.
(d)
Thiếu
hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp công nghiệp hóa / hiện
đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể nói hệ thống giáo dục và chính
sách phát triển nguồn nhân lực hiện nay là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia
tăng sự tụt hậu của đất nước và để lại nhiều hệ quả lâu dài.
(e)
Chỉ
đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nội dung thay đổi tỷ trọng các
khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), song không kèm theo các
chính sách vỹ mô thực hiện thay đổi cơ cấu kinh tế về chất lượng; do đó về
cơ bản toàn bộ kinh tế vẫn tăng trưởng theo số lượng, hiệu quả và tính bền
vững nhìn chung thấp. Đại hội Đảng đều phê phán tình trạng cơ cấu kinh tế
chuyển đổi chậm, nhưng đến nay chưa có kế sách gì đảo ngược tình hình này.
(f)
Do
chiến lược công nghiệp hóa không rõ ràng và do cách điều hành kinh tế vỹ mô
theo kiểu phân cấp (trên thực tế là phân tán và manh mún), dẫn tới hình
thành từ hàng chục năm nay “nền kinh tế GDP tỉnh” với nhiều hệ
quả trầm trọng. Trên thực tế công nghiệp hóa ở nhiều tỉnh được hiểu là thi
đua mở các khu công nghiệp, khai thác tài nguyên không tái tạo được, phát
triển ồ ạt các sản phẩm thượng nguồn (trong đó phần lớn là nguyên liệu thô).
“Nền kinh tế GDP tỉnh” cùng với các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động theo
kiểu độc quyền khiến cho quá trình công nghiệp hóa bị phân khúc hay xé lẻ
trên nhiều phương diện, đồng thời đẻ ra nhiều hệ quả chính trị, xã hội, văn
hóa rất khó khắc phục.
(g)
Đặc
biệt nghiêm trọng là các Đại hội đều thừa nhận cải cách chính trị không đi
kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã hội, do đó chẳng những không
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, không phát huy được cái mạnh và
những thuận lợi của đất nước, thậm chí làm cho quá trình này chậm lại; công
nghiệp hóa diễn ra trong bối cảnh quan liêu tham nhũng ngày càng nặng nề.
Tình hình đã tới mức sự bất cập và lạc hậu của thể chế chính trị trở thành
rào cản chính của quá trình công nghiệp hóa.
(h)
vân... vân...
Tất cả những điều vừa trình bầy toát lên một sự thật: Nước ta sau 25 năm
trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với cái tên gọi
của nó. Qrình công nghiệp hóa 25 năm qua trên thực tế chủ yếu do sự
lôi kéo, dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ
bên ngoài (nghĩa là mang tính cơ hội rất cao), nhiều hơn là do chủ động thúc
đẩy theo một hướng chiến lược được xác lập của thể chế chính trị và do sự
giác ngộ với tầm nhìn sắc bén của những người lãnh đạo. Cần nói ngay, phát
triển như thế đang ngày một gây ra ách tắc và rối loạn, dẫn tới sự lệ thuộc
ngày càng nguy hiểm. Gạt mọi chuyện lý lẽ sang một bên, điều đặc biệt quan
trọng là dù có hay không có chiến lược, mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa
vào năm 2020 là không khả thi.
4.2.
Hai vấn đề lớn trong xu hướng công nghiệp hóa hiện nay của đất nước
Một là: Vai trò con người trong công nghiệp hóa
Các Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy nội lực. Song quan điểm đúng đắn
này lại được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: Cái gì tự làm được thì cố làm bằng
vốn liếng, sức lực của chính mình (trên thực tế rất gần với nội dung “tự
cung tự túc”). Trong khi đó 25 năm công nghiệp hóa qua chưa đặt ra vấn đề
phát huy nội lực trước hết có nghĩa là phát huy lợi thế và nguồn lực lớn
nhất của nước ta là con người Việt Nam.
Quan điểm chiến lược phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là
con người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định nội dung cho toàn bộ
quá trình công nghiệp hóa của nước ta cho đến khi tới đích hoàn thành công
nghiệp hóa và cho các giai đoạn phát triển đất nước sau đó. Quan điểm chiến
lược này cho đến nay vẫn chưa hình thành. Chính vì lẽ này, đến nay nước
ta vẫn thiếu hẳn một chiến lược phát triển con người và chưa có được một thể
chế chính trị - xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển con người để phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa.
Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu vấn đề
này chủ yếu là đối tượng phục vụ - theo những khía cạnh phát triển giáo dục,
văn hóa, xã hội. Ngay quan điểm này cũng chưa làm được bao nhiêu, chưa thể
nói con người đã trở thành trung tâm phục vụ của mọi chính sách phát triển
kinh tế xã hội. Chưa đặt ra vấn đề phát triển con người thành chủ thể, thành
nguồn lực lớn nhất, và là động lực quyết định của quá trình công nghiệp hóa.
Càng chưa thể nói là con người với tính cách là công dân của đất nước được
phát triển thành người chủ của đất nước, của hệ thống chính trị và bộ máy
nhà nước. Trong khi đó nhiều quyền và quyền lợi của người dân bị vi phạm,
nhiều trường hợp bị vi phạm nghiêm trọng.
Xin nhấn mạnh (a)quan điểm coi con người là trung tâm như ghi trong các
nghị quyết của Đảng và (b)quan điểm phát huy con người với tính cách là thế
mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa như
vừa trình bày trên là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Các Đại hội Đảng VII và VIII nhấn mạnh không công nghiệp hóa theo kiểu cũ.
Song như đã trình bầy trên, trong thực tế công nghiệp hóa diễn ra 25 năm qua
chủ yếu dựa trên 4 yếu tố (1) lao động rẻ, (2)khai thác tài nguyên thiên
nhiên, (3)đẩy mạnh tăng trưởng nhờ đầu tư, (4)sử dụng đất đai và tiêu hao
môi trường – thực chất đấy là công nghiệp hóa theo tư duy cũ và
kiểu cũ, bởi lẽ thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước
trong thời đại mới ngày nay là con người hầu như không được tính đến thỏa
đáng (chỉ mới chú trọng đến lao động dư thừa và giá rẻ). Cũng vì lẽ này tiến
bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào nước ta rất chậm, mặc dù nước ta
ngày nay đang ở trong thời đại thông tin.
Hai là: Sa đà vào kinh tế thượng nguồn
Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh hướng
càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các tài
nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng rất thấp,
duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội rất cao... Đặc biệt là trong các “nền kinh tế GDP
tỉnh”, hầu như tất cả các tỉnh có khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì
đều coi đấy là thế mạnh của mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ
tướng đã phải ra lệnh đình chỉ.
Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối với một
nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát triển kinh tế
thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công nghiệp hóa, thậm chí
coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan trọng, là thế mạnh của công
nghiệp hóa. Tại nhiều tỉnh trong nước đã và đang xảy ra phát triển kinh tế
thượng nguồn với bất kỳ giá nào, thậm chí có nơi chủ yếu là để gây thành
tích, phục vụ yêu cầu “giữ ghế” hay “chạy ghế”. Phát triển như vậy còn là hệ
quả của tư duy lười biếng, dốt nát, đẽo gọt đất nước – song trên mặt nhiều
báo cáo các kỳ đại hội các đảng bộ tỉnh được coi đây là thành tích!
Sai lầm này 25 năm qua rất trầm trọng, vì tại nhiều nơi khoáng sản và các
tài nhiên thiên nhiên khác đã được khai thác đến cạn kiệt, hủy hoại môi
trường, chỉ để tiêu thụ lao động cơ bắp, có nơi chủ yếu để phục vụ xuất khẩu
nguyên liệu hay sản phẩm thô sang Trung Quốc.
Phát triển kinh tế thượng nguồn và các sản phẩm hàm lượng chế biến thấp là
điểm nổi bật nhất của mô hình phát triển theo chiều rộng 25 năm qua.
4.3.
Sơ bộ đánh giá một số hệ quả
Để thấy rõ triển vọng nguy hiểm của công nghiệp hóa theo mô hình phát
triển theo chiều rộng, dưới đây xin nêu ra một số vấn đề:
·
Các xí nghiệp xi-măng,
luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới
tình hình nước ta vào năm 2020 sẽ dư thừa khoảng một chục triệu tấn xi
măng/năm và khoảng hai chục triệu tấn thép/năm trong tình trạng đất nước
ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của
nước ta như vậy là để trở thành cường quốc xi-măng và thép trong thế kỷ 21
này? Sắp tới còn xuất hiện công nghiệp bô-xít để sơ chế ra nguyên liệu
alumin trên Tây Nguyên với nhiều hệ quả trầm trọng, bất chấp sự phản đối sâu
rộng của dư luân khắp nơi trong nước. Hoàn thành những dự án đã triển
khai hay đã được phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa hẹn cảnh quan môi
trường tự nhiên nhiều vùng của đất nước sẽ bị “mặt trăng hóa”; kinh tế nước
ta sẽ đổ vỡ, vì bị chính xi-măng và thép thô kém khả năng cạnh tranh của
chúng ta đè bẹp; riêng alumin sẽ đem lại cho đất nước không phải chỉ sự tàn
phá Tây Nguyên và các vùng chung quanh mà cả sự lệ thuộc mới... Trong
khi một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp
ô-tô, công nghiệp điện tử… có thể được coi là thất bại, nước ta lại nhập về
công nghiệp chế tạo cơ khí nặng như đóng tầu đang thua lỗ… Công nghiệp hóa
như vậy nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp rất lớn.
·
Vào năm 2015 trở đi,
nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải nhập khẩu, trong khi đó xuất
khẩu than và dầu của nước ta xuốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của
đất nước! Năm 2012 đã tính đến phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát
triển thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng gây ra nhiều hệ
quả nghiêm trọng.
Trong khi đó nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà xoát, đánh giá lại
chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực xử lý nghiêm
khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng quá lớn đang
diễn ra hàng chục năm nay. Gần đây trên phương tiện truyền thông rộ lên dự
án khai thác than bùn đồng bằng Bắc Bộ thật hãi hùng! Đối mặt với tình trạng
thiếu hụt năng lượng ngày càng nghiêm trọng của đất nước, lãnh đạo quyết
định xây dựng một lúc hai nhà máy điện hạt nhân gồm 4 lò phản ứng ở Ninh
Thuận không phải loại công nghệ tiên tiến nhất (mặc dù nước ta là nước đi
sau), với nhiều rủi ro còn đang bàn cãi chưa ngã ngũ.
Tình hình cho thấy vấn đề năng lượng của quốc gia không thể giải quyết theo
kiểu “ngứa đâu gãi nấy!”, “vớ được gì làm nấy!” (một loại chủ nghĩa cơ hội
và tác động của lobby?)... Trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có một chiến
lược năng lượng được cân nhắc thấu đáo.
·
Nếu đánh giá nghiêm
túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả những chi phí bắt buộc cho
khắc phục những tác động ngoại vi của việc khai thác than, hoàn trả môi
trưởng tự nhiên nơi khai thác, sự thất thoát hàng chục triệu tấn than
lậu/năm, sự tàn phá môi trường tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái
mất so với đòi hỏi của chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân… khó có thể
coi việc khai thác mỗi năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là môt
thành tựu kinh tế. Đúng hơn nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và
một sai lầm về chiến lược năng lượng – không phải do chủ
trương khai thác than, mà do năng lực quản lý và hiệu quả kinh tế yếu kém;
đặc biệt quan trọng là do thiếu hẳn một chiến lược năng lượng quốc gia được
xác định với những luận cứ vững chắc làm cơ sở cho việc khai thác. Thậm
chí còn có thể coi việc khai thác than Quảng Ninh như vừa qua trong khi đất
nước ngày càng khan hiếm năng lượng là ví dụ điển hình nhất trong nhiều ví
dụ của tình trạng “bóc ngắn cắn dài” tài nguyên quốc gia, các thế hệ
tương lai sẽ phải trả giá!
Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác đồng, khai
thác các khoáng sản khác... hầu hết chỉ để cho xuất khẩu nguyên liệu, với
những hệ quả xấu tương tự.
·
Rừng phòng hộ và rừng
tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại rất ít; đặc biệt là rừng đầu
nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày
càng trở nên nghiêm trọng hơn và khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa
mạc hóa cùng với tình trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp với
tốc độ rất đáng lo ngại. Riêng cơn bão Ketsana 26-09-2009 vừa qua gây ra lũ
lụt lớn nhiều nơi ở Tây Nguyên còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với việc
khai thác bauxite ở Tây Nguyên – nhất là đối với các hồ chứa chất thải bùn
đỏ nhiễm hóa chất độc dự kiến sẽ được xây dựng ở vùng này! Xin hãy đến tận
nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển miền Trung, dù là
những cánh rừng nham nhở do khai thác quặng sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang
Trung Quốc, các vùng khai thác vàng bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình
Thuận... – mà chủ yếu là khai thác lậu, những dòng sông chết, những con
sông bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do bán cát, những cánh đồng hoang do các
dự án treo... để nhìn tận mắt đất nước đang bị băm vằm và ô nhiễm như thế
nào!
·
Xin hãy đối chiếu thực
tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn
lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển
những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng
và luyện thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất
alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo” (Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198)
·
Vân... vân...
Nhìn dài hạn đến năm 2020, hoặc 2030.., có thể nói ngay từ bây giờ
nếu không có quyết tâm thay đổi hẳn tư duy về phát triển để hướng mạnh vào
phát triển bền vững chủ yếu dựa vào phát huy nguồn lực con người, nếu không
đảo ngược được xu thế phát triển như đang diễn ra, nếu cứ tiếp tục phát
triển theo hướng xâm phạm môi trường tự nhiên, bóc lột các nguồn tài nguyên
không tái tạo được một cách không thương tiếc, viễn cảnh của nước ta thật
rất đáng lo ngại! Các thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt.
Trong khi đó tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu ngày một gay gắt, nhất
là đối với nước ta.
5. Vấn đề nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa hiện nay
Nghị quyết 26 Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành ngày 05-08-2008 viết:
“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và
to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản
xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên
thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi
mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to
lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ
sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc
độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt
nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là
sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt
hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy
mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ
chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất
hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống vật chất và
tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng
đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn
và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.”
Đấy là bức tranh khái quát trong văn kiện chính thức của Đảng về tình hình
nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay (theo cách nói “tam
nông”) - đương nhiên vẫn theo cách nhìn so ta bây giờ với ta trước đây
và còn bỏ qua nhiều vấn đề hệ trọng khác trong nông thôn.
Trước khi nêu một số vấn đề cụ thể cần đặc biệt quan tâm, xin nhấn mạnh là
nông nghiệp nước ta nói chung, đặc biệt là nông dân nước ta nói riêng, đã
góp phần cực kỳ quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên
mọi phương diện: đảo ngược tình thế nguy hiểm của đất nước, mở đầu và tạo
đà cho toàn bộ công cuộc đổi mới phát triển, bảo đảm an ninh lương thực và
an ninh chính trị, tạo ra tiềm lực mới cho đất nước, mở rộng thị trường kinh
tế đối ngoại, tăng cường khả năng hội nhập của đất nước trong giai đoạn đất
nước còn nghèo và nền kinh tế còn chậm phát triển...
Đặc biệt cần nhấn mạnh sự đóng góp của nông dân có ý nghĩa rất to lớn và vô
cùng quan trọng. Chính những thành tựu này cho thấy vai trò của nông dân và
nông nghiệp trong quá trình phát triển đất nước – cụ thể ở đây là trong quá
trình công nghiệp hóa/hiện đại hóa và trong hội nhập kinh tế thế giới chưa
được nhận thức đúng tầm, dẫn đến những yếu kém và tồn tại lớn như đã nêu
trong NQTƯ 26 khóa X.
Nông dân là quân chủ lực của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, có
những đóng góp có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng trong suốt 25 năm
đổi mới vừa qua như trên đã nói, nhưng hiện nay lại là thành phần xã hội
đang chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị
hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Một bộ phận nông dân vượt qua được tác
động của quá trình này và tìm được con đường sản xuất kinh doanh dẫn tới một
cuộc sống khá giả hơn; song bộ phận này chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn ở nông
thôn.
Các chính sách hiện hành và việc thực thi chúng cho thấy không thể ngăn chặn
tình trạng bần cùng hoá vẫn tiếp tục diễn ra đối với bộ phận nông dân bị tác
động trực tiếp. Nhìn chung, khoảng cách thu nhập của nông dân – đặc biệt là
của của bộ phận nông dân bị tác động trực tiếp của quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa - đang gia tăng ngày càng nhanh, dẫn đến nhiều hệ quả khác
nhau của phân hóa xã hội. Chất lượng cuộc sống của họ, các quyền lợi về giáo
dục, y tế, các phúc lợi xã hội khác của họ trên thực tế ngày càng giảm sút
so với sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế cả nước. Mặt khác nông dân
cũng là nạn nhân chính của thiên tai, dịch bệnh (cho người và cho nông
nghiệp), tình trạng môi trường tự nhiên bị tàn phá, nạn lạm phát và nhiều
tác động khác của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cũng như của tình
trạng quan liêu tham nhũng nói chung (ở nông thôn rất nặng so với thành thị).
Cần đặc biệt lưu ý là sự biến động của thị trường và giá cả (được mùa rớt
giá, được giá mất mùa..; hiện tượng nông dân bị ép mua ép bán <đầu
vào – đầu ra>, hiện tượng lúc phải chặt loại cây này, lúc phải bỏ chăn nuôi
kia với nhiều tổn thất lớn cho nông dân...) gần như trở thành thách thức
thường xuyên đối với nông dân. Họ hầu như không có khả năng gì đáng kể để tự
bảo hộ, để tự đối phó với những thách thức này. Có thế nói họ hầu như bị bỏ
mặc, trong khi đó sự bảo hộ và những hậu thuẫn từ phía nhà nước và các cơ
quan chức năng có thể xem như muối bỏ bể. Một ví dụ trong trăm ngàn ví dụ:
Hàng chục năm nay nông dân Nam bộ là chủ lực trong xuất khẩu gạo, song đến
nay vẫn chưa có cách gì thỏa đáng giảm thiểu sự thiệt hại khá lớn trong thu
hoạch mùa màng, thiếu nghiêm trọng các silo cất giữ lúa, đầu vào và đầu ra
cho sản xuất của họ bị tư thương và thậm chí của cả các công ty quốc doanh
ép giá... Trong khi đó các hiện tượng như ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch
bệnh, các hệ quả của biến đổi khí hậu, cường độ canh tác, việc sử dụng ngày
càng nhiều hoá chất, sự khan hiếm nước và nguồn nước sạch… ngày càng trầm
trọng. Thực tế này khiến cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi ngày càng
rủi ro, bấp bênh, làm nghiêm trọng thêm tình trạng bần cùng hoá nông dân,
cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Cần lưu ý, tình trạng bần cùng hóa nông dân cùng với nhiều thiệt thòi khác
của nông thôn (nhìn chung còn rất lạc hậu) tự nó đang xâm hại nghiêm trọng
hay tước bỏ nhiều quyền của người nông dân. Đầu tiên phải kể đến: học hành
mở mang trí tuệ, tiếp cận với tri thức và công nghệ, quyền thụ hưởng các
phúc lợi xã hội khác... nhằm nâng cao đời sống kinh tế cũng như nâng cao
quyền năng của chính mình trong xã hội. Đấy là những điều kiện hàng đầu để
người nông dân tự bảo vệ được mình và tìm đường thoát khỏi cái nghèo và lạc
hậu. Song những điều kiện hàng đầu này thường xuyên bị cái nghèo và bất công
cướp đi, khiến cho cái nghèo và lạc hậu của họ trở thành truyền kiếp. Sự
thiếu vắng của xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền trong nông thôn làm cho
tình trạng này của họ trầm trọng thêm. Tất cả giải thích vì sao sau 25 năm
công nghiệp hóa mà nông thôn nước ta nhìn chung vẫn rất lạc hậu, chỉ cần
bước chân ra khỏi thành phố là có thể thấy tận mắt. Trong khi đó khoảng
70-80% các vụ khiếu kiện hàng năm trong cả nước trước hết là của nông dân.
Thực tế vừa nói trên đặt ra nhiều thách thức mới trong tương lai – nhất là
trong tình hình nước ta ngày càng chật, người ngày càng đông: nước ta có dân
số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần mức
của thế giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc...
Trong khi đó nguy cơ sa mạc hóa trong đất liền, nguy cơ biển lấn đất và
nhiễm mặn, các thiên tai khác do hệ quả của hiệu ứng nhà kính và biến đổi
khí hậu ngày càng lớn.
Tại nhiều vùng nông nghiệp rộng lớn của nước ta cứ 1 ha đồng ruộng
bị chuyển đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp hoá và đô thị hoá khiến cho
20 – 30 nông dân mất việc làm và và 3 – 4 hộ mất kế sinh nhai. Trong khi đó
tốc độ chuyển dịch ngành nghề cho nông dân diễn ra rất chậm, sau 25 năm đổi
mới và tiến hành công nghiệp hoá tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn chiếm
trên 60% lao động cả nước. Cho đến nay mới chỉ có 28% lao động cả nước được
đào tạo về nghề nghiệp, tỷ lệ này trong nông dân còn thấp hơn nhiều lần.
Thực tế này là nguồn gốc nhiều hiện tượng xã hội đau lòng, trước hết là nạn
thất nghiệp, các “chợ vợ” cho người nước ngoài, nạn mãi dâm, tình trạng bán
cả cơ nghiệp và tài sản tìm đường đi lao động ở nước ngoài với nhiều cơ cực
và bị lừa gạt… Tình trạng khiếu kiện đất đai nóng bỏng từ hàng thập kỷ nay,
sắp tới sẽ còn quyết liệt hơn khi phải dành một diện tích đáng kể cho phát
triển đường xá và các công trình kinh tế khác. Trong khi đó thiếu hẳn một
quy hoạch tổng thế cho cả nước có khả năng đón đầu sự phát triển này và giảm
bớt những tổn thất.
Nông dân các dân tộc ít người ở các vùng núi còn phải chịu đựng
nhiều thiệt thòi hơn, do rừng núi vốn là quê hương lâu đời, không gian sinh
tồn và không gian văn hoá của họ đang ngày càng bị lấn chiếm. Nạn phá rừng
bừa bãi của các công ty và lâm tặc, việc lấn đất lấn rừng, làm lâm trường,
làm kinh tế trang trại... cùng với tình trạng nhập cư ồ ạt đang uy hiếp ngày
càng nặng nề sự tồn tại và tương lai các tộc ít người ở nước ta. Còn quá
nhiều vấn đề tồn tại trong việc tái định cư và ổn định cuộc sống cho đồng
bào các tộc ít người phải di dời đi nơi khác do những công trình thủy điện
đã hoàn thành hoặc đang xây dựng... Nên đến tận nơi các công trình thủy
điện chi chít miền Trung để thấy tận mắt cảnh quan và môi trường tự nhiên,
những cánh ruộng và đất đai trồng trọt vô cùng quý giá tại đây, môi trường
xã hội, quê hương văn hóa bản địa... của đồng bào các tộc ít người ở đây bị
tàn phá, bị cướp đi như thế nào!
Nhìn chung, những nỗ lực bỏ ra cho việc cải thiện đời sống kinh tế - văn hoá
– xã hội đối với đồng bào các tộc ít người là to lớn so với tình hình đất
nước còn nghèo, song không đảo ngược được xu thế nói trên – trong đó nguyên
nhân chính lại là sự yếu kém về năng lực và phẩm chất của chính quyền các
cấp. Tình hình đang trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong việc khai thác
bauxite ở Tây Nguyên. Nhà văn Nguyên Ngọc cảnh báo:
“Chấp nhận chương trình này
(khai thác bauxite Tây Nguyên) là chúng ta chấp nhận không còn Tây Nguyên,
không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững,
không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước ; là chấp nhận phát triển bằng bất
cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi
trọng sự tồn tại của các tộc người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội
từng là chủ nhân của vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.”
Làng nghề (nói cho đúng hơn ở nhiều nơi là nghề riêng của làng) và
kinh tế trang trại là hai hình thái kinh tế có khả năng lớn trong việc thu
hút lao động ở nông thôn, bao gồm cả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ
phận nông dân nhất định. Hai hình thái kinh tế này trong những năm qua phát
triển mạnh, góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn. Song sự phát triển
này chủ yếu do sự vận động tự thân của nông thôn tìm đường tự cứu mình và
phát triển chính mình. Chính sách của nhà nước và những khuyến khích hay hậu
thuẫn cần thiết phải có cho hai hình thái kinh tế này tuy đã làm được một số
việc rất khiêm tốn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí nhiều địa phương
còn tồn tại một số rào cản – có nghĩa trên thực tế là không khuyến khích.
Một vấn nạn chưa có giải pháp là tổn thất lớn hàng năm về người
và của, về môi trường đất đai do thiên tai gây ra, lặp đi lặp lại trong một
số vùng nhất định. Thực tế này cho thấy đang thiếu hẳn một chủ trương chiến
lược giảm thiểu dần những tổn thất và hậu quả của thiên tai – bao gồm cả
việc di dời hoặc quy định lại những vùng dân cư nhất định mà thiên tai
thường xuyên lặp lại, từng bước kiên cố hóa lâu dài, hay hiện đại hóa một
số những công trình nhất định thuộc hệ thống phòng chống thiên tai... Hiện
nay vẫn chưa hình thành được những quan điểm hay chủ trương chiến lược dự
phòng, các công việc phải triển khai ngay từ bây giờ trở đi cho tình huống
vào những năm 2030, 2050…
Nước ta là một nước nông nghiệp, nhưng cho đến nay thực sự đang thiếu hẳn
một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững và hài hoà với quá trình công
nghiệp hoá, đô thị hoá. Thực tế đang diễn ra một quá trình công nghiệp hoá
và đô thị hoá – kể cả hiện tượng xây dựng bừa bãi các sân golf
– ngày càng gây ra nhiều gánh nặng mới cho nông dân và nông thôn.
Nông nghiệp bền vững
Vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nói:
Nông
nghiệp bền vững nhìn về nhiều phương diện thực chất là một cuộc cách
mạng nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, là một bộ phận hữu cơ
của quá trình công nghiệp hóa.
Là nước
đi sau, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là hướng tới việc từng
bước đưa vào nông nghiệp những thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ, những thành tựu mới của văn minh nhân loại -
kể cả trong lĩnh vực tổ chức, quản lý việc canh tác, kinh doanh.., - là
quy hoạch lại phát triển nông nghiệp, xắp xếp lại nông thôn, tổ chức lại
quản lý nông thôn, xây dựng đời sống tinh thần và văn hóa mới trong xã
hội nông thôn... -,.., tất cả nhằm tạo ra lợi thế phát triển tối ưu
chung cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước...
Cốt lõi
của phát triển nông nghiệp bền vững là (1)phát triển được nguồn lực con
người trong nông nghiệp, (2)tạo ra được nền nông nghiệp có năng xuất và
hiệu quả kinh tế cao, (3)nền nông nghiệp có khả năng gìn giữ và tái tạo
được độ phì nhiêu của đất đai, (4)nền nông nghiệp có khả năng góp phần
quyết định gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia, (5)nền nông nghiệp
có khả năng đóng góp tốt nhất vào phát huy lợi thế so sánh của quốc gia
trong nền kinh tế toàn cầu hóa của thế giới...
Một nền
nông nghiệp cao như thế, có nhiều hàm lượng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ như thế, sẽ làm mờ đi ranh giới giữa nông nghiệp và công nghiệp, và
vì lẽ này nó trở thành một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lợi thế về nông nghiệp của nước ta
rất lớn, song rất cần một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững như
thế để phát huy, để góp phần tăng thêm thế mạnh cho đất nước. Đặt vấn đề
như vậy rồi đối chiếu với chính sách hiện hành và các việc đang làm, sẽ
thấy nhiều việc phải làm khác đi, nhất là sẽ thấy tính bức xúc của việc
xây dựng chiến lược phát triền nông nghiệp bền vững.
Hướng về
một nền nông nghiệp bền vững như thế là nhiệm vụ quốc gia phải phấn đấu
xuốt cả một thế hệ con người, hoặc thậm chí của vài thế hệ, và hoàn toàn
không thể tiếp cận bằng những quan điểm “giai cấp”, “quan hệ sản xuất”,
“ý thức hệ”... đang chi phối đường lối chính sách hiện hành đối với phát
triển nông nghiệp. |
Còn phải chờ xem những chủ trương chính sách mới đề ra gần đây cho về vấn đề
“tam nông” (Nghị quyết 26, tháng 08-2008) sẽ được thực hiện ra saoao,
mặc dù như thế là chậm. Cái đúng được đề ra trong nghị quyết 26 là coi giải
quyết những vấn đề của nông dân và nông nghiệp là một nhiệm vụ có vị trí
chiến lược trong công nghiệp hóa và trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, là
trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, điều quyết
định là sẽ có những biện pháp thực hiện cụ thể như thế nào?
Tồn tại lớn nhất là cho đến nay vẫn chưa tìm ra được con đường phát triển
một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn liền với việc chuyển dịch một bộ
phận ngày càng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Tất cả các
Luật và các chính sách hiện hành không đáp ứng được đòi hỏi này. Tất cả
những nỗ lực cụ thể loay hoay chung quanh việc cải tiến mô hình hợp tác xã
cũng không giải quyết được vấn đề.
Không giải quyết thành công vấn đề nông dân, sẽ không có một nước Việt Nam
công nghiệp hóa. Nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận công nghệ mới, việc
làm, phát triển nông phẩm và thực phẩm sạch và cao cấp, đặc biệt là phát
triển nông nghiệp dựa trên công nghệ sinh học và gìn giữ môi trường sinh
thái, ngày càng mở rộng thị trường trong nước và bên ngoài cho sản phẩm cao
cấp của mình, sự hậu thuẫn và bảo hộ không thể thiếu của nhà nước... đó là
những đòi hỏi nóng bỏng của nông dân và của nền nông nghiệp Việt Nam, Nhà
nước và toàn xã hội có nghĩa vụ phải đáp ứng tốt nhất.
Rất nên tận dụng lợi thế nước đi sau, tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại và
hội nhập kinh tế thế giới tính đến phát triển nông phẩm và thực phẩm cao cấp
có giá trị gia tăng cao, coi đây là một nội dung quan trọng trong công
nghiệp hóa của nước ta, phát huy tôi đa lợi thế so sánh mọi mặt của nước ta.
Chú ý:
có lẽ không nên dùng khái niệm “tam nông”, vì có hơi hướng học mót, không
sáng tạo. Trên hết cả, khái niệm “tam nông” không nói lên được mọi vấn của
vấn đề nông nghiệp trong tổng thể hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa. Ngay
ở Trung Quốc đã bắt đầu phải nói đến “tứ nông”. Chẳng lẽ rồi đây ta cũng sẽ
lại nói theo “tứ nông”? Phát triển nông nghiệp bền vững đòi hỏi phải ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, phải có sự hỗ trợ và kết hợp
rất quan trọng của công nghiệp. Vì lẽ này phát triển nông nghiệp bền vững
phải là một thành phần chiến lược trong toàn bộ chiến lược công nghiệp hóa.
Nói ngắn gọn, muốn phát triển nông nghiệp bền vững phải thay đổi cơ bản quan
niệm và quá trình công nghiệp hóa / đô thị hóa đang diễn ra hiện nay ở nước
ta. Không phát triển thành công nông nghiệp bền vững, quá trình công nghiệp
hóa ở nước ta có nguy cơ sẽ chỉ mang lại một bãi thải công nghiệp toàn quốc!
Chính vì lẽ này, công nghiệp hóa thực sự là một quá trình quy hoạch, xắp xếp
lại giang san đất nước.
6. Chuyển sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển theo chiều
sâu - trở thành đòi hỏi tất yếu của đất nước
Tất cả những vấn đề đất nước phải đối mặt như đã trình bầy trong các điểm từ
1-5 bên trên khẳng định tất yếu này.
Phải nói việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy là một
nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy động (a)trí
tuệ cả nước, (b)kinh nghiệm của thế giới, (c)sự quyết tâm một lòng một dạ
của toàn dân, và (d)sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ thống chính
trị và bộ máy nhà nước đối với lợi ích quốc gia (xin đặc biệt nhấn mạnh
yếu tố này), để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá
phải trả thấp nhất. Làm thế nào để Việt Nam hội đủ được 4 điều kiện này? Một
lần nữa tình hình cho thấy tầm nhìn của lãnh đạo và chất lượng của hệ thống
chính trị trở thành yếu tố quyết định.
Dưới đây xin trình bầy một vài gợi ý ban đầu.
(1)Nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là nói đến
phát triển chủ yếu dựa trên cơ sơ phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của
đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng đến chất lượng.
Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có về chiến
lược phát triển.
Con người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân mình, là
chủ của đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết định
nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là thể chế chính trị, luật
pháp nào, hệ thống giáo dục nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách
phát triển kinh tế - chính trị - xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra
được và tiếp tục phát triển được con người như thế. Bao chùm lên tất cả là
còn phải duy dưỡng và xây dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo
đức, tinh thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế - con người
của hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con
người công cụ.
Câu trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp nhận
triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống
quản lý đất nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính
sách phát triển đất nước, trong việc tuyên chiến với mọi cái hủ bại, trong
việc duy dưỡng và xây dựng những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và
phát triển nền giáo dục nước nhà...
Nói bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người, song nhất thiết
cần nhấn mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân
gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình.
Xây dựng một chế độ chính trị được người dân cảm nhận nó gần như đồng
nghĩa với tổ quốc là rất khó, song nhất thiết phải hướng tới.
Không có điều kiện này, ước mơ trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng
hiện đại ganh đua được với thiên hạ sẽ chỉ là ước mơ, càng khó bảo vệ bờ
cõi đất nước. Đơn giản, người dân có thể nói: Tôi không thể hết lòng vì
đất nước trong một chế độ tham nhũng!
(2)Đặt vấn đề như nêu trong điểm (1) là khởi điểm và đồng thời cũng là nền
tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời đại ngày nay trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quan điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều nghị quyết
và chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng khó trở thành hiện thực vì không
có thể chế phát huy được con người. Suốt 25 năm qua không ít công sức và
ngân sách bỏ ra cho mục tiêu đưa tiến bộ khọc kỹ thuật và công nghệ vào sự
nghiệp phát triển đất nước. Song kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng
khoa học và công nghệ thấp hoặc thậm chí rất thấp trong sản phẩm làm ra,
trong chất lượng các chủ trương chính sách, trong luật pháp, trong quy hoạch
phát triển, trong các quyết định chiến lược, quyết sách.., cũng như trong bộ
máy làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của hệ thống nhà
nước nói riêng, trong xây dựng và phát triển xã hội mới... Kết quả cuối
cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền của, công sức, cơ hội và thời
gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và công nghệ không thể nói là
nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.
Nhiều phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“nghiên cứu &
triển khai) của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đủ, bởi vì
nhận xét này không nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng này là chưa
có con người và thể chế phải có; thậm chí nhận xét này còn bị hiểu thiên
lệch là ta làm “R&D” chưa giỏi và vì ta nghèo!
Tình trạng “hàm lượng công nghệ thấp” như vừa nêu trên còn do một nguyên
nhân khác rất quan trọng: Đó là chính trị (đúng hơn trong nhiều trường
hợp phải nói là ý đồ chính trị) chứ không phải khoa học và
chân lý có tiếng nói quyết định. Sắp tới cần làm sao cho dân chủ và người
tài chưa có chỗ đứng phải có trong sự nghiệp phát triển đất nước.
(3)Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ thống
giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí
rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng
nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để có
sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự lựa chọn
phương án tối ưu nhất cho đất nước.
Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo,
đó là: hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự do và
sáng tạo, không phải là con người công cụ.
Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với một kế
hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc
của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất
nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau nữa, phải
rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội được.
Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng
ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao
gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống đất
nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong tình
hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì. Hiện nay có
quá nhiều trường hợp bằng thật bị thải loại và thua bằng giả. Thực tế tại
các quốc gia cũng cho thấy không thể tiến hành cải cách giáo dục một cách
đích thực nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy không nghiêm khắc
chống lại những giá trị trái ngược với những mục tiêu một nền giáo dục tiên
tiến phải theo đuổi.
Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong
thập kỷ 2011-2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ
không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí còn phải nói sự
nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ một điểm sơ khởi: không
nói dối!
(4)Phải đánh giá lại, quy hoạch và thiết kế lại kết cầu hạ tầng vật chất,
kỹ thuật, pháp chế và xã hội; riêng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ
thuật cần phải đi song song hoặc cố đi trước một bước quá trình phát triển
của đất nước; tất cả phải đạt được bước trước chuẩn bị cho bước sau.
Có thể nói các “thắt cổ chai” đã trầm trọng tới mức những năm gần đây bắt
đầu đẩy lùi sự phát triển kinh tế - nhất là về chất lượng và tính hiệu quả
của nó, nhìn chung là đẩy lùi sự phát triển của đất nước. Kinh tế, sơn hà
xã tắc của một quốc gia nhất thiết phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng vật
chất kỹ thuật và một thể chế luôn luôn được hoàn thiện làm giá đỡ.
Không thể không rùng mình nếu đối chiếu, so sánh đòi hỏi này với thực trạng
hiện nay của đất nước. Trong đời sống hàng ngày đầy rãy những hiện tượng từ
bất cập,
tác trách, đến sa đọa... Về một số phương diện nhất định, chính thể và xã
hội nước ta thực sự đang xuống cấp nghiêm trọng! Ngày càng nhiều hiện
tượng tha hóa đến mức đồi bại, đối với bên trong thì làm mất kỷ cương phép
nước, lòng dân ly tán; đối với bên ngoài thì không giữ được thể diện quốc
gia và làm yếu vị thế đất nước, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị
xâm phạm.
Trong cuộc sống đất nước năm này qua năm khác có biết bao nhiêu sự việc khác
nhau gây bức xúc lớn như thế, dồn nén lại thành câu hỏi: Chế độ Đảng đang
xây dựng cho đất nước thực chất là chế độ gì?!
Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước nhất thiết cũng
phải tự hỏi mình như vậy, để nhìn lại tất cả, nhất là để qua đó nhận biết
khoảng cách giữa những gì Đảng đã cam kết với đất nước và thực tế đang diễn
ra trong cuộc sống.
(5)Phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau đớn,
gian khổ, nhưng tất yếu phải làm.
Chữ nói về câu chuyện này đã mòn, song phải thừa nhận chưa có chuyển biến.
Những vấn đề nêu trong các điểm từ 1-5 bên trên đã nêu ra được một số
nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên cứu công phu để tìm ra giải
pháp.
Trước mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang một bên
vấn đề tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ)
trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay thụt lùi, mà nên đo lường
bằng kết quả thu nhập của người dân, chất lượng cuộc sống của họ, khả năng
cạnh tranh đích thực của các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được,
chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có lợi
thế nhất, chuẩn bị cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn theo cách nhìn
dài hạn... Cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng của nước ta cho sản
phẩm của ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện đang bị
sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn không có gì liên
quan đến tư duy “tự cung tự cấp” hoặc “thay thế nhập khẩu”, bởi lẽ nước ta
đã hội nhập kinh tế thế giới và thị trường nước ta là thị trường mở.
Để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, có thể tạm thời chấp nhận chỉ số
tăng trưởng thấp trong một số năm nhất định, nếu bước đi này đem lại chất
lượng tăng trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động mới tiếp
theo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thập kỷ 2011-2020 nhất thiết
phải tính đến thực tế ngay sát nước ta, tại khu Buong Thatluong liền kề con
đường Kaysone Phomvihane ở Vientiane đã manh nha dự án một China Town 1600
ha – (có tin nói nhân dân Lào đang phản đối), ở Campuchia cũng có tình hình
tương tự, rồi đến các dự án thủy điện trên sông Mekong – (có tin đồn bao gồm
cả
mục đích nhằm luyện nhôm cho việc khai thác bô-xít ở Lào)… Ngay
trên đất nước ta cũng đang xuất hiện khu công nghiệp 800ha do Thâm Quyến xây
dựng tại An Dương – Hải Phòng và bao nhiêu vấn đề khác nữa do cái “công
xưởng thế giây ra trực tiếp đối với nước ta, hàng vạn người Trung Quốc dưới
dạng lao động đi theo công trình đang thâm nhập khắp nơi vào nước ta, kể cả
trên Tây Nguyên...
Giả thiết rằng những dự án này sẽ được thực hiện, kinh tế và
an ninh của nước ta sẽ đứng trước những vấn đề gì? Đối sách của nước ta?
Trên hết cả, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu mở đường đi vào một
giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh quốc tế mới cần được xem là xắp xếp
lại giang sơn đất nước!
Nhiệm vụ này bao gồm nhiều việc hệ trọng phải làm. Chẳng những phải sớm hình
thành được ý đồ chiến lược phát triển, mà còn phải quy hoạch được các quá
trình phát triển các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan trọng là chiến lược và
quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với chức năng mở đường và làm nền tảng
cho sự nghiệp phát triển đất nước. Những lúng túng hiện nay trong quy hoạch
phát triển năng lượng là một trong nhiều ví dụ cho thấy việc quy hoạch phát
triển các lĩnh vực khó và yếu kém như thế nào! Ngay trước mắt, trong vòng 10
- 20 năm tới sẽ phải dành thêm khoảng 15 – 20% đất đai cho phát triển hệ
thống giao thông vận tải và giải quyết vấn đề đô thị hóa; công việc này
không quy hoạch có luận cứ xác đáng và xúc tiến từ bây giờ, hệ quả sẽ ra
sao? Chắc chắn không thể tiến hành theo kiểu xáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và
tư duy nhiệm kỳ.
Ngay trước mắt là việc cần loại bỏ các tập đoàn và doanh nghiệp thua lỗ. Cơ
cấu lại và chỉ cần giữ một số tập đoàn kinh tế nhà nước thiết yếu với nguyên
tắc không được kinh doanh trái nghề.
Nhà nước manh mẽ hậu thuẫn phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Đổi mới cơ cấu kinh tế nhất thiết phải tìm cách vô hiệu hóa sự câu kết
giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, thực hiện công khai minh bạch.
Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 với
bất cứ giá nào, vì điều này vừa không hiện thực, vừa trở nên không quan
trọng nữa. Thậm chí làm theo các kế hoạch công nghiệp hóa hiện hành nếu dẫn
đến kết cục năm 2020 nước ta sẽ trở thành cường quốc xi-măng, thép thô và
bô-xít thì sẽ đồng nghĩa với tự sát. Nhất thiết cần tìm cách đảo ngược xu
thế phát triển kinh tế thượng nguồn. Mục tiêu chiến lược nên chọn là
vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta sang giai
đoạn phát triển theo chiều sâu như đã trình bầy trên, gắn với đổi mới thể
chế chính trị, để từ đó mở ra cho nước ta một giai đoạn phát triển mới.
Nếu trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2020, mà thực hiện được mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy, thì đó là một thành tựu kì diệu có tính
bước ngoặt như đổi mới năm 1986 – vì điều này sẽ chặn đứng khả năng nước ta
rơi vào tình trạng lạc hậu, lệ thuộc, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ và bị nô dịch,
mở ra cho đất nước ta con đường đi vào một giai đoạn phát triển mới.
Phần kết
Nhìn
lại, yếu tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể nói thừa nhận
đổi mới là kết quả của thừa nhận dân chủ. Thành tựu đạt được của đổi mới
trước hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi trói, được phát huy
– từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường.
Hiển nhiên ai cũng thấy mức độ dân chủ đạt được ở đây còn khiêm tốn và chủ
yếu mới chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Song cái dân chủ còn khiêm tốn ấy
đã đủ sức gần như trong một đêm
xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp rất nặng nề ở nước ta hồi ấy và bứng đi không
ít cái thể chế ăn theo với nó, đảo ngược được tình hình nguy khốn của đất
nước lúc đó, mở đường cho đi tới hôm nay.
Vì vậy, còn có thể nói dân chủ - dù là ở mức độ còn khiêm tốn ấy – là thành
tựu bậc nhất của 25 năm đổi mới. Và trong giai đoạn phát triển
mới của đất nước,dân chủ sẽ là chìa khóa mở cửa giải phóng con người với
tính cách vừa là chủ bản thân, là chủ đất nước, vừa là nguồn lực lớn nhất
của đất nước cho một Việt Nam cường thịnh.
Song có một sự thật khác: Thành tựu bậc nhất ấy của 25 năm
đổi mới còn bị xem là một nguy cơ diễn biến hòa bình, vì thế 25
năm qua có không ít việc làm ngăn cấm, kìm hãm, trấn áp dân chủ, làm chậm
bước tiến của đất nước, bỏ lỡ nhiều cơ hội lớn. Đi vào giai đoạn phát triển
mới của đất nước, phải thẳng thắn đối mặt với sự thật này.
Ngày nay chỉ có giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ mới có thể tạo ra nền
tảng thực hiện được đoàn kết, hòa hợp và hòa giải dân tộc. Đấy chính là con
đường mở mang dân trí, phát huy con người Việt Nam, là nguồn sức mạnh và
sáng tạo vô tận, để làm nên một Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh. Đó chính là
phương hướng xây dựng một chế độ chính trị mà người dân có thể cảm nhận nó
gần như đồng nghĩa với Tổ quốc, tạo dựng một nền nội trị vững chãi bất khả
xâm phạm của đất nước, khơi dậy hào khí dân tộc. Chỉ một khi người dân cảm
nhận được chế độ chính trị này là của mình, vì mình, là lực hậu thuẫn vô
song cho sự phấn đấu của mình, là người gắn kết toàn dân tộc và khơi dậy mọi
tinh hoa gìn giữ và làm rạng rỡ giang sơn gấm vóc, là người đưa đất nước dấn
thân vào trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, là niềm tự hào vì nó mà mình
phấn đấu, là điều thiêng liêng vì nó mà mình sẵn sàng xả thân gìn giữ, là
niềm tự hào của nước Việt Nam… - chỉ khi xây dựng được một chế độ chính trị
làm nên những giá trị như thế nó mới hòa nhập được vào làm một với tổ quốc,
nó mới được người dân cảm nhận gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Một quốc gia
có chế độ chính trị và tổ quốc là một, quốc gia ấy là vô địch! Không một chủ
nghĩa nào có thể thay thế được sức sống của sự hòa nhập làm một như vậy của
chế độ chính trị và tổ quốc! Một chế độ chính trị như thế sẽ giải phóng mạnh
mẽ nhất trí tuệ và nghị lực Việt Nam. Một chế độ chính trị như thế - đến
lượt nó – sẽ nâng lên giá trị và sự thiêng liêng của tổ quốc, nâng lên vị
thế của quốc gia trong cộng đồng thế giới. Hơn lúc nào hết dân tộc Việt Nam
ta cần có sức sống này! Tinh thần yêu nước của người Việt Nam ta ngày nay
phải được xây dựng từ lẽ sống này! Văn hóa và giáo dục Việt Nam cần hướng
vào xây dựng cái đích này. Ngày nay kho tàng trí tuệ của nhân loại và của
dân tộc mình hoàn toàn cho phép chúng ta khai phá con đường xây dựng cho đất
nước một chế độ chính trị như thế. Rất đáng để thế hệ này sang thế hệ khác
ngay từ bây giờ tiếp nối nhau xây dựng nên cho tổ quốc của chúng ta một chế
độ chính trị như thế.
Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, nước ta có thể chung sống hòa
bình và hợp tác hữu nghị được với Trung Quốc, bảo vệ được bờ cõi và gìn giữ
được ta là ta trong tình thế mới, đối phó được với những thách thức mới
trong bối cảnh thế giới ngày nay. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như
thế, Việt Nam sẽ có bạn bè là cả thế giới tiến bộ - kể cả trong lòng nhân
dân Trung Quốc – hậu thuẫn cho mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, Việt Nam đồng thời sẽ có
khả năng cùng tiến bước trong trào lưu chung của nhân loại tiến bộ, dấn thân
làm tròn trách nhiệm là thành viên bình đẳng trong cộng đồng các quốc gia
trên thế giới.
Giai đoạn phát triển mới này của đất nước đòi hỏi Đảng Cộng Sản Việt nam
phải tự đổi mới chính mình, giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ lãnh đạo nhân
dân xây dựng và bảo vệ đất nước, trừ phi Đảng muốn tự mình vứt bỏ vai trò
lãnh đạo của mình để trở thành đảng cai trị!
Tập
đoàn kinh tế nhà nước, nền “kinh tế GDP tỉnh” và tư tưởng nhiệm kỳ là 3
sản phẩm và là hệ quả của hệ thống chính trị hiện thời. 3 sản phẩm này
cộng sinh và công hưởng với nhau đang ngày càng trở thành cơ sở kinh tế,
chính trị, văn hóa của hệ thống chính trị - xã hội nước ta. Tham nhũng, chạy
chức chạy quyền và nhóm lợi ích và mọi tha hóa khác chủ yếu từ đây mà
ra. Quốc nạn nội xâm này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi
mặt của đất nước còn đáng sợ hơn ngoại xâm. Sự phát triển của đất nước đòi
hỏi sớm khắc phục tình trạng này. Có làm được hay không? – Đấy là câu hỏi
sống còn đối với vận mệnh đất nước.
Các
nhiệm vụ phải thực hiện trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đạt kết quả ra
sao, sẽ quyết định: Việt Nam hoặc sẽ dấn sâu hơn nữa vào con đường trở thành
một quốc gia nghèo hèn, lệ thuộc, hay là sẽ bước hẳn vào ngả đường mới, sẽ
trở thành một nước phát triển đúng với tinh thần nước mạnh dân giầu, xã hội
dân chủ công bằng văn minh.
Tình hình và nhiệm vụ đất nước phải đối mặt trong thập kỷ tới này đặt ra vấn
đề cải cách chính trị và có con người trong hệ thống chính trị ngang tầm trở
thành điều kiện tiên quyết cho việc mở ra giai đoạn phát triển mới. Cải cách
chính trị trở thành chìa khóa của mọi giải pháp. Nội dung cơ bản của cải
cách chính trị là khai phá con đường xây dựng nên một chế độ chính trị mà
người dân cảm nhận được nó gần như đồng nghĩa với Tổ quốc như đã trình bầy
trên, là cố sao thực hiện được những bước đi đầu tiên trên con đường này, để
trong vòng thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đất nước vượt qua được mọi thách
thức, tạo ra sức mạnh đi vào giai đoạn phát triển mới. Mọi việc chỉ có thể
bắt đầu từ quá trình dân chủ hóa. Tên gọi chính xác của quá trình cải cách
chính trị này cũng là
dân chủ hóa.
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có kết quả,
tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, đòi hỏi phải có trí
tuệ và kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích riêng, dám
vượt lên mọi yếu kém riêng, để hoàn toàn một lòng vì dân vì nước của đội ngũ
lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Trước hết, nếu có ý chí như vậy, đội
ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước sẽ phát huy được trí tuệ và ý chí
trong Đảng và của cả nước, nhờ đó sẽ có đủ trí tuệ và mọi điều kiện cần
thiết trong tay để hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Đảng đang nắm
quyền lãnh đạo đất nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước mang trên vai mình trách nhiệm không thể thoái thác về thành / bại của
quá trình dân chủ hóa này.
Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm phạm cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước và tập hợp sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho
sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc tất thắng, là đất nước tất
thắng!
Cho nên, nếu đặt vấn đề dân chủ hóa là điều kiện sống còn và phát triển của
đất nước, tập thể lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ tìm được câu trả lời và các
giải pháp. Nói đơn giản: Dân chủ hóa như vậy thực sự là một cuộc cách mạng
từ trên xuống rất đáng mong muốn, là con đường an toàn nhất và cũng khả thi
nhất cho nước ta tại bước ngoặt lịch sử hiện nay, là bước đi đầu tiên trên
con đường xây dựng chế độ chính trị gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Vì những
lẽ vừa trình bầy, rất đáng dành cho quá trình dân chủ hóa đất nước trí tuệ
và tâm huyết nhiệt thành nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước, trước hết là
của các công dân mang thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thách thức lớn nhất của dân chủ hóa không phải là diễn biến hòa bình, mà là
cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và lợi ích cá nhân; lịch sử hiếm hoi
ghi lại được các chiến công đánh bại cám dỗ này. Nhưng cũng xin nói ngay:
Ngu dốt, vô đạo đức, cuồng tín hay bảo thủ thì chỉ có một đường dẫn đến đổ
vỡ mà thôi! Vậy chỉ còn cách đừng quay lưng lại phía mặt trời để vượt qua
cái bóng của chính mình.
Đất nước ta và dân tộc ta đứng trước
bước ngoặt lịch sử trong bối cảnh thế giới đi vào đa cực. Nên nhìn nhận đấy
là thế giới cho ta cơ hội độc lập tự chủ vươn lên, không cần và không phải
đi với một bên, chống một bên! Độc lập tự chủ cả trong tư duy về con
đường đi lên của đất nước, lấy lợi ích quốc gia là tối thượng và là mục đích
duy nhất, vứt bỏ mọi nô dịch về giáo lý. Mặt khác, cục diện thế giới như
đang diễn ra sẽ giằng xé gay gắt nước ta trên mọi phương diện, nhiều nguy cơ
đang trực tiếp uy hiếp toàn vẹn lãnh thổ , chủ quyền quốc gia, tương lai
phát triển của đất nước. Trước tình hình như vậy không có nội lực bắt nguồn
từ trí tuệ, bản lĩnh và thực lực của cả nước một lòng không ngửng mặt lên
được. Dân chủ là cội nguồn của nội lực này. Vì thế sự lựa chọn của đất nước
ta chỉ có thể là vượt lên mọi thách thức, nắm lấy mọi cơ hội phát triển thực
lực của mình để trở thành đối tác được tất cả các bên tôn trọng. Muốn được
như vậy, nước ta cần phấn đấu trở thành cầu nối của các nền kinh tế lớn.
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam có trách nhiệm rất
lớn đối với đất nước.
Hà Nội, mùa đông 2009
Tài liệu tham khảo
1.
Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.
P
Krugman: “How Did Economists Get It So Wrong”
http://www.nytimes.com/2009/09/06/magazine/06Economic-t.html?_r=2&pagewanted=all
3.
Francis Fukuyama & Seth Colby:
What Were They Thinking?
The Role of Economists in the Financial Debacle
4.
“Obama urged to fix policy
vacuum” – Financial Times , By Edward Luce in Washington - Published:
November 9 2009 20:06 | Last updated: November 9 2009 20:06
5.
FEER:
The Erosion of U.S. Power in Asia
http://www.feer.com/essays/2009/may/the-erosion-of-u.s.-power-in-asia
6.
Phát
biểu của Scot Marciel và Robert Scher, Bộ quốc phòng Mỹ, tại cuộc điều trần
trước Thượng viện ngày 15-09-2009:
http://www.newsmax.com/headlines/webb_china_seapower/2009/07/16/236456.html
và phát biểu của thượng nghị sỹ
Jim Webb tại cuộc điều trần này
http://webb.senate.gov/newsroom/record.cfm?id=315847&
7.
Diễn
văn của ngoại trưởng H. Clinton tại hội nghị các ngoại trưởng ASEAN - ARF
http://www.voanews.com/english/2009-07-23-voa16.cfm
8.
Diễn
văn của Tổng thống Obama tại phiên họp đầu tiên “Đối thoại chiến lược Mỹ -
Trung và Thương mại”,
http://www.whitehouse.gov/the_press_office/Remarks-by-the-President-at-the-US/China-Strategic-and-Economic-Dialogue/
và Washington, 27-07-2009:
http://http//www.whitehouse.gov/blog/A-Dialogue-with-China
9.
Major H.A. Hynes:
China: the
Emerging Superpower
http://www.fas.org/nuke/guide/china/doctrine/0046.htm
10.
Beijing Learns to be
a Superpower, Far Eastern Economic
Review, May 2009
http://feer.com/essays/2009/may/beijing-learns-to-be-a-superpower
11.
John Tkacik:và nhiều
tác giả khác về siêu cường Trung Quốc:
http://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upload/wm_1762.pdf
http://edgeweb.heritage.org/Research/AsiaandthePacific/upload/96070_1.pdf
http://www.gees.org/documentos/Documen-994.pdf
https://www.policyarchive.org/bitstream/handle/10207/12192/wm_1389.pdf
http://www.usnews.com/money/business-economy/articles/2007/11/05/now-from-china-the-worlds-biggest-company.html
12.
China’s Beleaguered
Intellectuals
của Merle
Goldman, đăng trong Current History: A Journal of Contemporary World
Affairs, số đặc biệt China and East Asia tháng 9 năm 2009http://www.currenthistory.com/Article.php?ID=702
13.
Cao Huy
Thuần: “An ninh”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_CaoHuyThuan.htm
14.
“China
Proposes to the US - Split the Pacific With Us”
của tạp chí Strategy Page - USA
http://www.strategypage.com/militaryforums/69-28963.aspx
15.
“Chiến
lược hải quân của Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển Đông”
của Ngô Vĩnh
Long,
Đại học
Maine,Orono, Maine,
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_NgoVinhLong.htm
16.
Willy Lam,
China's Quasi-Superpower Diplomacy: Prospects and Pitfalls, September
2, 2009,
http://www.jamestown.org/programs/books/single/?tx_ttnews[tt_news]=35453&tx_ttnews[backPid]=7&cHash=c647881d48)
17.
“Quan
hệ Việt Nam-Hoa Kỳ”, bài nói chuyện của Thượng
Nghị sỹ John McCain tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội
07/04/2009.
18.
Trần Quang Cơ – “Hồi ức và suy
nghĩ”
http://74.125.153.132/search?q=cache:e1BycmfYpe4J:www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-
19.
Dr. Evan A. Feigenbaum - China's
Military Posture and the New Economic-geopolitics
http://www.rice.edu/energy/publications/docs/AsianEnergySecurity_ChinaMilitaryPosture.pdf
20.
Trần Đức Nguyên, “Khám sức
khỏe kinh tế Việt từ chỉ số ICOR”
http://tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suc-khoe-kinh-te-viet-tu-chi-so-icor-xem
trên Vietnamnet -
http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2008/10/807594/
21.
Tấn Đức : “Lại phải trả giá
vì đầu tư thủy điện ồ ạt”Thứ Năm, 12/11/2009, 10:05 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/25213/
22.
Nguyễn Thành Sơn:
Ngành than sau 15 năm phát triển: “được” 3, “mất” 7
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-14-nganh-than-sau-15-nam-phat-trien-duoc-3-mat-7-
23.
Vũ Quang Việt “Khủng
hoảng kinh tế Việt Nam 2008:
sự sai lầm về chính sách
và vai trò của tập đoàn kinh tế quốc doanh*”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_VuQuangViet.htm
24.
Nguyễn
Trung: “Mô hình tập đoàn nhà nước và mối lo vượt tầm kiểm soát”
http://www.tuanvietnam.net/mo-hinh-tap-doan-nha-nuoc-va-moi-lo-vuot-tam-kiem-soat
và
Cải cách
tập đoàn nhà nước và một chữ "Dám"
http://www.tuanvietnam.net/cai-cach-tap-doan-nha-nuoc-va-mot-chu-dam
25.
Nguyễn Trung, “Biển Đông hòa bình
hay nổi sóng?”
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_NguyenTrung.htm
http://tuanvietnam.net/2009-12-03-bien-dong-hoa-binh-hay-noi-song
26.
Nguyễn Trung, “Suy nghĩ về phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NTrung_GiaoDuc.htm
27.
Nguyễn Trung, “Thân phận công dân
thế giới hạng hai” (21-08-2007)
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CongNhanTheGioiHangHai.htm,
28.
Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007”
http://www.viet-
studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_NgaBa2007.htm
Và một số tài liệu khác./.
Hết
Đặc biệt
là sự thừa ế trên thị trường bất động sản, trên thị trường xe hơi và
nhiều thị trường quan trọng khác đang kéo theo sự suy sụp của nhiều
ngành kinh tế khác. Tình trạng nợ nần lớn của cá nhân, công ty và ngân
sách quốc gia khiến cho sức mua khó hồi phục. Hơn nữa sự điều chỉnh cơ
cấu kinh tế bắt buộc phải lựa chọn thường gắn theo với những đổ vỡ và
cái giá phải trả không thể tránh khỏi. Thậm chí có ý kiến coi đây là 4
nguyên nhân có thể làm nảy sinh khủng hoảng mới.
Thậm chí
có người gọi khoa kinh tế học hiện nay là “kinh tế học của đổ vỡ”, coi
Alan Greenspan - nguyên chủ tịch FED - là một trong những tội phạm
chính của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay!..
Tuy nhiên sẽ là xuyên tạc sự thật hay ngộ nhận nực cười nếu nghĩ rằng
kinh tế thế giới đang quay đầu hướng về chủ nghĩa xã hội – như một số
người nào đó cố tình nhận định như vậy...
Chủ yếu do những thất bại của 2 khóa tổng thống George
Bush vì tham vọng quá lớn trong chiến lược toàn cầu và do sự phá sản của
chủ nghĩa tân tự do dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ hiện nay. Cuộc
khủng khoảng này âm ỷ từ lâu và bủng nổ với sự sụp đổ của ngân hàng
Lehman Brothers ngày 14-09-2008, sau đó lan tỏa thành quy mô thế giới.
Tìm xem
Niall Ferguson: “The
decade the world tilted east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
Published: December 27 2009 18:23 | Last updated: December 27 2009 18:23
Và nhiều
sách báo khác liên quan của các tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky,
Timothy P. Carney, Willy Lam, John Tkasick, Francis Fukuyama, Martin
Jaques…
Chú ý:
Tháng 2-1995 hải quân Philippines bị hải quân Trung Quốc đánh bại trong
việc đòi lại khỏi đảo San Hô Mischief (Vành Khăn – thuộc Trường Sa),
Philippines yêu cầu hải quân Mỹ can thiệp, nhưng bị từ chối với lý do
đảo này nằm ngoài phạm vi Hiệp ước phòng thủ chung 2 nước ký năm 1951,
Mỹ chỉ ra tuyên bố phản đối Trung Quốc.
Có tài liệu nói trong tổng số 2100 tỷ USD dự trữ của Trung Quốc có 35%
nằm trong dạng dự trữ bằng đồng USD và 25% là trái phiếu và các giấy tờ
có giá; nghĩa là gần 1/3 tổng dự trữ của Trung Quốc là do Mỹ nợ. Có lẽ
thông tin này chính xác hơn.
Tìm đọc
Niall Ferguson: “The decade the world tilted
east”
http://www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html
Merle Goldman: “China’s
Beleaguered Intellectuals”
đăng trong Current History: A Journal of Contemporary World Affairs,
số đặc biệt China and East Asia tháng 9 năm 2009:
“...Chính quyền Trung Quốc hiện nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ðảng
Cộng sản... Một thế hệ mới các lãnh tụ Đảng xuất hiện, dẫn đầu là cựu
Thị trưởng Thượng Hải Giang Trạch Dân... ngay sau khi lên nắm quyền đã
thẳng tay đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường
Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Tập đoàn lãnh đạo đó – và đặc
biệt thế hệ các lãnh tụ hiện thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào cùng
các cộng sự viên của ông ta, những kẻ lên nắm quyền vào năm 2002 – đang
tìm cách giáo huấn trở lại cán bộ Đảng để họ thấm nhuần hệ tư tưởng
Lê-ni-nit. Trong khi củng cố năng lực của chính quyền nhằm đối phó với
những bất bình đẳng ngày càng tăng và tệ nạn tham nhũng tràn lan, những
kẻ lãnh đạo thuộc thế hệ trẻ của xứ sở ấy đang ra sức tái tập trung
quyền lực chính trị...”
http://www.currenthistory.com/Article.php?ID=702
Cao Huy Thuần:
“An ninh”,
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai17/200917_CaoHuyThuan.htm
Tìm xem: “Quan
hệ Việt Nam-Hoa Kỳ”,
bài nói chuyện của Thượng
Nghị sỹ John McCain tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội
07/04/2009: “…Giờ
đây, công việc khó khăn nhất bình thường hoá quan hệ đã lùi lại phía
sau. Tôi tin rằng, đã đến lúc chúng ta chuyển từ việc bình thường hoá
quan hệ song phương sang hiện đại hoá những liên kết giữa hai nước cho
tương xứng với vị thế ngày càng tăng của Việt Nam ở khu vực và trên thế
giới… Đã đến lúc cần có bước đi mới…Việc tiếp tục củng cố mối quan hệ
giữa hai nước không nên chỉ vì sự chuyển đổi kinh tế chưa từng thấy của
Việt Nam và tiến bộ vượt bậc trong quan hệ giữa hai nước trong hai thập
kỷ qua, mà còn vì sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế mang tính lịch sử từ
phương Tây về châu Á…Và trong kỷ nguyên này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ
đóng một vai trò hết sức quan trọng”.
Thông điệp này của McCain
nói lên điều gì?
Chỉ riêng viện trợ ODA năm 2009 đạt mức cao nhất từ xưa đến nay (8 tỷ
USD) trong lúc các nước cấp viện trợ chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh
tế hiện nay đã nói lên điều này.
Tiếp súc với nhiều người Việt ở nước ngoài nổi lên một nhận xét khá phổ
biến:
Khi còn chính quyền Sài Gòn với cả triệu quân đầy vũ khí trong tay mà
còn thua cộng sản, mấy tổ chức đảng phái này nọ ngoài này nhằm nhè gì!
Đánh võ mồm! Có những người của các đảng phái này chống Hà Nội quyết
liệt, song không ít trong số họ vì những động cơ riêng tư hoặc vì những
mục đích vụ lợi rõ rệt. Số đông người Việt ở nước ngoài thuộc thế hệ
chiến tranh không muốn dính líu với những đảng phái này, số thế hệ trẻ
không biết đến chiến tranh hầu như không quan tâm đến những thứ như thế.
Tâm lý số đông người Việt thuộc thế hệ chiến tranh là hận thù cũ nguôi
ngoai dần, muốn đất nước yên ổn để gìn giữ quan hệ ruột thịt họ hàng
hoặc có điều kiện phát triển công việc làm ăn, ví dụ rõ nhất có lẽ là
trường hợp ông Nguyễn Cao Kỳ... Có nhiều trí thức mong muốn đóng góp với
đất nước nhưng thấy trong nước còn nhiều điều chưa chấp nhận được. Tâm
lý chung là mong muốn đất nước có dân chủ, thượng tôn pháp luật và sớm
thoát nghèo, rất lo ngại uy hiếp của Trung Quốc đối với đất nước – một
số còn cho rằng nếu làm được như vậy thì ĐCSVN cũng được!
Khái niệm “không gian sinh tồn” nghe rất lạc hậu, rất
thịnh hành thời Đức quốc xã, ngày nay ít người muốn nói tới; thậm chí
ngày nay có người tin rằng vấn đề này ngày nay đã được giải quyết: các
quốc gia thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay không cần phải mở rộng không gian
sinh tồn của mình mà vẫn có thể phát triển – trong chừng mực nhất định ý
kiến này là có lý. Song rất tiếc rằng cuộc sống không biến mất hiện
tượng mở rộng không gian sinh tồn, mà chỉ phát triển thêm các hình thái
“mở rộng” khác nhau mà thôi. Hình thái “mở rộng”
của Trung Quốc hiện nay là đa dạng nhất, bao gồm cả hình thái xâm chiếm
lãnh thổ, lãnh hải nước khác và các hoạt động khác, trong nhiều trương
hợp là cách hành xử “mục tiêu biện minh cho biện pháp” như mọi người
đều biết.
Loại trừ
kẻ xấu, dư luận chính đáng trên thế giới không sao hiểu nổi phản ứng nhu
nhược hay sự nhẫn nhục cùa Việt Nam trước những sự kiện ngang ngược của
Trung Quốc. Luồng dư luận này cho rằng vì ngại sức ép của Trung Quốc, vì
lo rằng phong trào phản đối Trung Quốc sẽ dấy lên phong trào dân chủ
trong nước, nên ĐCSVN không dám huy động nhân dân đấu tranh, không dám
kêu gọi dư luận quốc tế như đã làm thời kháng chiến.
Nền giáo dục nước ta hiện nay nặng về đào tạo con
người công cụ hơn là hướng về đào tạo con người hành động theo tư
duy tự do. Đây có lẽ là vấn đề mấu chốt nhất khiến nền giáo dục nước
nhà lạc hậu và góp phần kìm hãm tương lai phát triển của đất nước.
Trong kinh
tế học, người ta gọi hiện tượng các nước đang phát triển với mọi nỗ lực
của nhiều thập kỷ, thậm chí của cả nửa thế kỷ hoặc lâu hơn nữa mà vẫn
không thể trở thành một nước công nghiệp là hiện tượng “rơi vào cái bẫy
nước có thu nhập trung bình”. Có nhiều nước đang phát triển đã rơi vào
cái “bẫy” này. Thái Lan là một ví dụ điển hình của “cái bẫy nước có thu
nhập trung bình”. Trong thế kỷ 20, Thái Lan không bị một cuộc chiến
tranh nào tàn phá, không là thuộc địa của một đế quốc nào, đã đi được 60
năm trên chặng đường công nghiệp hóa tính từ năm 1949, nhưng ngày nay
chưa ai dám nói khi nào Thái Lan sẽ là một NIC!
Tìm đọc
thêm: Nguyễn Trung, “Chàng
trai 22 tuổi không thể sống trong bộ quần áo thiếu niên" đăng trên Tuần
Việt Nam – VNN - 31/10/2008 10:11 (GMT + 7)
IMF và EIU
đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2008 lạm phát là 22,87%, tăng trưởng GDP
là 6,23%. *IMF & EIU **Dự báo Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguồn:
http://community.tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suc-khoe-kinh-te-viet-tu-chi-so-icor-?print=1
Tham khảo
thêm: Trần Đức Nguyên, “Khám sức khỏe kinh tế Việt từ chỉ số ICOR”
http://tuanvietnam.net/2009-10-09-kham-suc-khoe-kinh-te-viet-tu-chi-so-icor-
Tìm xem trên Vietnamnet -
http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2008/10/807594/
Theo
thống kê của Liên Hiệp Quốc năm 2005, tiêu thụ 01 kWh các nước Tây Âu
làm ra trên 3 USD, Hàn Quốc: 2,2 USD, Philippines: 1,9 USD, Thái Lan:
1,5 USD, Trung Quốc: 1 USD, Việt Nam chỉ có 0,87 USD.
Đó là tình
trạng chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề theo Luật đòi hỏi; và chưa chuẩn
bị xong kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, xử lý bùn đỏ nhiễm hoá chất
độc hại..; tóm lại là còn rất nhiều câu hỏi quan trọng chưa được giải
đáp thoả đáng về tính khả thi của dự án, tính hiệu quả của dự án, tác
động lâu dài đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, an ninh
quốc gia… mà đã triển khai ngay dự án… - tìm đọc các phản biện rất phong
phú về vấn đề này. Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Những bất lợi lớn
trong khai thác bô-xít tại Tây Nguyên” – tham luận tại hội thảo ngày
09-04-2009 về chuyên đề bô-xit do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì,
http://www.diendan.org/viet-nam/khai-thac-bo-xit-o-tay-nguyen-nhung-bat-loi-lon
Rất khó định nghĩa hay định nghĩa thế nào cũng được khái niệm “cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”.
Cụm từ cơ bản trở thành và cụm từ theo
hướng hiện đại vừa mơ hồ và co giãn tùy ý, vừa mâu thuẫn
nhau. Song quan trọng hơn là toàn bộ khái niệm này thiếu hẳn những tiêu
chí và mục tiêu cần đạt được để làm rõ.
Quá trình
công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như dưới dạng một chuỗi các kế
hoạch 5 năm của cấp trung ương (các ngành) và của cấp các tỉnh cộng lại.
Rất khó nói rằng những kế hoạch 5 năm này được thiết kế theo một quan
điểm chiến lược công nghiệp hóa xuyên suốt:
(1)
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra trong thực
tế ở cấp trung ương là hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước (phần
lớn dưới dạng các tổng công ty 90 và 91) gần như với tính cách mỗi tập
đoàn là một “vương quốc” riêng lẻ.
(2)
Quá trình công nghiệp hóa ở cấp tỉnh chủ yếu do “tư tưởng nhiệm kỳ”
và quan điểm “nền kinh tế GDP tỉnh” chi phối, tranh thủ làm được gì làm
nấy, gặp gì làm nấy, không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp
lên nhau – tỉnh anh có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có
nhà máy mía đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công
nghiệp, tỉnh tôi cũng không thua...
Tham khảo
thêm: Nguyễn Trung, “Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NTrung_GiaoDuc.htm
Tham khảo
bài:
Ngành than
sau 15 năm phát triển: “được” 3, “mất” 7
Tác giả:
TS. Nguyễn Thành Sơn
Cả nước
hiện có 166 sân golf, (có tài liệu nói là trên 140 sân!), nhiều gấp 3
lần mức bình quân của thế giới, diện tích trung bình 200 – 300 ha/sân.
Không ít dự án xây dựng sân golf trở thành một phần các dự án địa ốc trá
hình. Hệ quả của việc nông dân mất đất cho sân golf rất nhiều mặt, và
tác động môi trường của sân golf rất lớn.
Tìm đọc và
so sánh với Nhị quyết Trung ương số 26 ban hành ngày 05-08-2008 về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Vì tập đoàn kinh tế nhà nước được phép dành tới 30% tổng vốn của mình
(nghĩa là rất lớn) cho kinh doanh các sản phẩm trái nghề nên không hoàn
thành việc thực hiện các sản phẩm chính của tập đoàn, lỗ biến thành lãi,
phát sinh nhiều tiêu cực, đồng thời lấn át khu vực kinh tế tư nhân –
nhất là các xí nghiệp nhỏ và vừa. Cần bãi bỏ quy định này.
Mặc dù có sự giải thích, thanh minh.., song dư luận trong nước vẫn vô
cùng bức xúc về các vụ CPI, Securency, vụ án Nông trường Sông Hậu, tập
đoàn Vinashin…
Năm 1987 nước
ta
còn thiếu đói lương thực, năm 1989 nước ta đã xuất khẩu lương thực!
Đã đăng trên Thời Đại Mới
|