Những bài cùng tác giả
Khổng Tử
Thế vận
hội Bắc Kinh đã bế mạc. Cơn bão phê bình, biểu tình
phản đối, những âu lo ô nhiễm ban đầu, hay hoan hô,
ca ngợi các vận động viên giành được huy chương sau
đó, đã cùng với thời gian giảm dần và trôi qua. Kế
đó, việc phóng phi hành gia đi bộ lên không gian
cũng đã thành công trong không khí phấn khởi , tự hào
của quần chúng. Trong quá trình đó, hình ảnh Trung
Quốc (TQ) cũng đã đổi thay. Lợi dụng các cuộc tranh
tài để phân ranh giữa quá khứ của chính mình và
những ước mong của thế giới về một tương lai tươi
sáng hơn, TQ đã khéo léo giới thiệu với toàn cầu
hình ảnh một quốc gia vừa thoát khỏi nghèo đói,
chiến tranh, cách mạng, những tai ương tự tạo, để
trỗi dậy như một siêu cường trên đường tiến tới phú
cường và văn minh. VẤN NẠN
LỊCH SỬ
Kể từ
khi những chiến thuyền của Anh Quốc xuất hiện ở biển
Nam Hải vào giữa thế kỷ thứ 19, giới trí thức và
lãnh đạo TQ đã phải thường xuyên đối phó với tình
trạng yếu kém và luôn tìm cách phục hồi sự phú cường
của xứ sở. Cuộc đấu tranh ngày một cấp thiết hơn khi
Tây phương liên tục ép buộc TQ phải chấp nhận ký kết
một chuỗi nhiều hiệp ước bất bình đẳng . TQ đã dần
dà mất hết tự tin sau khi đế quốc Nhật đánh bại nhà
Thanh trong cuộc chiến Trung-Nhật 1895 và tiến chiếm
nhiều vùng rộng lớn của TQ trong hai thập kỷ 1930s
và 1940s. Nhật đã mở đầu một quá trình qua phân đen
tối của TQ. Vào đầu
thế kỷ 20, nhiều sĩ phu thuộc khuynh hướng cải cách
đã phải tự hỏi tại sao người phương Tây luôn đầy sức
sáng tạo trong khi TQ vẫn luôn trì trệ tê liệt, và
đã phải lên tiếng báo động: 'TQ cần phải cải cách
nếu không muốn tự vẫn'. Trong
suốt thế kỷ 20, khát vọng nhìn thấy một TQ lấy lại
uy thế và sự kính nể của thế giới đã trở thành một
leitmotif ám ảnh trong tư duy chính trị. Thực
vậy, tình trạng bất lực tủi hổ TQ phải trải nghiệm
đã là một trong những động lực đưa đến cách mạng cực
đoan của Mao Trạch Đông. Dưới bề mặt ý thức hệ và
xáo trộn, điều mà Mao tìm kiếm là một sự phú cường -
hay ít ra môt bộ mặt phú cường xã hội chủ nghĩa mới
- như phương cách đem lại cho người TQ một ý thức
hãnh diện về xứ sở của mình. Mặc dù mang tính cực
đoan và độc tôn, Mao đã cảm nhận và nắm bắt được
khát vọng của người dân được thấy TQ phục hồi địa vị
trung tâm và vĩ đại của đất nước. Tạm gác
tư tưởng chính trị của Mao qua một bên, TQ đã gần
như hoàn toàn tái thống nhất đất nước với sự trở về
của Hong Kong và Macao (ngoại trừ Đài Loan), và
thành đạt một nhịp phát triển 10% GDP/năm trong gần
hai thập kỷ vừa qua, trở thành một trong những đối
tác thương mãi năng động nhất thế giới, hiện đại hóa
lực lượng quân sự, phát động một chương trình không
gian đầy tham vọng, và đăng cai thành công thế vận
hội 2008. TQ không những đã đạt được một điểm mốc
quan trọng trong hành trình một thế kỷ rưỡi thoát
khỏi đói nghèo, yếu kém, và đạt được phú cường, mà
cũng đã thành công trong cuộc vận động giao tế ngoạn
mục trong lịch sử thế giới. Tuy
nhiên, trong thành tích biểu trên đây của chính
quyền TQ, người ta chưa thấy có những thành tích đạo
đức. TQ, đầy dẫy những vi phạm nhân quyền trong quốc
nội, giao hảo với nhiều chế độ bạo tàn trên thế giới
- từ tướng Than Schwe ở Miến Điện, và Kim Jong Il ở
Bắc Hàn, đến Omar al-Bashir ở Sudan, và Robert
Mugabe ở Zimbabwee - cần một hồi sinh đạo đức tiếp
theo sau hồi sinh kinh tế. Không may, những giáo
điều Mác-Lê rõ ràng không mấy thích ứng để khích lệ
nhân dân TQ trong nỗ lực xây dựng một quốc gia hiện
đại, cởi mở, và thịnh vượng. KHỔNG
GIÁO VÀ NHÂN TRỊ
Tuy
nhiên, lịch sử TQ còn có một truyền thống văn hóa
thuận lợi cho việc tái tạo những nguyên tắc và đạo
lý thiết yếu cho việc điều hành quốc gia. Đúng vậy,
TQ thừa hưởng một gia tài truyền thống cổ điển khổng
lồ, có thể làm căn bản cho việc xây dựng một hình
thức chính quyền mới vững chắc, mặc dù không hẳn
hoàn toàn dân chủ, ít ra không dân chủ theo nghĩa
Tây phương. Hơn thế nữa, Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ
Tướng Ôn Gia Bảo cũng đã bắt đầu chắt lọc , vận dụng
từ truyền thống quý giá đó những nhân tố tô điểm cho
những ý niệm định hình guồng máy quản trị quốc gia. Biểu
hiện rõ nét nhất của khuynh hướng nầy là sự tái
khẳng định gần đây tầm quan trọng của 'ý niệm hòa
hợp trong một xã hội ổn định' của tư tưởng Khổng
giáo. Mặc dù lúc khởi đầu, Mao đã kiên quyết nhấn
mạnh những mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp,
với lời tuyên bố quyết liệt: 'một cuộc cách mạng
không phải là một bữa tiệc tối, mà là một cuộc nổi
dậy, một hành vi bạo động nhờ đó một giai cấp lật đổ
một giai cấp', Hồ Cẩm Đào đột nhiên khởi động
một mục tiêu hòa bình hơn, nhằm hòa hợp các nhóm đối
nghịch trong xã hội Trung Hoa. Hồ Cẩm
Đào đã công khai đưa ra ý niệm phi-Marxist nầy lần
đầu trong bài diễn văn năm 2005. Âu lo về tình trạng
phân hóa trong xã hội TQ, ông tuyên bố:'Khổng Tử
đã từng dạy, hòa hợp là một điều đáng trân quí'.
Vài tháng sau, ông lại lên tiếng khuyến cáo các đảng
viên Cộng Sản phải 'dồn hết khả năng xây dựng một
xã hội hòa hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa'.
Từ đó,
cụm từ 'xã hội hòa hợp' đã trở thành một khẩu
hiệu lan truyền thật nhanh chóng. Tháng 3 năm 2007,
Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tiếp lời: 'Từ Khổng Phu Tử
đến Tôn Dật Tiên, văn hóa truyền thống của TQ chứa
đựng nhiều thành tố quí giá'. Và khắp TQ, cán bộ
Đảng răm rắp vồ vập ý niệm 'xã hội hòa hợp',
và chẳng bao lâu hầu như bất cứ ý tưởng, diễn đàn,
hội nghị, lý thuyết hay dự án nào được giới thiệu
hay liên hệ với câu thần chú mới mẻ đó đều được tán
thưởng. Đó cũng là dấu hiệu cho thấy ở TQ, văn hóa
'Lãnh Tụ Vĩ Đại' vẫn rất thịnh hành. Ngay cả
nhà đạo diễn danh tiếng, đồng thời giám đốc Lễ Khai
Mạc Thế Vận Hội, Dương Nghệ Mưu, cũng không
cưỡng nổi câu khẩu hiệu thần chú vừa nói. Như khán
giả truyền hình toàn cầu đã được thấy qua màn ảnh
nhỏ, họ Dương đã trang trí trên sàn gạch từ 'Hòa
[Hợp]' như một phần dàn dựng hoành tráng, sống động
và kiêu sa kiểu Las Vegas. Học
thuyết Khổng Tử, đã từng được sử dụng làm cơ sở cho
thuật trị nước của các vua chúa TQ, nhấn mạnh đến sự
hòa hợp. Thực vậy, ý niệm lịch sử 'Thuận Hòa'
vẫn còn vang vọng đối với người TQ. Nhưng Khổng Giáo
cũng nhấn mạnh khía cạnh đạm bạc, làm việc thiện,
công lý, và ngay cả giá trị của những ý kiến dị
đồng. Khổng Tử nói với Mạnh Tử: 'Giàu có, danh
vọng, mà thiếu công lý, cũng chỉ là phù vân'. Trong
triết lý chính trị Khổng Giáo, chính danh có lẽ là
đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo. Và vị
'Vạn Thế Sư Biểu' xem chính danh là cách ứng
xử của người quân tử, một cách lý tưởng hóa ý niệm
lãnh đạo tốt tương tự với ý niệm 'triết gia-quân
vương' (philosopher-king) của Plato. Theo Khổng
Tử, quân tử lãnh đạo không bằng luật pháp khắt khe,
cưởng chế, và độc tài, mà bằng thiện tâm, đức tính
tốt, và nêu gương sáng. 'Nếu người lãnh đạo chỉ
muốn làm việc tốt, người dân sẽ tốt. Uy lực đạo đức
của người quân tử tựa như gió, uy lực đạo đức của
thần dân tựa như cỏ. Gió thổi, cỏ sẽ uốn theo'. Khổng Tử
tin, chúng ta có thể hiểu được thế nào là uy lực đạo
đức khi nghiên cứu Tứ Thư và Ngũ Kinh và tìm hiểu
cách trị dân của các vị minh quân như vua Nghiêu vua
Thuấn. Nhà lãnh đạo lấy đức độ để trị dân cũng giống
như sao Bắc Đẩu, đứng yên ở chân trời trong khi các
tinh tú khác phải quần tụ chung quanh. Về nhiều
phương diện, cách ứng xử đức độ căn bản của một lãnh
đạo khôn ngoan theo quan niệm của Khổng Tử có nhiều
điểm tương đồng với học thuyết nhân bản
(humanism) của các nhà tư tưởng Pháp thời Khai Sáng.
Khác với Mao tin ở giá trị giai cấp thay vì phổ
quát, Khổng Tử và các tư tưởng gia thời Khai Sáng
tin có những quyền và giá trị phổ quát bẩm sinh
trong mỗi người. Người quân tử, trong Khổng giáo,
không bao giờ rời xa nhân bản, dù phải trải qua
nhiều thử thách, gian truân. Giới
lãnh đạo Bắc Kinh hiện nay hình như đã cảm nhận:
chính trị TQ đã rơi vào một khoảng trống đạo đức. Họ
cũng đã chứng tỏ sẵn sàng nhìn về quá khứ của TQ,
thay vì thế giới bên ngoài, để tìm phương thức cứu
chữa. Xét cho cùng, Khổng giáo là truyền thống đặc
thù của TQ và đã in rõ nét trong mả văn hóa di
truyền DNA của người Hoa. Chấp nhận bất cứ một lý
thuyết chính trị Tây phương nào, nhất là ý niệm dân
chủ, cũng hàm chứa một sự đầu hàng chủ nghĩa ngoại
lai. CHỦ
THUYẾT PHÁP TRỊ
Vẫn luôn
đặt nặng 'sức mạnh mềm' của đạo đức thay vì 'sức
mạnh cứng' của quyền cưởng chế, chủ thuyết lý tưởng
của Khổng giáo nhiều khi không đem lại một hệ ý thức
hữu hiệu cho các giới lãnh đạo cứng rắn, đặc biệt
trong những thời loạn ly, chia rẽ. Vì vậy, không có
gì đáng ngạc nhiên khi TQ cổ xưa cũng đã cùng lúc
khai sinh nhiều trường phái tư tưởng chính trị trái
ngược. Một trong những trường phái nầy là Phái Pháp
Trị hay Pháp Gia. Trường phái nầy - đặt nặng trung
ương tập quyền, lãnh đạo mạnh mẽ, luật pháp và chế
tài nghiêm minh - là chủ thuyết đối lập với Khổng
Giáo. Thay vì
tin 'nhân chi sơ tánh bổn thiện', và vì vậy,
luôn noi theo gương tốt, Phái Pháp Gia tin bản tính
con người vốn xấu, thiếu can đảm, yếu hèn. Vì vậy,
họ xem những nhà lãnh đạo đặt niềm tin ở đức độ -
như phương cách duy trì trật tự xã hội trong khi con
người bản chất vốn ác và bất trị - là ngây thơ. Thay
vì đức độ, Phái Pháp Gia tin ở luật pháp, một hệ
thống thưởng phạt nghiêm minh, đáng sợ và đàn áp. Họ
xem nhẹ khả năng cải hóa của các nhà lãnh đạo gương
mẩu, trị dân một cách nhân đạo, qua cách ứng xử phản
ảnh đạo đức Khổng giáo. Đối với họ, điều đó chỉ là
triết lý suông. Như Hàn
Phi Tử, một triết gia thế kỷ thứ ba trước công
nguyên và là người chủ trương pháp trị nổi danh, đã
viết: 'Nhà lãnh đạo sáng suốt không bàn tới những
việc làm đầy nhân tính và đức độ, và cũng không lắng
nghe lời của các học giả'. Hàn Phi hiểu 'học
giả theo nghĩa 'quân tử' của Khổng giáo. Ông cũng
viết: 'Người trị nước không quan tâm đến đức độ
mà chỉ quan tâm đến luật pháp'. Và ông hiểu luật
theo nghĩa trừng phạt hơn là công lý. Hình thức
Machiavellianism nầy của TQ khuyến cáo các chính
trị gia không nên tin tưởng bất cứ ai, phải nghi ngờ
ý định của mọi người và phải bao che mình bằng những
màn chắn bí mật. 'Từ chỗ ẩn trong bóng tối, quan
sát những lỗi lầm của người khác', Hàn Phi viết.
'Thấy nhưng đừng tỏ ra thấy; lắng nghe nhưng đừng để
lộ đang lắng nghe; biết nhưng không để ai biết mình
biết. Che giấu mọi hành tung và che giấu mọi nguồn
tin, để người dưới không thể dò tìm cội nguồn hành
động của bạn. Đừng tỏ ra khôn ngoan và có khả năng
để kẻ dưới không thể đoán bạn đang toan tính gì'. Thuật
trị nước của Phái Pháp Gia đã trở thành nguồn cảm
hứng cho Tần Thủy Hoàng, vị quân vương thống nhất TQ
đầu tiên - lăng tẩm của ngài gồm cả hình tượng một
đội lính canh nổi tiếng, tượng trưng cho ý chí bám
chặt lấy quyền lực ngay cả cho đời sau. Chính
Hàn Phi là một trong những người nhắc đến ý niệm phú
cường sớm nhất. Một lãnh đạo anh minh phải biết nắm
vững nghệ thuật làm giàu và quyền lực, Hàn Phi tuyên
bố, nêu rõ một trong những nhiệm vụ căn bản của
người cầm quyền là làm giàu cho Nhà Nước và tăng
cường sức mạnh quân sự. Một quan
niệm về thuật trị nước phi đạo đức như thế là một
phản đề đối với chủ thuyết đạo đức của Khổng Tử.
Khổng Phu Tử đã nhận xét một cách khinh bỉ: trong
khi người quân tử luôn trọng chính danh, kẻ tiểu
nhân chỉ biết cầu lợi. Thực vậy, đồ đệ của Khổng
Tử luôn coi thường cái mà sử gia nổi tiếng của
Harvard, trong tác phẩm 'In Search of Wealth and
Power: Yen Fu and the West', mô tả như thứ triết
lý phú cường tàn nhẫn và vô lương tâm của Phái Pháp
Gia. Cố
nhiên, Hàn Phi và Phái Pháp Gia cũng khinh thường
Khổng Phu Tử không kém. Hàn Phi viết: "Ngày nay,
đồ đệ của Khổng Tử, khi cố vấn về thuật trị nước,
không hề bàn đến phương cách đem lại trật tự hiện
giờ, mà chỉ đề cao sự thành đạt một trật tự tốt đẹp
trong quá khứ. Với lời nói bọc đường, đồ đệ của
Khổng Tử nói:'Nếu ngài lắng nghe lời chúng tôi, ngài
sẽ có thể trở thành lãnh tụ của tất cả các bộ lạc
phong kiến'. Các vị cố vấn nầy chỉ là những phù thủy
và thầy tu".
Mặc dù
nhiều trường phái tư tưởng khác cũng đã phát triển ở
TQ cổ xưa, như Phật Giáo và Lão Giáo, Phái Pháp Gia
và Khổng Giáo luôn mang tính thực tiễn, do đó, giữa
hai phái đã có một quan hệ âm-dương đặc biệt, với
ảnh hưởng của mỗi phái lúc lên cao khi xuống thấp
qua các triều đại kế tiếp khác nhau. Kết quả là tác
động hỗ tương đã đem lại cho các triều đại đương
nhiệm một mô hình hỗn hợp mang tính vừa chính đáng
vừa thực tiễn chính trị - một thuật trị nước đặc thù
TQ, thấm nhuần một sức sống nhị nguyên sinh động. Trong
sáu thập kỷ dưới chế độ độc tài theo định hướng thị
trường và xã hội chủ nghĩa vừa qua, TQ đã dựa trên
cảm hứng của Hàn Phi và Phái Pháp Gia nhiều hơn là
Khổng Giáo. Những nhà cách mạng Leninist kiểu Mao
Trạch Đông đã bị ảnh hưởng và mê hoặc bởi Tần Thủy
Hoàng. Tư tưởng Marxist-Leninist-Mao Trạch Đông -
vay mượn nhiều yếu tố từ Phái Pháp Gia - hình như đã
là con đường đưa TQ đi từ chiến tranh, hỗn loạn đến
phú cường nhanh nhất. Nhưng
hiện nay, khi địa vị trung tâm, uy tín, cũng như phú
cường đã đến trong tầm tay, giới lãnh đạo TQ đang
đối mặt với một thời vận mang tính quyết định. Trong
hành trình tiến tới địa vị một đại cường, TQ - sau
khi đã gây ấn tượng với thế giới bên ngoài với thành
tích phát triển kinh tế - đang bước vào một giai
đoạn lịch sử mới đòi hỏi phải đa dạng hóa các mục
tiêu theo đuổi xứng danh một siêu cường thực sự.
Trong trường hợp TQ, một trong những thành tố quan
trọng nhất của sự vĩ đại còn thiếu vắng, đó chính là
uy lực đạo đức. Sự thiếu
vắng đó ngày một rõ nét hơn đối với giới lãnh đạo
TQ. Một phương cách bổ khuyết là họ phải ứng xử theo
đúng truyền thống Khổng giáo hơn là Pháp Gia.Thực
vậy, với việc chính quyền TQ cho thành lập Viện
Khổng Học nhiều nơi trên thế giới, các phương tiện
truyền thông và truyền hình giải thích và đề cao lời
dạy của đấng Vạn Thế Sư Biểu, và một học giả lên
tiếng hậu thuẫn đổi tên nước thành Cộng Hòa Khổng
Giáo Xã Hội Chủ Nghĩa, hình như thời cơ thực sự đã
đến. Tưởng
cũng nên nhắc lại ở đây một sự kiện lố bịch và mang
tính đạo đức giả thường gặp trong sinh hoạt thế giới
hiện nay. Tây phương nói chung, đặc biệt là Hiệp
Chủng Quốc, luôn rao giảng đạo đức - tự do, dân chủ,
nhân quyền... - cho các nước khác, kể cả TQ. Tây
phương và Hoa Kỳ cũng nên nhìn lại lịch sử đế quốc
và chế độ nô lệ, để tự điều chỉnh cách ứng xử hợm
hỉnh của mình trên khắp thế giới, đặc biệt là trong
thế giới thứ ba và các xứ cựu thuộc địa. Thời đại
'Thành Phố Trên Đỉnh Đồi' và 'Ngọn Hải Đăng'
đã lùi xa vào dĩ vãng. Trong nhiều thập kỷ gần đây,
người Mỹ cũng đã tận mắt chứng kiến uy thế đạo đức
của mình ngày một mờ nhạt. Trên bình diện nầy, Hoa
Kỳ và TQ cũng chỉ là hai người bạn đồng hành cùng
hội cùng thuyền. Liệu Hồ
Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, cả hai đều ưa thích Tứ Thư,
Ngũ Kinh, có thể nào trở thành hai quân tử thời nay
bằng cách vay mượn triết lý Khổng Giáo; liệu các giá
trị đạo đức có thể nào được hồi sinh - từ văn hóa cổ
truyền đã bị Mao ruồng bỏ - dưới hình thức một Tân
Khổng Giáo đầy ý nghĩa, là một điều, vào thời điểm
nầy, không ai có thể đoan chắc. Nhưng sự kiện, TQ
hiện nay đang đặc biệt lưu tâm đến Khổng Giáo, chứng
tỏ: chính người TQ đã bắt đầu cảm nhận được sự trống
vắng đạo đức trong cách ứng xử của chính quyền. Vì vậy,
khi TQ nhìn lại Thế Vận Hội và khi Hoa Kỳ đón chờ
một chính quyền mới, cả hai thấy mình đang ở trong
một trạng huống giống nhau. Cả hai đang đứng trước
thách đố phải tái khám phá, trong những giá trị
truyền thống, những suối nguồn đạo đức đủ để tăng
cường vốn liếng của sự phú cường - sức mạnh kinh tế,
quân sự, ngoại giao - cùng với yếu tố tế nhị nhưng
tuyệt đối thiết yếu cho sự vĩ đại thực sự. Trong
tác phẩm In Search of Wealth and Power xuất
bản cách đây gần nửa thế kỷ, Benjamin Schwartz đã
thấy rõ tình trạng bối rối khó xử đang đối diện TQ
và Hoa Kỳ hiện nay: 'Vấn đề tương quan giữa hệ
thống giá trị Faustian - chạy theo tiền tài, quyền
lực, phú cường - và sự thể hiện những giá trị chính
trị và xã hội, cả những giá trị nhân bản đích thực,
vẫn còn là một vấn nạn đối với cả hai quốc gia'.
GS
Nguyễn Trường Irvine,
California, U.S.A.
28-10-2008
|