Những bài cùng tác giả
Những
bài liên quan về kinh tế
Mỗi ngày, mọi người chúng ta đều có
thêm kinh-nghiệm về đời sống và tay nghề. Khi ở lớp trung-học, chúng
ta bỏ nhiều thì-giờ để giải lần đầu tiên một phương-trình. Sau đó,
nếu mỗi ngày chúng ta giải thêm phương-trình cùng loại thì chúng ta
sẽ giải mỗi ngày mỗi mau hơn. Giải được phương-trình mỗi ngày mỗi
mau hơn là do chúng ta tích-lũy "tay nghề giải phương-trình". Nhưng,
nếu trong một thời-gian dài, chúng ta không tiếp-tục giải
phương-trình thì tốc-độ giải phương-trình sẽ giảm thậm chí có khi
còn phải học lại cách giải.
Khi chúng ta mới đến một thị-xã thì chúng ta phải bỏ ra nhiều thì
giờ để đi từ nơi này đến nơi khác vì chúng ta phải tham-khảo bản-đồ,
hỏi thăm đường, đi lầm đường,... Sau đó thì chúng ta biết đường nên
đỡ tốn thì-giờ đi lại trong tỉnh. Lâu dần chúng ta còn biết thêm
những ngõ tắt và có thể di-chuyển mau hơn nữa. Điều đó là nhờ chúng
ta đã bỏ công để biết rành địa-thế. Nhưng nếu trong một vài năm
không trở lại thị-xã đó thì chúng ta lại phải bỏ thì-giờ để tìm
đường như xưa.
Một xí-nghiệp cũng vậy. Vào những năm 1930, kỹ-sư T. P. Wright,
giám-đốc một nhà máy sản-xuất phi-cơ, nhận thấy rằng cứ mỗi lần nhân
đôi tổng-số máy bay đã được sản-xuất thì thời-gian cần thiết để
sản-xuất thêm một máy bay giảm đi 20 phần trăm[1].
Khi một công-nhân lập lại nhiều lần một công-việc thì người đó bỏ ra
càng ngày càng ít thời-gian và/hay công-lao để thực-hiện việc đó.
Khi người đó lập lại nhiều lần một sản-phẩm thì chúng ta cũng nhận
thấy người đó bỏ ra càng ngày càng ít thời-gian và/hay
công-lao để thực-hiện sản-phẩm đó,
· chất-lượng của
sản-phẩm càng ngày càng cao,
·
dùng càng ngày càng ít vật-liệu để sản-xuất cùng một
sản-lượng
Những tiến-bộ về năng-suất mỗi khi lập lại một việc hay một sản-phẩm
gọi là "hiệu-ứng tay nghề" (learning effect) hay là "hiệu-ứng
kinh-nghiệm" (experience effect). Nhiều chuyên-gia về chiến-lược
công-nghiệp dùng cụm từ "hiệu-ứng tay nghề" khi nói về tỷ-số giảm
thời-gian hoàn-tất một việc của một cá-nhân hay một xí-nghiệp và cụm
từ "hiệu-ứng kinh-nghiệm" khi bao-hàm hiệu-ứng tay nghề cũng như tất
cả những tiến-bộ khác như giảm giá-thành, gia-tăng chất-lượng,
củng-cố an-toàn,... Thực ra thì hai khái-niệm đó có cùng nguồn gốc,
được mô-hình-hóa bằng cùng một tập-hợp hàm-số toán-học và dẫn đến
cùng một số kết-luận thực-tiễn về quản-lý chiến-lược. Vì thế những
nhà quản-lý xí-nghiệp không phân-biệt hai khái-niệm đó trong đời
sống hàng ngày.
Trong bài này, chúng tôi xin trình bày nguồn gốc hiệu-ứng tay
nghề, mô-hình toán học của hiệu-ứng, quan-trọng của hiệu-ứng trong
chiến-lược công-nghiệp và những việc phải làm để gây nên và duy-trì
hiệu-ứng đó.
1. Mô-hình toán học của hiệu-ứng tay nghề
Trong phần này chúng tôi xin
trình bày ba mô-hình :
·mô-hình
tích-lũy tay nghề theo sản-lượng,
·mô-hình
tích-lũy tay nghề theo thời-gian,
·
và mô-hình mất tay nghề.
Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng thích-hợp với những
quy-trình sản-xuất một sản-lượng nhỏ từ vài đơn-vị cho tới vài trăm
đơn-vị. Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian thích-hợp với những
quy-trình sản-xuất đại-tràng và liên-tục. Mô-hình mất tay nghề có
thể áp-dụng cho những cá-nhân sau khi đã có tay nghề cao nhưng không
còn tiếp tục lập lại công-việc hay sản-phẩm nữa vì nhiều lý-do
chính-đáng hay không.
Trong phần này, chúng tôi dùng cụm-từ "công-suất" để chỉ mọi
thể-hiện của năng-suất : nhịp lao-động khi sản-xuất hay bán hàng,
tỷ-số đơn-vị thích-ứng với tiêu-chuẩn chất-lượng (gọi là tỷ-số
thích-ứng), thời-gian sửa chữa một cỗ máy, số ngày máy vận-hành
không có vấn-đề, số ngày nhà máy vận-hành không có tai-nạn,...
1.1 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo sản-lượng
Giả tỷ mỗi lần nhân đôi số đơn-vị đã được sản-xuất thì thời-gian
sản-xuất của một đơn-vị giảm 20 phần trăm. Chúng ta có bảng sau
đây :
Tổng-số sản-lượng |
Tổng-số thời-gian
sản-xuất |
Thời-gian sản-xuất
trung-bình |
1 đơn-vị |
1.000 giờ |
1.000 giờ |
2 đơn-vị |
1.800 giờ |
900 giờ |
4 đơn-vị |
3.240 giờ |
810 giờ |
8 đơn-vị |
5.832 giờ |
729 giờ |
Bảng đó cho thấy rằng mỗi khi tổng-số sản-lượng đã được nhân đôi
thì thời-gian sản-xuất trung-bình để sản-xuất mỗi đơn-vị giảm chỉ
còn lại có 90 phần trăm. Tỷ-số 0,90 đó gọi là tỷ-số học nghề
(learning rate).
Người ta nhận thấy hiệu-ứng tay nghề ở mọi ngành nghề, kể cả những
ngành dịch-vụ. Những ngành công-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề mạnh
nhất là không-gian vũ-trụ, điện-tử, đóng tầu, xây-dựng, quân-khí,...
Những ngành dịch-vụ như là ngân-hàng, phân-phối, khách-sạn, hiệu
ăn,... có hiệu-ứng tay nghề gần như không đáng kể. Kinh-nghiệm cho
thấy một công-việc càng phức-tạp, càng cần đến sự đóng góp của con
người, thì hiệu-ứng tay nghề càng mạnh và, suy ra, tỷ-số học nghề
càng thấp. Dựa trên những những nghiên-cứu thống-kê, tiến-sĩ
R. D. Stewart[2]
nhận thấy một số tỷ-số học nghề như sau :
Lắp ráp 75% bằng tay và 25% bằng máy |
80% |
Lắp ráp 50% bằng tay và 50% bằng máy |
85% |
Lắp ráp 25% bằng tay và 75% bằng máy |
90% |
Trong ngành không-gian vũ-trụ |
85% |
Trong ngành đóng tầu |
80-85% |
Trong ngành chế-tạo
những máy công-cụ phức-tạp |
75-85% |
Chế-tạo lập lại trong ngành điện-tử |
90-95% |
Gia-công lập lại cơ-khí |
90-95% |
Động-tác lập lại trong ngành điện |
75-85% |
Động-tác lập lại trong ngành hàn |
90% |
Trong ngành vật-liệu thô |
93-96% |
Mua bộ-phận |
85-88% |
Xin chú ý những tỷ-số đó có thể biến-đổi từ xí-nghiệp này sang
xí-nghiệp khác, từ phân-xưởng này sang phân-xưởng khác mặc dù vẫn
cùng một ngành nghề, cùng một sản-phẩm. Điều nữa, hiệu-ứng tay nghề
chỉ có thể phát-hiện nếu xí-nghiệp có chính-sách cải-thiện liên-tục.
Từ những nhận-xét trên, chúng ta có thể thiết-lập phương-trình tính
thời-gian trung-bình Y để sản-xuất một đơn-vị sau khi đã
sản-xuất tổng-cộng x đơn-vị là :
với
A |
Thời-gian để sản-xuất đơn-vị đầu tiên |
x |
Tổng-số đơn-vị đã được sản-xuất |
b |
Hằng-số, gọi là hằng số tay nghề,
tính từ tỷ-số học nghề l như sau: |
|
Một thí dụ
Sau khi đóng 10 tầu đánh cá, ban kế-toán báo-cáo tổng kết như sau :
Thời-gian để đóng chiếc tầu thứ nhất |
15.000 giờ |
Tổng-số thời-gian để đóng 10 tầu |
70.000 giờ |
Xí-nghiệp vừa nhận được đơn tham-khảo giá cả để đóng thêm 5 tầu nữa.
Từ những số-liệu đó, chúng ta có thể tính hằng-số tiến-bộ tay nghề bằng
phương-trình
và suy ra
10b |
= |
70.000
10 x 15.000 |
= |
7
15 |
và
b = |
Ln(7) -
Ln(15)
Ln(10) |
=
|
-0,331
|
= |
Ln(l)
Ln(2) |
Suy ra, tỷ-số học nghề là
l
= 2-0,331 = 0,795 hay
là 79,5 phần trăm
Thời-gian trung-bình để sản-xuất mỗi tầu khi đã sản-xuất tổng-cộng 15 tầu là
15.000 x 15-0,331 =
6.121 giờ
và tổng-số thời-gian để đóng 15 tầu là
15 x 6.121 = 91.811
giờ
Vậy, để đóng thêm 5 tầu nữa thì phải bố-trí
91.811 - 70.000 - 21.811
giờ
1.2 Mô-hình tích-lũy tay nghề theo thời-gian
Công-suất Ym(t)
sau t giờ làm việc có thể tính như sau :
Ym(t)
|
= |
Yc
+
Yf |
[ |
1- exp |
( |
-t
T |
)] |
|
với
T |
Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà tiến-bộ tay nghề, gọi là
hằng-số tiến-bộ tay nghề |
Yc |
Công-suất khởi đầu |
Yf |
Tiến-bộ tay nghề tối-đa sau một thời-gian vô-tận |
Yc
+ Yf
là công-suất tiệm-cận, công-suất tối-đa có thể đạt
được.
Công-suất khởi đầu
Yc không
bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
Một thí dụ
Khi sản-xuất 1.000 đơn-vị sản-phẩm một công-nhân mới được đào-tạo sinh ra 20
đơn-vị không thích-ứng hay là 20.000 ppm (phần một triệu, parts per
million). Như vậy có nghĩa là tỷ-số sản-phẩm thích-ứng mà người ấy có thể
làm ra là 0,98. Theo kinh-nghiệm của ban thiết-kế, hằng-số tiến-bộ tay nghề
là 100 giờ.
Từ những số-liệu đó, tiến-bộ tay nghề tối-đa là 0,02 và hàm-số tiêu-biểu
của tỷ-số sản-phẩm thích-ứng là
Ym(t)
|
= |
0,98 +
0,02 |
[ |
1-exp( |
-
t
100 |
) |
] |
|
Tiến-bộ dự báo của công-nhân đó là như sau
Số giờ sản-xuất |
Tỷ-số đơn-vị
sản-phẩm thích-ứng |
Tỷ-số đơn-vị không
thích-ứng (ppm) |
40 (một tuần) |
0,986 593 6 |
13 406,4 |
480 (ba tháng) |
0,999 835 4 |
164,6 |
1.000 (chừng 3 tháng) |
0,999 999 1 |
0,9 |
Nếu phảỉ giao hàng với tỷ-số đơn-vị không thích-ứng dưới 1 ppm thì, thì
sau ba tháng kinh-nghiệm, vẫn còn phải kiểm-tra chọn loại sản-lượng của
công-nhân này trước khi gửi đến khách hàng. Nhưng sau sáu tháng thì chúng ta
có thể tin cậy và gửi đến khách hàng sản-lượng của công-nhân này mà không
cần phải kiểm-tra trước.
1.3 Mô-hình mất tay nghề
Khi ngưng sản-xuất trong một thì thời-gian công-nhân có thể mất tay nghề và
công-suất sẽ giảm xuống.
Mô-hình mất tay nghề tương-tự như mô-hình tích-lũy theo
thời-gian và chỉ áp-dụng cho tay nghề của nhân-viên thôi. Công-suất
Ym(t) sau t
ngày nghỉ việc có thể tính như sau :
Ym(t)
|
= |
Yc
-
Yf |
[ |
1-exp( |
-
t
100 |
) |
] |
|
với
T |
Hằng-số thời-gian tiêu-biểu của đà mất tay nghề, gọi là
hằng-số mất tay nghề |
Yc |
Công-suất khởi đầu |
Yf |
Thoái-lui tay nghề tối-đa sau một thời-gian nghỉ việc vô-tận |
Yc
- Yf
là công-suất tiệm-cận, công-suất
tối-thiểu của một người không có tay nghề.
Công-suất khởi đầu
Yc
không bắt buộc phải là công-suất khi sản-xuất đơn-vị đầu tiên.
2. Những áp-dụng của hiệu-ứng tay nghề
Hiệu-ứng tay nghề không phải là hậu-quả của những tiết-kiệm nhờ quy-mô mà
cũng không phải là một công-cụ để làm giảm gía thành. Nhưng khái-niệm
hiệu-ứng tay nghề giúp chúng ta thiết-lập một số chính-sách quản-lý dựa trên
giá thành.
2.1 Quản-lý nhân-lực
Khi một người mới được tuyển vào hãng thì có công-suất thấp. Nhưng khi quen
việc rồi thì sẽ có năng-suất cao. Từ những những mô-hình toán-học của
hiệu-ứng tay nghề trình bày ở trên, chúng ta suy ra công-suất của một người
mới ra nghề tăng mau hơn là sau khi đã thâm-niên. Vậy, lý-tưởng là tất cả
nhân-viên của một ngành nghề đều tích-lũy kinh-nghiệm tay nghề ngang nhau.
Từ mô-hình mất tay nghề chúng ta suy ra tốc-độ mất tay nghề khi mới ngưng
việc cao hơn là sau một thời-gian lâu.
Vậy chính-sách quản-lý nhân-lực của một xí-nghiệp cần theo hai hướng :
· ưu-tiên
trao việc cho những nhân-viên mới được tuyển và những nhân-viên trẻ mới
tốt-nghiệp, mặc dù năng-suất của họ kém, để họ mau chóng có kinh-nghiệm bằng
những đồng-nghiệp thâm-niên,
· để
duy-trì tay nghề của nhân-viên xí-nghiệp nên tạo điều-kiện để họ có dịp lập
lại có định-kỳ những việc họ đã có kinh-nghiệm.
2.2 Chính-sách giá bán một sản-phẩm mới
Khi một xí-nghiệp khai-triển một sản-phẩm mới thì kỹ-sư, nhân-viên vận-hành,
nhân-viên bảo-quản phải bỏ công ra để tìm hiểu quy-trình sản-xuất, quy-trình
kinh-doanh và để tìm cách làm cho mọi việc được tối-ưu. Vì những lý-do đó
giá thành của sản-phẩm lúc đầu bao giờ cũng cao hơn là sau khi một sản-lượng
lớn đã được sản-xuất.
Trong tình-huống đó, xí-nghiệp có thể bán với giá cao để cân bằng ngay
những chi-phí ban đầu. Nhưng xí-nghiệp cũng có thể bán với giá tương-xứng
với giá thành tương-lai để mau chóng có thị-truờng lớn, gây cơ-hội mau chóng
tich-lũy tay nghề và để mau chóng giảm giá thành.
Những xí-nghiệp khai-phá trước một thị-trường tích-lũy được nhiều sản-lượng,
nhiều kinh-nghiệm mà không phải so-sánh với đối-thủ. Tay nghề của họ đã cao,
suy ra, giá thành của họ đã giảm trước khi đối-thủ vào cuộc. Ngược lại, nếu
đặt chân vào một thị-trường đã có đối-thủ rồi thì phải đắn đo giá thành
tương lai sẽ có thể cạnh-tranh được không : quy-trình sản-xuất có hữu-hiệu
hơn, tích-lũy sản-lượng tương-lai sẽ vượt tích-lũy sản-lượng của đối-thủ
trong một thời-gian có thể chấp-nhận được...
2.3 Tiêu-chuẩn-hóa
Một công-nhân sẽ mau tích-lũy lượng tay nghề nếu không thay đổi sản-phẩm
phải sản-xuất. mau tổng-số Ngược lại nếu xí-nghiệp liên-tục đổi mặt hàng thì
nhân-công sẽ không kịp tích-lũy tay nghề. Mỗi lần đổi sản-phẩm thì một phần
tay nghề trước của xí-nghiệp sẽ mất đi. Để tích-lũy tay nghề thì xí-nghiệp
phải sản-xuất những gì có thể bán được nhiều hay có thể được lắp ráp từ
những bộ-phận chung sản-xuất đại-tràng.
Chúng ta cũng có một hiện-tượng tương-tự khi thay đổi phương-pháp
sản-xuất. Mỗi khi thay đổi một phương-pháp sản-xuất thì nhân-công phải học
lại và tích-lũy lại tay nghề. Một phương-thức làm việc đã được nghiên-cứu kỹ
trước thì sau này ít cần phải cải-tạo một khi đã được đưa vào áp-dụng. Nhờ
đó nhân-công sẽ có thể lập lại nhiều lần những đọng-tác sản-xuất và mau
chóng tích-lũy tay nghề.
Những nhân-xét đó chứng-minh sự cần-thiết phải tiêu-chuẩn-hóa cả sản-phẩm
lẫn phương-pháp sản-xuất.
2.4 Chính-sách thương-lượng giá cả
Khi bên mua và bên bán thương-lượng với nhau, cả hai bên đều biết rằng giá
thành của bên cung-cấp thế nào cũng giảm nhờ hiệu-ứng tay nghề. Hợp-đồng
cung-cấp thường có hai loại.
Cung-cấp một lượng sản-phẩm trong một hợp-đồng duy-nhất. Trong
trường-hợp đó, hiệu-ứng tay ghề, suy ra, giá thành trung-bình của mỗi
đơn-vị, tùy ở lượng sẽ được sản-xuất. Xí-nghiệp mua có cơ-sở để đòi giảm giá
mua trung-bình của mỗi đơn-vị nếu hứa tăng lượng mua vì lúc đó giá thành
trung-bình của mỗi đơn-vị của bên bán sẽ giảm nhờ hiệu-ứng tay nghề.
Cung-cấp theo nhịp tiêu-thụ của bên mua. Trong trường-hợp đó, mỗi khi
xí-nghiệp mua thêm một lượng sản-phẩm thì bên bán sẽ có dịp tích-lũy thêm
lượng sản-phẩm đã được sản-xuất . Nhờ đó giá thành trung-bình của mỗi đơn-vị
sẽ giảm và xí-nghiệp mua có cơ-sở để đòi giảm giá mua trung-bình của mỗi
đơn-vị so với đơn đặt hàng trước.
2.5 Quản-lý chiến-lược
Nhà tư-vấn Bruce Henderson của hãng tư-vấn BCG (Boston Consulting Group)
dùng khái-niệm hiệu-ứng tay nghề để quảng-bá một công-cụ chiến-lược
kinh-doanh gọi là mã-trận BCG[3].
Công-cụ đó dựa trên chiến-lược áp-đảo thị-trường bằng giá bán. Lý-luận của
chiến-lược đó là như sau :
Khi một xí-nghiệp bán rẻ thì sẽ bán nhiều.
Vì bán nhiều nên phải sản-xuất nhiều.
Nhờ sản-xuất nhiều nên tích-lũy nhiều sản-phẩm đã được
sản-xuất và tích-lũy tay nghề.
Nhờ hiệu-ứng tay nghề nên có thể giảm giá thành.
Với giá thành thấp xí-nghiệp có thể bán với giá rẻ.
Xí-nghiệp cứ theo cái vòng xoáy đức-hạnh đó mà gia-tăng thị-phần và loại
đối-thủ. Dựa trên nhận-xét đó, những xí-nghiệp có thể lập những chiến-lược
hay tập-hợp chiến-lược sau đây :
· đưa ra thị-trường một sản-phẩm mới trước những
đối-thủ để gia-tăng hiệu-ứng tay nghề và giảm giá thành trước khi đối-thủ
xâm-nhập thị-trường,
hạ giá để gia-tăng thị-phần,
sản-xuất những sản-phẩm khác nhau nhưng với nhiều
bộ-phận chung,
xác nhập với xí-nghiệp bạn để cộng chung thị-phần và
mau chóng tích-lũy tay nghề,
nghiên-cứu khai-triển những quy-trình sản-xuất làm
giảm giá thành.
Nếu không giảm được giá thành tới mức của đối-thủ thì xí-nghiệp nên tự ý rút
lui trước khi bị đối-thủ loại ra.
3. Kết-luận
Hiệu-ứng tay nghề áp-dụng cho những cá-nhân hay những
xí-nghiệp. Hiệu-ứng phản-ảnh kết-quả của tập-hợp những cố-gắng cải-thiện của
toàn-thể nhân-viên của xí-nghiệp. Hiệu-ứng tay nghề cá-nhân phản-ảnh những
tiến-bộ về năng-suất của một người. Tiến-bộ đó có hai
nguồn :
·
một người lập lại một quá-trình và, nhờ đó, trở nên
mỗi ngày mỗi thành-thạo hay hữu-hiệu hơn,
·
người đó hưởng-thụ những đổi thay về quản-trị,
thiết-bị, sản-phẩm và phương-cách làm việc.
Hiệu-ứng tay nghề tập-thể bao gồm cả hai nguồn tiến-bộ đó
tác-động cùng một lúc. Hiệu-ứng không chỉ giới-hạn ở những công việc tay
chân như lắp ráp mà cũng có thể áp-dụng một cách tổng-quát khi có sự
cương-quyết cải-thiện quy-trình sản-xuất. Một xí-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề
nhờ nhân-viên trực-tiếp tham-gia vào sản-xuất có thêm tay nghề, nhưng cũng
nhờ tất cả nhân-viên của tất cả các bộ-phận của xí-nghiệp đóng góp vào việc
cải-thiện sản-phẩm, phương-pháp làm việc, công-cụ sản-xuất, thiết-bị
vận-chuyển vật-liệu,... Ngoài ra khách hàng cũng tham-gia vào hiệu-ứng tay
nghề qua những đòi hỏi mỗi ngày mỗi khó khăn về khối-lượng cũng như về
chất-lượng mà xí-nghiệp phải giải-quyết.
Một xí-nghiệp có hiệu-ứng tay nghề nhờ nhân-viên có đầu
óc sáng-tạo, học hỏi từ những sai lầm xưa, chịu khó tìm cách cải-thiện,...
Hiệu-ứng biểu-hiện tư-cách đạo-đức của con người. Có xí-nghiệp
tích-lũy nhiều tay nghề, có xí-nghiệp cùng ngành tích-lũy rất ít. Ban
giám-đốc phải tạo điều-kiện để cho hiệu-ứng đó nẩy nở chứ không thể nêu lên
một chỉ-tiêu năng-suất rồi bắt nhân-viên phải đạt hay dựa vào đó để lập một
chiến-lược kinh-doanh.
[1] Chúng tôi thú-nhận
không được đọc báo-cáo của KS Wright đăng trong Journal of
Aeronautical Science và chỉ nêu quy-chiếu để những độc giả quan-tâm
có thể tìm đọc :
T. P. Wright, "Factors Affecting the Cost of Airplanes,"
Journal of Aeronautical Science, Vol.3, No.2, 1936.
[2]
Những số-liệu này do cơ-quan NASA (National Aeronautic and
Space Agency, Cơ-quan Hàng-không Vũ-trụ Quốc-gia) trích từ Rodney
D. Stewart, Richard M. Wyskida, and James D. Johannes : "Cost
Estimator's Reference Manual", Wiley-Interscience, 2nd Edition,
1995
và đăng ở địa-chỉ Internet
http://www1.jsc.nasa.gov/bu2/learn.html. Cuốn sách này đắt tới
150 US$. Chúng tôi đề-nghị những độc giả quan-tâm đến những vấn-đề
tính giá thành hạ-tải tài-liệu miễn-phí " 2004 NASA Cost Estimate
Handbook" đăng ở địa-chỉ Internet
http://ceh.nasa.gov/downloadfiles/2004_NASA_CEH_Final.pdf.
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org V
|