Những bài cùng tác giả SỰ CẦN
THIẾT MỘT CƠ CHẾ GIÁM SÁT
Tài hóa
công và thị trường tự do, theo định nghĩa, đã luôn mang tính tương khắc.
Luật lệ về ô nhiễm và vai trò cảnh sát là những ví dụ cổ điển. Trong cuộc
khủng hoảng tài chánh hai năm qua, tài hóa công tối cần nhưng thiếu vắng là
quy luật giám sát nghiêm chỉnh. Với một hệ thống giám sát yếu ớt, Wall
Street đã vay mượn liều lĩnh và đầy bất trắc. Những món nợ nầy đã cho phép
các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, lẽ ra đã không thể thực hiện, để mưu cầu
doanh lợi. Khi giá trị các vụ đầu tư bắt đầu suy giảm, các xí nghiệp chỉ có
một biên độ sai lầm bé nhỏ. Các xí nghiệp lâm vào tình trạng giống những kẻ
mua nhà chỉ trả một số tiền mặt lúc đầu (down payment) quá ít ỏi, và chẳng
bao lâu, đã không thể ngoi đầu lên khỏi mặt nước. Các ngân
hàng đầu tư, vì vậy, rất xứng đáng để bị chìm xuồng. Nhưng sự sụp đổ của
những ngân hàng lớn thường gây ra những tai họa khủng khiếp. Tín dụng và
thanh khoản sẽ cạn kiệt; và kinh tế có thể lâm vào vòng lẩn quẩn bong bóng
tích sản đổ vỡ, và công ăn việc làm thất thoát. Đó là những gì đã xẩy ra
trong năm 2008. Nhằm phục hồi các nguồn tín dụng, chính quyền liên bang đã
phải bỏ ra hàng trăm tỉ tiền thuế để ứng cứu. Một câu chuyện khùng điên:
chính quyền đã làm ngơ để các ngân hàng tạo mọi cơ hội làm giàu và ứng cứu
khi họ gặp tai họa. Chẳng khác gì các công ty dầu đã thủ lợi cùng lúc gây ô
nhiễm, Wall Street đã thủ lợi khi vận động gỡ bỏ giám sát, phương hại cho
quyền lợi chung của xã hội. Nếu có một
vấn đề trong các chính sách đối nội rời rạc của chính quyền Obama, đó là
chính quyền lẽ ra đã phải đầu tư nhiều hơn vào các tài hóa công: gia tăng
chi tiêu cho trường ốc, xa lộ, nghiên cứu khoa học, và cố gắng đóng một vai
trò tích cực trong chính sách năng lượng và dịch vụ y tế. Theo bộ trưởng
ngân khố Timothy F. Geithner, "tất cả đều là những bộ phận trong mạng
lưới những gì cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế, và chúng ta đã chưa
làm đủ tốt trong những năm gần đây".
Geithner nói tiếp, một phần quan trọng trong mạng lưới vừa nói là tái giám
sát tài chánh. Để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng
trong tương lai, kế hoạch của Obama cần phải thực hiên ba biện pháp căn bản.
Trước hết, các viên chức giám sát
cần được dành nhiều quyền để rà soát kiểm tra mọi việc, từ tín dụng bất động
sản đến mọi loại chứng khoán phức tạp. Điều nầy có nghĩa phải ngăn ngừa
những bom-mìn-tài-chánh-nổ-chậm trong tương lai, như tín dụng và
những trái khoán đầy bất trắc trong quá khứ. Biện pháp thứ hai tối quan trọng:
các xí nghiệp tài chánh cần bị buộc phải giảm số tín dụng tung ra thị
trường, hạn chế tỉ suất cho vay-vốn dự trữ, và gánh nặng nợ nần. Điều nầy
tương đương với biện pháp đòi hỏi các người mua nhà phải trả ngay từ đầu một
bách phân cao hơn: số thu nhập khả dụng sẽ giúp đem lại cho xí nghiệp tài
chánh một biên độ an toàn lớn hơn mỗi khi các khoản đầu tư gặp rắc rối.
Cuối cùng,
nếu biên độ không đầy đủ, chính quyền phải được quyền tiếp quản xí nghiệp
tài chánh sắp phá sản tương tự như hiện đã có thể hành động đối với các ngân
hàng chính thống. Cơ quan giám sát lúc đó có thể duy trì hoạt động của xí
nghiệp trong một thời gian cần thiết để ngăn ngừa hoảng loạn và sẽ từ từ
thanh toán mọi tích sản của xí nghiệp. Trong thực
tế, ngay chính giải pháp nầy cũng chưa chắc đã hiệu quả. Không ai có thể
đoan chắc bong bóng hay khủng hoảng tương lai sẽ đến từ đâu, vì vậy, làm
cách nào để ngăn ngừa. Người ta có thể đưa ra nhiều luận cứ cho nhiều hình
thức giám sát, và cũng đã không thiếu các cuộc thảo luận vào chi tiết các
biện pháp tái giám sát khác nhau. Làm sao quy định các loại chứng khoán?
Liệu cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ cần có một quy chế độc lập hay chỉ là một
bộ phận của Cục Dự Trữ Liên Bang? Cơ quan nào chịu trách nhiệm tiếp quản một
xí nghiệp sắp phá sản? Trong bối
cảnh đó, kế hoạch tái giám sát của chính quyền Obama có nhiều điều để khuyến
cáo. Kế hoạch sẽ phải lấp những lỗ hổng trong mạng lưới giám sát. Quốc Hội
phải tạm quên chính trị đảng phái và biểu quyết một luật quan trọng vào mùa
hè sắp tới. Trong trường hợp nầy, lý do quan trọng nhất để âu lo về kế hoạch
sẽ không phải bất cứ một trong số các chi tiết Quốc Hội đang bận tâm trong
những tháng gần đây, mà là một điều căn bản hơn nhiều. Dù guồng máy giám sát
ra sao đi nữa, cơ chế giám sát vẫn phải do các viên chức giám sát điều hành.
Cơ quan hữu trách sẽ ấn định các điều kiện vốn, quyết định khi nào đóng cửa
một xí nghiệp sắp vỡ nợ, và quy định một thế quân bình giữa nhu cầu bảo vệ
giới tiêu thụ mà vẫn để họ có đủ tự do lựa chọn. Pháp chế sẽ không xen vào
các chi tiết như thế, và Tổng Thống Obama cũng như chủ tịch Cục Dự Trữ Liên
Bang, Ben Bernanke, cũng chẳng mấy rõ ràng về những chi tiết nầy. Họ cũng
chưa đưa ra một triết lý chỉ đạo nào ngoài lời hứa các thanh tra giám sát sẽ
làm việc tốt hơn trong tương lai. Trong mọi
trường hợp, đây là đề tài liên quan đến bản tính con người nhiều hơn là
chính trị. Khủng hoảng tài chánh trong tương lai sẽ có lịch sử gần đây để
chiêm nghiệm. Giá trị các tích sản sẽ gia tăng, và các loại chứng khoán hay
dụng cụ tài chánh mới nào cũng sẽ có vẻ an toàn. Theo Paul A. Volcker,
nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, "khi mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp
thật khó lòng áp đặt một sự giám sát chặt chẽ vì mọi người đều chống đối".
Đã hẳn, cả Bernanke lẫn Geithner, cũng như nhiều thanh tra khác, đã chẳng
lưu tâm đến nhiều dấu hiệu nguy cơ dang rình rập trong thập kỷ vừa qua. Một phương
cách đối phó với sự chểnh mảng hay sai lầm của các viên chức giám sát là
nghiêm chỉnh thi hành các quy luật rõ ràng và đầy đủ, có mục đích giới hạn
khả năng của mọi người dễ dàng để bị thuyết phục bởi tư duy "bong bóng
sắp tới sẽ khác" - tỉ số tư bản dự trữ đòi hỏi lúc khởi đầu, chẳng hạn,
các ngân hàng không thể thay đổi. Cho đến nay, Tòa Bạch Ốc, Cục Dự Trữ Liên
Bang, và Quốc Hội hầu như hoàn toàn tránh né các quy luật như thế. Vì vậy,
tưởng cần phải đặt câu hỏi: kế hoạch tái giám sát hiện nay liệu có đủ các
biện pháp hỗ trợ cần thiết hay không? Trong trường hợp Wall Street đi trước
Hoa Thịnh Đốn một bước, hay các viên chức giám sát tương lai sơ hở trong
những đòi hỏi số tư bản dự trữ sơ khởi, hay khi chính quyền không kịp thời
tiếp quản "các Lehman Brothers tương lai" trước khi quá muộn, liệu
guồng máy tái giám sát có thể nào hoàn thành trách nhiệm giám sát. NGUYÊN NHÂN
KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY
Kể từ Kinh
Tế Đại Khủng Hoảng 1929-33, Hoa Kỳ đã được hưởng một giai đoạn sóng yên bể
lặng trong sinh hoạt ngân hàng. Trước Đại Khủng Hoảng, khủng hoảng tài
chánh thường là một phần của đời sống: theo chu kỳ trên dưới 10 năm. Khi
người dân quá âu lo về tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng, họ thường đua
nhau rút tiền. Trong lúc đó, vì đã cho các gia đình và xí nghiệp kinh doanh
khác vay, ngân hàng không còn đủ thanh khoản để đáp ứng. Trước tình
trạng khủng hoảng vào đầu thập kỷ 1930s, chính quyền Roosevelt và Quốc Hội
đã đưa ra hai biện pháp cải cách trong luật Glass-Steagall Act. Một mặt,
Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC (Công Ty Bảo Hiểm Ký Thác Liên
Bang) được thiết lập, để cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với các khoản ký thác
ở ngân hàng và bảo đảm khả năng rút tiền của giới gửi tiền dù ngân hàng vỡ
nợ. Mặt khác, các ngân hàng bị buộc phải giới hạn hoạt động trong phạm vi
cho vay truyền thống, không được phép dùng tiền ký thác của khách hàng để
đầu cơ cổ phiếu và bảo hiểm các loại chứng khoán (underwrite securities).
Hai loại biện pháp phối hợp tăng cường hai phương diện của sinh hoạt ngân
hàng - quan hệ với giới tiết kiệm (trái chủ) và giới đi vay (con nợ) - để
giảm thiểu nguy cơ phá sản của các ngân hàng. Thời kỳ sóng yên bể lặng ra
đời. Trong thập
kỷ 1980s, sóng gió lại nổi lên. Các ngân hàng bắt đầu đối diện với tình
trạng cạnh tranh mới, ve vãn và thu hút hai giới ký thác và vay nợ . Các gia
đình có thể gửi tiền vào các quỹ hỗ tương (mutual funds) như Fidelity và
Vanguard, những tổ chức trung gian thường hứa hẹn những lợi nhuận cao hơn
các chương mục tiết kiệm và đôi khi ít rủi ro bất trắc. Trong khi đó, các
công ty xí nghiệp trước kia chỉ có thể vay hay lệ thuộc vào các khoản cho
vay của ngân hàng để tài trợ các nghiệp vụ kinh doanh, giờ đây còn có thể
vay mượn dễ dàng trên các thị trường trái phiếu (bond markets). Những đổi
thay nầy rõ ràng đã mang lại nhiều điều lợi. Như Daniel K. Tarullo, một
thống đốc trong Cục Dự Trữ Liên Bang do T T Obama tiến cử, đã nói: "Các
quy định New Deal đã bảo trợ một hệ thống ngân hàng, trong phần lớn 40 năm
qua, khá ổn định và hữu lợi, mặc dù không có gì đặc biệt sáng tạo trong việc
đáp ứng các nhu cầu của các khách hàng ký thác và vay nợ".
Trong hệ thống mới cạnh tranh gay gắt hơn, tiền lãi vay mượn đã giảm sụt
nhiều. Thẻ tín dụng (credit cards), thẻ tá phương (debit cards), A.T.M.'s,
và các nghiệp vụ ngân hàng trực tuyến (online banking), đã đem lại nhiều
tiện lợi cho giới tiêu thụ. Lợi nhuận tương đối cao trên thị trường chứng
khoán đã hấp dẫn một số đông đảo quần chúng hơn trước. Các xí nghiệp với tư
bản chờ cơ hội đầu tư (venture-capital firms) đã chuyển nhiều ý tưởng thành
doanh nghiệp. Nhưng hệ
thống mới có một nhược điểm cực kỳ nguy hiểm. Các tổ chức cạnh tranh mới của
ngân hàng rất ít được giám sát. Họ không trực tiếp bị ràng buộc bởi các
"giới hạn Roosevelt". Geithner nói, "chúng tôi có toàn bộ một hệ
thống bên ngoài ngân hàng không hề chịu những hạn chế đáng kể về tư bản dự
trữ và hiệu năng đòn bẩy".
Các ngân hàng đầu tư như Lehman Brothers đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận lớn
lao, một phần qua thế mạnh đòn bẩy lớn hơn các ngân hàng chính thống. Dùng
một hình ảnh ví von: chẳng khác nào họ chỉ cần bỏ ra 3% giá mua một bất động
sản trong khi các ngân hàng phải trả trước một bách phân ít ra 20%. Chỉ cần
giá nhà gia tăng 3%, Lehman đã có thể tăng gấp đôi số đầu tư của mình. Cũng
tương tự như vậy, A.I.G. đã sáng tạo các derivatives - loại chứng
khoán với tỉ lệ đòn bẩy rất cao - hầu như hoàn toàn thoát khỏi mọi giám sát
của chính quyền. Để cạnh
tranh, các ngân hàng chính thống bắt đầu vận động cởi bỏ mọi giám sát
(deregulation), ngõ hầu có thể nhảy vào các quỹ đầu tư hổ tương (mutual
funds) và giúp các công ty bán cổ phiếu và trái phiếu. Năm 1999, chính quyền
Clinton và Quốc Hội với đa số Cộng Hòa đã hủy bỏ hầu hết các điều khoản hạn
chế của Luật Glass-Steagall, chính thức cho phép các ngân hàng chính thống
mở rộng phạm vi hoạt động bao gồm các hình thức đầu tư đầy rủi ro bất trắc.
Tuy vậy, các tổ chức cạnh tranh mới của ngân hàng - ngân hàng đầu tư, các
hảng bảo hiểm, các quỹ đầu cơ, và nhiều xí nghiệp khác gọi chung như các "ngân
hàng nhại phi chính thống" (shadow banks) - vẫn tiếp tục được tự do (ít
được giám sát) và phát triển nhanh chóng. Dựa vào lực đòn bẩy, các ngân
hàng phi chính thống đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận khổng lồ vì luôn đi
trước các nhà đầu tư đúng nghĩa một bước, hoặc chỉ cần nắm bắt và lợi dụng
thị trường đang nóng bỏng (bull market). Theo Volcker, "lợi nhuận của các
xí nghiệp nầy đã vượt xa bất cứ phần đóng góp nào của họ vào nền kinh tế". Trong thực
tế, các giao dịch ngân hàng phi chính thống chiếm khoảng một nửa doanh số
của hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Những giao dịch nầy cũng đã giúp tái tạo loại
điều kiện tiên quyết (preconditions) đưa đến khủng hoảng hiện hữu trước thập
kỷ 1930s. Các xí nghiệp dựa vào lực đòn bẩy cao rất dễ bị thương tổn bởi
tình trạng mất tin tưởng. Lần nầy, nạn mất lòng tin hay hoảng sợ không đến
từ cá nhân các khách hàng ký thác - vẫn được FDIC bảo vệ - mà từ các xí
nghiệp tài chánh khác. Trung tâm của hệ thống tài chánh hiện nay là repo
market trong đó các xí nghiệp hàng ngày cho nhau vay mượn những số tiền
kếch xù. Nếu các đối tác bất thần cảm thấy âu lo khi một xí nghiệp thứ hai
vay tiền của họ đang gặp khó khăn, họ lập tức đòi thêm thế chấp. Một khi một
xí nghiệp cho vay bắt đầu đòi thêm thế chấp bảo đảm, các xí nghiệp khác sẽ
lo ngại hơn và cũng hành động tương tự. Điều nầy cũng không mấy khác làn
sóng các người ký thác đổ xô đến các ngân hàng rút tiền, chỉ khác ở chỗ giờ
đây qua điện thoại và máy vi tính thay vì chen chúc trước cửa ngân hàng.
Tháng 9-2008, JP Morgan Chase và Citigroup đã hành động như vậy đối với
Lehman, và đã thực sự đẩy Lehman đến chỗ phá sản. Sự sụp đổ của Lehman lập
tức khởi động tình trạng hoảng sợ trên khắp thế giới. Sự cởi bỏ
giám sát trong mấy thập kỷ vừa qua đã bị lên án là thủ phạm gây ra cuộc
khủng hoảng tài chánh hiện nay. Và sự cởi bỏ giám sát một phần nào cũng xứng
đáng bị chỉ trích. Nếu Citigroup và Bank of America tuân thủ các quy luật
New Deal trong quá trình hoạt động, các định chế nầy có lẽ đã có thể tránh
khỏi tai họa suýt phải vỡ nợ. Nhưng tưởng cũng nên dành chút thì giờ để nghĩ
xem xí nghiệp nào gặp nhiều khó khăn nhất. Đó chính là các ngân hàng phi
chính thống: những ngân hàng đầu tư độc lập như Lehman, Bear Stearns và
Merrill Lynch; và các xí nghiệp khác như A.I.G., thực ra không phải ngân
hàng. Những ngân hàng đầu tư và các xí nghiệp nầy không hoàn toàn bị chi
phối bởi luật lệ New Deal, và không mấy bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cởi
bỏ giám sát. Gốc rễ của
khủng hoảng, như vậy, không phải từ luật lệ đã thay đổi. Thị trường tài
chánh đã biến đổi, và Hoa Thịnh Đốn đã không bắt kịp. Vì vậy, tái lập một
giai đoạn ổn định có lẽ không thể chỉ tìm cách phục hồi các luật lệ cũ, mà
hầu như chắc chắn phải cần những luật lệ mới, hoặc toàn bộ hay được cải tiến
tinh tế hơn. BẢO VỆ GIỚI
TIÊU THỤ
Năm 1988,
Quốc Hội đã sáng lập ra Schumer box (hộp Schumer). Lấy tên của
Charles Schumer, Nghị sĩ bang New York, lúc đó còn là dân biểu Hạ Viện,
hộp Schumer đã trở thành một phần bắt buộc trong đơn xin thẻ tín dụng
(credit card), liệt kê lãi suất, niên phí, và các con số căn bản khác. Hộp
Schumer nhằm nhiều mục đích. Một trong những mục đích là người nào không
muốn trả cước phí hàng năm có thể gạt bỏ bất cứ loại thẻ tín dụng nào đòi
hỏi niên phí. Tuy nhiên, với thời gian, các ngân hàng đã tìm ra phương cách
lấy cước phí mới không bị chi phối bởi hộp Schumer. Các ngân hàng đã sáng
tạo nhiều xảo thuật mới thêm vào thẻ tín dụng và đã thu được hàng triệu cước
phí phụ như tiền phạt (penalties) khi người dùng thẻ vượt quá giới hạn
tối đa trong thẻ tá phương (overdraft fees in debit cards). Một
lần nữa, Wall Street đã đi trước Hoa Thịnh Đốn một bước. Thật là
điên rồ khi tưởng chúng ta có thể nghĩ ra một gói hỗn hợp vừa phải các quy
luật và điều lệ để ngăn ngừa những lạm dụng như vậy. Nếu các viên chức có
trách nhiệm giám sát luôn bị ràng buộc bởi các quy luật minh thị và khu vực
tư luôn duy trì được tính mềm dẻo du di, các quan chức giám sát không bao
giờ có thể bắt kịp. Chính vì lẽ đó, một ít quyền chuyên quyết vẫn luôn là
một bộ phận thiết yếu của cơ chế tái giám sát. Trong bối
cảnh đó, chính quyền Obama đã đề nghị thành lập một cơ quan mới - Ủy Hội
Sản Phẩm Tài Chánh An Toàn (Financial Product Safety Commission - FPSC)
- cho phép các viên chức giám sát được quyền quyết đoán nhiều hơn họ đã từng
có trong quá khứ. Họ không chỉ đơn thuần thi hành luật lệ. Họ có thể có đủ
khả năng kiểm tra hiện trạng thị trường trong thời gian đích thực. Nếu các
ngân hàng che giấu cước phí các thẻ tá phương, hay thuyết phục hàng triệu
người vay nợ có thế chấp bất động sản vượt quá khả năng trả nợ - những lề
lối đã đem lại những lợi nhuận khổng lồ trong thập kỷ vừa qua - Ủy Hội có
thể cảnh cáo hoặc cấm chỉ thủ thuật liên hệ. Quyền hạn của Ủy Hội cũng tương
tự như của Ủy Hội Tiêu Thụ Phẩm An Toàn (Consumer Product Safety
Commission), cơ quan kiểm tra tính an toàn trong đồ chơi trẻ con và
nhiều tiêu thụ phẩm khác. Ngày nay, chưa có một cơ quan tài chánh tương
đương để bảo vệ quyền lợi giới tiêu thụ. Cơ chế bảo
vệ giới tiêu thụ đã trở thành phần tranh cãi nhiều nhất trong cuộc thảo luận
về tái giám sát, tương tự như "biện pháp chọn lựa công" (public option)
trong cuộc tranh luận về bảo hiểm y tế. Richard C. Shelby, nghị sĩ Cộng Hòa
trong Tiểu Ban Ngân Hàng, đã nói rõ lập trường chống đối một cơ quan độc lập
như thế. Một phần, sự chống đối của phe Cộng Hòa phản ảnh lập trường của
giới ngân hàng. Nhưng thái độ chống đối cũng phản ảnh sự âu lo: các quan
chức giám sát sẽ bóp chết mọi sáng kiến canh tân, hay, ngược lại, sẽ thúc
đẩy các ngân hàng, nhân danh giới tiêu thụ, lấy những quyết định liều lĩnh
và thiếu khôn ngoan. Đó là điều đã xẩy ra cho Fannie Mae và Freddie Mac,
hai tổ chức tín dụng công, đã giúp tăng cường làn sóng cho vay với lãi suất
cực thấp subprime lending - nguyên nhân đưa tới bong bóng bất động
sản.
Trong những
tuần lễ gần đây, các nghị sĩ đang thảo luận khả năng cho ra đời một hình
thức nào đó của cơ chế nầy - có lẽ nằm bên trong Cục Dự Trữ Liên Bang - có
thể được phe Cộng Hòa ủng hộ. Tuy nhiên, Cục Dự Trữ Liên Bang nhiều lần
trong lịch sử đã tỏ ra không mấy hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền lợi giới
tiêu thụ. Vì lý do đó, nghị sĩ Christopher J. Dodd, chủ tịch Ủy Ban Ngân
Hàng Thượng Viện, đã đưa ra đề nghị: dành cho cơ quan sẽ thiết lập một
ngân sách riêng và vị giám đốc sẽ do Tổng Thống bổ nhiệm. Tuy nhiên,
điều quan trọng không phải chức năng giám sát đặt trụ sở ở đâu, mà chính là
phương cách tiếp cận vai trò giám sát. Về phương diện nầy, cơ quan giữ chức
năng giám sát có thể là một bộ phận phản ảnh tính quyết đoán chính trị trong
kế hoạch của Obama, và cũng phản ảnh khuynh hướng ưa chuộng các chính sách
cơ sở trên nghiên cứu thực dụng của chính Tổng Thống và các cố vấn thân cận.
Thực dụng (pragmatic) là từ được Tổng Thống ưa thích. Theo quan niệm của các
quan chức Bạch Ốc và Bộ Ngân Khố, cơ quan mới nầy sẽ là một phó sản của
ngành kinh tế ứng xử (behavioral economics), một ngành phối hợp tâm lý và
kinh tế học nhằm nghiên cứu cách ứng xử thực tế của quần chúng trong đời
thường, thay vì họ nói họ sẽ ứng xử như thế nào hoặc các mô hình lý thuyết
tiên đoán họ sẽ ứng xử ra sao. Cơ quan cũng có thể tổ chức các cuộc thử
nghiệm giúp các nhà khoa học xã hội nghiên cứu cách đáp ứng của giới tiêu
thụ đối với các lựa chọn do các xí nghiệp tài chánh đưa ra. Michael S.
Barr, phụ tá đặc trách các định chế tài chánh của bộ trưởng Geithner, nguyên
giáo sư Đại Học Michigan, chuyên nghiên cứu các vấn đề tài chánh của giới
tiêu thụ. Sendhil Mullainathan, giáo sư Harvard, đối tác nghiên cứu của
Barr, năm rồi đã làm việc tại bộ Ngân Khố và Cục Quản Lý và Ngân Sách
, chuyên trách thiết kế các cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ. Theo Mullainathan,
trong nhiều địa hạt của đời sống, động lực kiếm lời luôn có tác dụng gián
tiếp hỗ trợ an sinh của giới tiêu thụ. Người tiêu thụ hiểu rõ giày hay điện
thoại di động nào tốt và các công ty cạnh tranh nhau cả về giá cả lẫn chất
lượng. Trong nhiều địa hạt khác, người tiêu thụ không thể phân biệt hàng tốt
với hàng xấu. Vấn đề quá phức tạp, chẳng hạn, lãi suất hay lãi kép
(compound interests/returns). Trên phương diện lý thuyết, các công ty có thể
tìm cách giúp khách hàng làm quen với những đề tài nầy. Nhưng đây là những
vấn đề khó khăn. Việc dễ làm hơn là lợi dụng bản năng sẵn có của người tiêu
thụ. Do đó, các công ty bán những sản phẩm kỹ thuật cao không muốn cạnh
tranh nhau về giá cả và chất lượng. Họ cạnh tranh nhau qua các xảo thuật
quảng cáo hay những mánh-khóe-khuyến-mãi-quá-hấp-dẫn-để-có-thể-có-thật
(slick advertising or too-good-to-be-true offers), chẳng hạn, quảng cáo
lãi suất khởi đầu thấp.
Mullainathan nói, "nhiều người nghĩ, các công ty đang tìm cách phá hoại
cái gì tốt cho tôi. Nhưng hãy nghĩ đến anh chàng chịu trách nhiệm về đơn vị
phân phối thẻ tín dụng. Anh ta chỉ biết làm nhiệm vụ. Anh ta chỉ phải làm
theo khúc tuyến cầu".
Và đường biểu diễn sức cầu lại chỉ cơ sở trên các yếu tố thực sự chi phối số
cầu của người tiêu thụ đời thường, chứ không phải trên các yếu tố nhiều
người mong muốn sẽ có thể ảnh hưởng đến số cầu. Nhiều người thực sự sẵn sàng
ký vào hợp đồng tín dụng bất động sản với số tiền trả hàng tháng khởi đầu
thấp, ngay cả khi trong thực tế họ không hy vọng có đủ khả năng trả tiền nhà
hàng tháng sau nầy. Giải pháp
hữu hiệu duy nhất cho vấn đề là quy định và giám sát. Các viên chức giám sát
bảo đảm tính an toàn của phi cơ, bởi lẽ giới tiêu thụ - hành khách hàng
không - không thể kiểm tra các động cơ. Các hãng hàng không chỉ cạnh tranh
nhau về những gì kháck hàng có thể thẩm định, như giá vé, chỗ ngồi thoải
mái, đường bay thuận lợi, và các loại giải trí truyền hình trong thời gian
bay... Theo Mullainathan, mục đích của cơ quan giám sát là "chạy theo
dòng thác cạnh tranh gay gắt và điều chỉnh dòng thác theo chiều hướng có lợi
cho người tiêu thụ".
Mới đây,
Michael S. Barr cho biết một mẩu hóa đơn tiền nợ thẻ tín dụng được thiết kế
theo dạng thức có thêm "hộp Schuman" có thể cập nhật qua thời gian.
Ngay cả khi hộp nầy không có hiệu lực pháp lý hay bắt buộc, các ngân hàng có
thể được khuyến khích sử dụng. Các nhóm tư nhân có thể nhận diện các ngân
hàng với cước phí che giấu. Barr cũng đưa ra ý niệm thay thế các giấy tờ rắc
rối người mua nhà phải ký nhận khi giao dịch đã hoàn tất, bằng một tài liệu
đơn giản tiết lộ điều kiện vay mượn đã thỏa hiệp. Đây là tài liệu ghi rõ
những thông tin căn bản nhất, và khác với hồ sơ quá nhiều giấy tờ phức tạp
trước đây người mua phải ký, nhiều người mua nhà, giờ đây, có thể đọc và
hiểu.
Tự nó, cơ
quan bảo vệ người tiêu thụ khó thể ngăn ngừa mọi khủng hoảng tài chánh trong
tương lai. Các cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có khuynh hướng có nhiều
gốc rễ nằm sâu bên trong Wall Street, với những loại chứng khoán phức tạp
người tiêu thụ không bao giờ thấy hoặc hiểu nổi. Trong một dự luật trước
Thượng Viện, hội đồng các ủy viên giám sát, do Bộ Trưởng Ngân Khố chủ tọa,
sẽ làm việc với Cục Dự Trữ Liên Bang, có trách nhiệm kiểm tra các bất trắc
rủi ro trong hệ thống tài chánh khi đang khai triển. Điều thiết yếu là ủy
hội có thể giám sát và kiểm tra các ngân hàng chính thống lẫn các ngân hàng
nhại phi chính thống. TIẾT GIẢM
TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG
Hiệu năng
guồng máy giám sát phần lớn tùy thuộc ở sự khôn ngoan của các quan chức điều
hành - những con người cũng dễ bị lôi cuốn theo làn sóng lạc quan của bong
bóng. Và các viên chức chính quyền - đặc biệt là Geithner, kiến trúc sư
chính của kế hoạch tái giám sát - rất nhạy cảm đối với ý kiến đòi hỏi quá
nhiều quyền chuyên quyết cá nhân. Giải pháp của họ tùy thuộc ở những điều
kiện tư bản dữ trữ đòi hỏi để ngăn ngừa tai nạn sụp đổ tài chánh tương lai.
Họ gọi những đòi hỏi nầy như những lớp đệm trên phi đạo (runway) các
sân bay. Chừng nào một xí nghiệp có đủ các tích sản có giá trị vững chắc -
và có thể cải hoán thành giá trị bằng tiền mặt - xí nghiệp sẽ có thể vượt
qua những bất trắc do đầu tư thất bại và giám sát thiếu hiệu quả. Geithner
nói với báo The New York Times, "chúng tôi không biết cuộc khủng hoảng
sắp tới sẽ đến từ đâu. Chúng tôi sẽ không thể tiên đoán. Chúng tôi sẽ không
thể chặn trước các bong bóng trong tương lai. Vì vậy, chúng tôi muốn xây
dựng một lớp đệm lớn hơn rất nhiều trong hệ thống để khống chế tính
nhân-vô-thập-toàn cơ bản của con người. Tôi không muốn một hệ thống lệ thuộc
vào sự sáng suốt hay can đảm. Ba điều quan trọng nhất cần làm là tư bản, tư
bản, và tư bản". Nhiều người
chia sẻ cách nhìn rộng rãi nầy. Shelby đã nói đến tầm quan trọng của tư bản
dự trữ. Sheila Bair, chủ tịch FDIC, cũng đồng ý, và đôi khi đã va chạm với
các cố vấn kinh tế của Obama. Cách tốt
nhất để hiểu tầm quan trọng của tư bản dự trữ là nhìn lại số phận của những
xí nghiệp đi vào cuộc khủng hoảng với những lớp đệm tương đối dày. Theo phúc
trình gần đây của McKinsey & Company, năm 2007, các ngân hàng thương mãi đã
có một tỉ lệ đòn bẩy trung bình 12 /1. Điều nầy có nghĩa: các ngân hàng phải
có 1USD tích sản cho 12 USD nợ. Tỉ lệ nầy đủ an toàn cho nhiều ngân hàng để
có thể sống sót tương đối an lành sau mỗi khủng hoảng. Ở Canada, các xí
nghiệp tài chánh có một tỉ lệ trung bình 18/1, và Canada đã thoát khỏi khủng
hoảng tương đối an lành hơn bất cứ quốc gia phát triễn nào khác. Ngược lại,
năm ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ - Bear Stearns, Goldman Sachs, Lehman
Brothers, Merrill Lynch và Morgan Stanley - có tỉ suất trung bình gần hoặc
trên 30/1. Trong số năm ngân hàng đầu tư nầy, Lehman sập tiệm, Bear và
Merrill phải sáp nhập vào các công ty khác với một giá bán tích sản rẻ mạt,
và Goldman và Morgan Stanley khó thể sống còn nếu không có cứu trợ của chính
quyền. Cuộc khủng
hoảng đã khiến Wall Street trở nên bảo thủ hơn. Nhưng tình trạng nầy sẽ
không kéo dài. Để tự xoay xở, các xí nghiệp tài chánh sẽ lại vay nợ nhiều và
đầu cơ liều lĩnh. Họ có nhiều lý do để hành động như vậy. Một công trình
nghiên cứu của Wall Street Journal đã đi đến kết luận: nếu áp đặt một số
chuẩn mực đòn bẩy khắt khe hơn trong 5 năm trước cuộc khủng hoảng, lợi nhuận
của các xí nghiệp lớn đã có thể phải chịu sụt giảm gần 25%. Mô hình để
thiết kế các quy luật tư bản dự trữ tương lai là những trắc nghiệm sức đề
kháng - stress tests - Cục Dự Trữ Liên Bang đã thực hiện trong năm
rồi, để thẩm định sức chịu đựng hay đề kháng của từng ngân hàng. Geithner
thuyết phục Obama thực hiện những trắc nghiệm như một phần cốt lỏi của chiến
lược cứu nguy tài chánh. Kết quả đã đưa đến một điểm ngoặt trong quá trình
khủng hoảng. Các ngân hàng ở Hoa Kỳ giờ đây lành mạnh hơn trong nhiều xứ, và
kinh tế Mỹ đang tăng trưởng nhanh hơn. Ấn tượng hơn nữa là, theo thống kê
của IMF, chương trình cứu trợ đã có những dấu hiệu ít tốn kém hơn nhiều so
với các phí tổn thu dọn sạch sẽ trung bình sau khủng hoảng tài chánh. Nhìn xa
hơn, Geithner xem các trắc nghiệm sức đề kháng như một phương cách chứng tỏ
những gì Cục Dự Trữ Liên Bang có thể thành đạt khi được trao quyền phối trí
và giám sát mọi bộ phận của hệ thống tài chánh, kể cả các ngân hàng nhại phi
chính thống. Hơn nữa, các trắc nghiệm có thể là bằng chứng Cục Dự Trữ Liên
Bang giờ đây tin tưởng vào hiệu năng giám sát sau nhiều thập kỷ luôn coi
nhẹ. Trong khuôn khổ quy hoạch mới, Cục Dự Trữ Liên Bang - một kho tàng các
chuyên gia ngân hàng và các kinh tế gia phi chính trị được huấn luyện kỹ
càng - sẽ được trao một vai trò quan trọng hơn trong tương lai. Tuy nhiên,
chúng ta có đủ lý do để tự vấn: liệu những tấm đệm tư bản dự trữ, ít ra dưới
hính thức hiện nay, sẽ đủ để giúp vượt qua các giới hạn nhân-vô-thập-toàn
nhân sự. Chính quyền và Quốc Hội đã cố tình mập mờ về các tỉ lệ tư bản dự
trữ. Họ chưa hề đưa ra những con số hay giải thích nhiều chi tiết: chẳng
hạn, các tỉ lệ sẽ thay đổi tùy theo kích cỡ xí nghiệp như thế nào hay họ sẽ
đối phó ra sao với các tích sản nằm ngoài đối chiếu biểu. Cách tiếp cận của
chính quyền và Quốc Hội có điểm lợi là các chi tiết kỹ thuật sẽ tránh khỏi
quá trình mặc cả và tương nhượng ở Quốc Hội, tương tự như việc ấn định lãi
suất là một quá trình dành cho Cục Dự Trữ Liên Bang , thay vì Quốc Hội. Sự
mập mờ cũng đem lại cho các nhà giám sát Hoa Kỳ nhiều tự do hơn trong việc
phối hợp với các quan chức giám sát nước ngoài. Vả chăng, tránh được sự xoi
mói của công chúng, các đòi hỏi tư bản dự trữ sẽ trở thành một đề tài cuối
cùng sẽ tùy thuộc vào quyền chuyên quyết của cơ quan giám sát. Các xí
nghiệp Wall Street sẽ có cơ may thuyết phục Cục Dự Trữ Liên Bang là họ có
thể không cần đến nhiều vốn liếng như người ta nghĩ. Đã hẳn, các xí nghiệp
sẽ phải đưa ra vài mô hình toán học tinh vi phức tạp hậu thuẩn cho lập
trường của mình. Tuy nhiên,
các trắc nghiệm sức đề kháng cũng thường chỉ được tổ chức khi các ngân hàng
yếu ớt về các phương diện tài chánh và chính trị. Khi mọi chuyện đều tốt đẹp
như trong thập kỷ vừa qua, các viên chức Cục Dự Trữ Liên Bang - không riêng
gì Alan Greenspan - đã chểnh mảng, hờ hửng trong việc sử dụng quyền hạn của
mình. Họ sẵn sàng tin các lý lẽ biện minh cho bong bóng do Wall Street đưa
ra. Điều đó rất dễ tái diễn. Trường hợp điển hình là chính Geithner. Mặc dù
Geithner bị chỉ trích quá gần gũi với Wall Street, ông ta chưa bao giờ làm
việc ở đó. Ông suốt đời là công chức. Khi chính quyền Clinton sắp mãn nhiệm
kỳ, người đỡ đầu của Geithner, Robert Rubin, cho Geithner biết ông có thể có
một việc làm béo bở ở Wall Street. Tuy vậy, Geithner đã nhận một chức vụ
khiêm tốn hơn với IMF. Trong tư cách chủ tịch Dự Trữ Liên Bang New York,
Geithner đã đưa ra nhiều báo động hơn bất cứ viên chức giám sát nào khác.
Ông thúc đẩy nhân viên dưới quyền và các lãnh đạo ngân hàng phải nghĩ đến
các ngân hàng đang có bao nhiêu vốn liếng và cần có bao nhiêu.
Ông cảnh cáo những thời kỳ bình ổn thường đưa đến các cuộc khủng hoảng bất
ngờ, không được tiên đoán, và một khi lòng tin bắt đầu lung lay, nó có thể
sẽ biến mất nhanh chóng. Trên phương diện trí thức, ông hiểu rõ mọi việc có
thể trở nên khó khăn như thế nào. Tuy nhiên,
điều ông đã để tuột khỏi tầm tay, chính là mọi việc đã chệch hướng trong một
số định chế do ông giám sát. Tháng 5-2007, trong bài nói chuện ở hội nghị Dự
Trữ Liên Bang ở Georgia, Geithner phát biểu "Canh tân tài chánh đã cải
thiện khả năng đo lường và quản lý các rủi ro bất trắc". Ông nói tiếp:
"các xí nghiệp lớn thường mạnh mẽ về tư bản tương đối với bất trắc".
Bernanke, chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã từng nhiều lần có những tuyên
bố, giờ đây nhìn lại, người ta thấy còn tệ hại hơn nhiều. Ông chẳng những đã
tuyên bố các bong bóng rất khó nhân diện. Ông còn tích cực chối bỏ cả bong
bóng bất động sản. Như vậy, có
thể nào quan điểm của Bernanke và Geithner sẽ đúng đắn hơn trong tương lai?
Cũng có thể. Nhưng đây là điều rất khó tin. Cả hai đã dành sự nghiệp của
mình nghiên cứu và giải quyết các khủng hoảng tài chánh. Ngay cả một vài
đồng nghiệp bất đồng quan điểm với hai ông cũng đồng ý cả hai đều rất thông
minh. Với tư chất và khả năng như thế, lẽ ra hai ông đã phải là những người
có đủ uy tín cần thiết cho vai trò những viên chức giám sát sáng suốt và
kiên quyết, nhưng họ đã không hành động như thế. Giải pháp
thay thế như vậy là gì? Canada đã đem lại một bài học rõ ràng. Họ trông cậy
vào các quy luật trực tiếp và minh bạch hơn Hoa Kỳ. Canada buộc tín dụng
bất động sản với ít hơn 20% trả trước phải được bảo hiểm, và loại tín dụng
nầy rất ít phổ thông ở Canada. Canada cũng ấn định tỉ lệ đòn bẩy chuẩn
không được vượt quá 20/1. Julie Dickson, lãnh đạo ngành giám sát Canada, đã
từng tuyên bố: "Chúng tôi trở nên thực sự cứng rắn khi các ngân hàng tiến
gần đến tỉ lệ trần nầy". Những quy
luật trực tiếp và minh thị cũng có nhiều vấn đề riêng. Nhưng những quy luật
nầy cũng gửi đi những tín hiệu có thể tồn tại lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh
tế. Ở Canada, quy luật tư bản dự trữ mang tính bảo thủ được phổ biến rộng
rãi không những đã kiềm hảm các ngân hàng Canada, mà còn có giá trị như một
lời nhắc nhủ bất biến đối với các viên chức giám sát và giúp các viên chức
nầy tránh rơi vào vòng ảnh hưởng của tư duy bong bóng. Năm ngày
trước khi Geithner đọc diễn văn ở Georgia, Dickson đã có bài nói chuyện ở
Ontario. Bà nhắc nhở cử tọa về nhân vật chính Samantha, trong show
truyền hình "Bewitched" (Phù Thủy) trong thập kỷ 1960s, có quyền lực
phi thường và có thể biến tai lợn thành những ví xách tay bằng lụa. Bà nói,
"ngày nay thị trường hình như đang sản xuất những chứng khoán ba-A
(triple-A) từ những chứng khoán không có giá trị ba-A".
Tai lợn trong câu chuyện bà kể chính là tín dụng bất động sản
subprime, do Wall Street gói ghém lại để tái phân phối, thành các
trái khoán ba-A an toàn được rao bán như những ví xách tay bằng lụa. THUẾ ĐÁNH
TRÊN CÁC NGHIỆP VỤ TÀI CHÁNH
Quy luật
minh bạch gẩy gọn được lưu ý nhiều nhất trong năm qua là Quy Luật Volcker.
Lấy tên của nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang và cố vấn của T T Obama,
quy luật sẽ cấm các ngân hàng chính thống tham gia vào các giao dịch chứng
khoán - mua bán các cổ phần hay các loại chứng khoán để kiếm lợi nhuận,
thay vì như một dịch vụ cho khách hàng.Thoạt trông, quy luật có vẻ như một
cố gắng tái lập luật Glass-Steagall. Khi T T Obama thêm biện pháp cấm đoán
nầy vào kế hoạch giám sát trong tháng 1-2010, Obama hình như đã chấp nhận
một thay đổi quan trọng. Nhưng nếu
lắng nghe tác giả các quy luật nầy - như Volcker hay Austan Goolsbee, một
chuyên gia kinh tế Tòa Bạch Ốc - chúng ta sẽ hiểu được biện pháp nầy thường
bị hiểu lầm. Mục đích của biện pháp chật hẹp hơn: các ngân hàng chính thống
được quyền vay tiền với lãi suất thấp của chính phủ để khuyến khích cho vay
lại dễ dàng, cũng như để chận đứng tình trạng hoang mang của người dân trong
khủng hoảng. Khi các ngân hàng dùng tiền vay nhẹ lãi để đầu tư, các ngân
hàng nầy, trong thực tế, đã được chính quyền trợ cấp trong các giao dịch
chứng khoán. Trợ cấp nầy đã giúp Goldman Sachs và các xí nghiệp khác gặt hái
nhiều lợi nhuận lớn trong năm vừa qua. Goolsbee nói: "Thật sự không thích
đáng một chút nào khi các ngân hàng nhận tiền trợ cấp của dân chịu thuế và
dùng vào các việc đầu tư mang tính đầu cơ không dính dáng gì đến khách hàng
của mình". Tuy nhiên,
tiền trợ cấp tự nó không gây ra khủng hoảng. Có hay không có trợ cấp, một xí
nghiệp vẫn có thể gây ra sụp đổ cho hệ thống tài chánh. Lehman gần như đã
làm như vậy, và Lehman không phải là một ngân hàng chính thống. Chừng nào
Quốc Hội có thể định nghĩa một cách thỏa đáng và đầy đủ các giao dịch quyền
sở hữu - điều nầy đòi hỏi phải mất chút ít công phu, nhưng không đến nổi khó
khăn như Wall Street đã gợi ý - một hình thức nào đó của quy luật hình như
là một phần phải chăng của cơ chế tái giám sát. Nhưng nó không phải là một
cải cách sẽ giữ vai trò ngăn chặn đáng tin cậy thất bại của nhân viên giám
sát. Đề nghị bạo
dạn nhất theo hướng nầy là chia vụn các ngân hàng. Một số người ngoại đạo,
như Simon Johnson, nguyên kinh tế trưởng IMF, đưa ra luận cứ các ngân hàng
khổng lồ ngày nay đủ hùng mạnh để đề kháng mọi nỗ lực thiết kế một cơ chế
giám sát chặt chẽ. Chỉ riêng kích cỡ của một ngân hàng cũng có thể gây khó
khăn cho chính quyền tiếp quản và thanh toán một ngân hàng sắp vỡ nợ một
cách gọn gàng trong trật tự. Một giải pháp trung dung có lẽ là dành cho các
viên chức giám sát quyền chia một ngân hàng lớn đang gặp khó khăn ra làm
nhiêu ngân hàng nhỏ trước thời điểm biện pháp cuối cùng - tiếp quản và giải
thể - trở nên cần thiết. Nhược điểm
của cách tiếp cận nầy là kích cỡ không phải là bất trắc rủi ro. Lehman và
AIG không phải là các xí nghiệp lớn nhất của Mỹ. Khu vực tài chánh được giám
sát chặt chẽ của Canada mang tính tập trung cao hơn khu vực tài chánh được
giám sát lơi lỏng của Hoa Kỳ. Canada có đến 4 trong số 50 ngân hàng lớn nhất
thế giới. Hoa Kỳ, với một nền kinh tế 10 lần lớn hơn kinh tế Canada, chỉ
chiếm có 5 trong số 50 ngân hàng hàng đầu trên thế giới. Điều đáng e
ngại hơn kích cỡ của bất cứ một ngân hàng riêng lẻ nào là kích cỡ của toàn
khu vực. Ở Hoa Kỳ, khu vực ngân hàng đã chiếm 30% lợi nhuận toàn bộ các công
ty trong thập kỷ trước đại suy thoái, từ 16% trong hai thập kỷ 1970s và
1980s. Đã hẳn, một phần tăng trưởng đã phản ảnh những canh tân, như A.T.M.,
giúp cải thiện đời sống đại chúng. Tuy nhiên, phần lớn có lẽ không phải như
thế, và chỉ phản ảnh khả năng Wall Street kiếm những doanh lợi khổng lồ
trong giai đoạn thuận lợi và được cứu trợ trong giai đoạn gặp khó khăn. Đó
là điều các kinh tế gia gọi: "tư nhân hóa" lợi nhuận và "xã hội
hóa" bất trắc. Wall Street đã thủ lợi khi gây thiệt hại cho xã hội. Chiến lược
được chấp nhận rộng rãi để đối phó với các hoạt động gây tổn hại cho xã hội
là đánh thuế trên các hoạt động liên hệ. Thuế sẽ làm nản lòng các hoạt động
loại nầy. Thuế cũng đem lại thu nhập có thể giúp trang trải các chi phí gây
ra. Kinh tế gia gọi các sắc thuế loại nầy - thuế rượu, thuế thuốc lá, thuế ô
nhiễm - là loại thuế phụ ngoại vi (externality taxes). Chương
trình tái giám sát do Bộ Ngân Khố phổ biến hồi đầu năm không bao gồm sắc
thuế đánh trên ngân hàng. Tuy nhiên, Obama sau đó đã đề nghị một sắc thuế
cho phép chính quyền thâu lại các khoản thất thoát trong số 700 tỉ quỹ cứu
trợ - Chương Trình Cứu Trợ Tích Sản Lâm Nguy (Troubled Asset Relief Program
- TARP). Sắc thuế đã được thông qua năm 2008. Kế hoạch tái giám sát lý tưởng
có lẽ phải thiết lập một sắc thuế thường trực theo hướng nầy. Một sắc thuế
như vậy sẽ xác nhận các ngân hàng giữ một chức năng nòng cốt trong nền kinh
tế thị trường, nhưng các ngân hàng cũng có thói quen kinh doanh thiếu khôn
ngoan và đầy bất trắc. Dù các nhà giám sát cố gắng đến đâu và khôn lanh đến
mấy , họ thường khó thể khống chế các bất trắc loại nầy. Người chịu
thuế rút cuộc cũng phải gánh trách nhiệm hoàn trái, dù chỉ để ngăn ngừa
khủng hoảng tài chánh trở thành đại khủng hoảng. Một sắc thuế đánh vào ngân
hàng sẽ buộc các ngân hàng phải gánh chịu một phần phí tổn. Thuế TARP
của Obama chỉ mang tính tạm thời, và sẽ mãn hạn vào năm 2020. Nhưng Quốc Hội
có khuynh hướng gia hạn các luật thuế loại nầy, loại thuế thường bắt đầu với
một thời hạn nhất định. Và chính quyền Obama hình như khá thoải mái với ý
tưởng để sắc thuế trở thành thường trực. Geithner nói "các cuộc khủng
hoảng tài chánh gây ra một số tai hại khổng lồ cho cơ sở thuế thu nhập trong
một thời gian. Vì vậy, chúng ta có đủ luận cứ chính đáng cần thiết lập một
sắc thuế đánh trên khu vực tài chánh, tương tự như thuế ô nhiễm". Nếu tổng
hợp tất cả các phần chính trong kế hoạch, chúng ta có thể thấy kế hoạch
Obama cũng nhằm thành đạt cùng các thành công của cơ chế giám sát thời
Roosevelt, mặc dù với một hệ thống ngân hàng hoàn toàn khác. Cơ quan bảo đảm
an toàn cho giới tiêu thụ là câu trả lời ngày nay cho Ủy Hội Giao Dịch
Chứng Khoán (Securities and Exchange Commission -SEC), được thiết lập năm
1934 để bảo vệ giới đầu tư. Nới rộng mạng lưới quy luật giám sát để bao gồm
cả những hoạt động của các ngân hàng nhại phi chính thống là một nỗ lực giảm
thiểu các bất trắc, giống như luật Glass-Steagall trước đây. Tỉ lệ vốn dự
trữ cao hơn nhằm giảm bớt nạn mất lòng tin của giới ký thác tiền ở ngân
hàng. Việc trao quyền cho chính phủ tiếp quản các ngân hàng đầu tư sắp vỡ nợ
cũng chỉ là một sự nới rộng luật New Deal cho phép chính quyền tiếp quản
các ngân hàng chính thống. Tuy nhiên,
vẫn có một khác biệt quan trọng giữa hai cách tiếp cận của Roosevelt và
Obama. Roosevelt dựa trên những ý tưởng rộng lớn mà Tòa Bạch Ốc hiện nay đã
tránh né phần lớn. Roosevelt đã bảo đảm tiền ký thác ngân hàng, phân biệt
các hoạt động của ngân hàng thương mãi với hoạt động của ngân hàng đầu tư,
và cấm chỉ mọi thông tin thiếu trung thực về chứng khoán. Obama muốn buộc
các ngân hàng vào những chuẩn mực tư bản và thanh khoản chưa được định nghĩa
rõ ràng, tương ứng với kích cỡ và cách kết nối với các xí nghiệp khác. Đây là một
bước quyết định, cũng như nhiều quy luật mới khác trong kế hoạch. Nhưng dĩ
nhiên người ta sẽ dễ dàng có lòng tin ở kế hoạch nếu chính quyền và Quốc Hội
tiến thêm vài bước nhằm giảm thiểu phần chuyên quyết và tăng cường phần minh
thị. Trong một bài nói chuyện gần đây, Kevin M. Warsh, một thống đốc Cục Dự
Trữ Liên Bang, đã phát biểu: "Các chế độ cơ sở trên quy luật thường khó
tránh mang tính sống sượng và thiếu hoàn hảo".
Nhưng Warsh đã gợi ý, các chế độ nầy có thể tốt hơn một hệ thống trong đó
các ngân hàng chấp nhận cách quản lý vi tiểu (micro-management) từng chi
tiết với giả thiết họ sẽ có thể lựa chọn các vi-quản-lý (micro-managers) của
chính họ. Để tránh
điều nầy, thuế đánh trên ngân hàng có thể biến đổi từ một màn trình diễn phụ
để trở thành trung tâm cuộc thảo luận về giám sát. Các viên chức giám sát có
thể quyết định những lệ luật cứng rắn và phổ biến rộng rãi về tư bản. Những
con số minh thị riêng biệt không cần được ghi rõ trong pháp chế, nhưng Cục
Dự Trữ Liên Bang - cơ quan có quyền ban hành các quy luật - không cần phải
đợi một đồng thuận toàn cầu khó lòng thành đạt. Ít ra, các quy luật phải đủ
minh thị và rõ ràng để mọi người hiểu rõ. Như cuộc khủng hoảng đã phơi bày,
các mô hình toán học tinh vi có thể đem lại một giải đáp quá dễ dàng mà các
người chấp hành ưa thích. Dù thiếu
hoàn hảo, các quy luật đơn giản có điều lợi là gửi đi những tín hiệu có thể
thượng tồn lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh tế. Đây là bài học từ các cải cách
của Roosevelt và của một giai đoạn yên bình trong sinh hoạt ngân hàng sau
đó. KẾT LUẬN
Lý do rõ
ràng cần tái giám sát tài chánh là ngăn ngừa khủng hoảng trong tương lai hay
ít ra giảm thiểu tác động của khủng hoảng. Tuy nhiên, cải cách cũng còn có
nhiều điều lợi tiềm năng khác. Hãy nhìn xem những gì đã xẩy ra cho kinh tế
Hoa Kỳ trong ba thập kỷ vừa qua. Các xí nghiệp tài chánh với tỉ lệ đòn bẩy
cao đã trở thành một bộ phận áp đảo trong nền kinh tế. Lợi nhuận đã cho phép
các xí nghiệp nầy tuyển chọn nhiều nhân viên nòng cốt của Hoa Kỳ - các nhà
toán học, các khoa học gia, các sinh viên đại học tốt nghiệp hàng đầu, và
các cựu nhân viên cao cấp trong chính quyền... Tuy nhiên, hầu hết các lợi
nhuận vừa nói đã tỏ ra phù du. Chẳng hạn, một số các nhân viên sáng giá nhất
đã vùi đầu vào việc thiết kế các phương tiện làm tiền ngày một phức tạp từ
không khí, số thu nhập lại cho phép tiếp tục thu hút nhiều tài năng hơn. Một cách
tiếp cận nghiêm chỉnh cơ chế giám sát có thể có một tác động lớn trên tình
trạng nầy, dù chỉ gián tiếp. Qua sự giảm thiểu số lợi nhuận của các xí
nghiệp tài chánh, chính quyền có thể giới hạn khu vực tài chánh ở một kích
cỡ phải chăng thích hợp. Tái giám sát có thể chấm dứt một số trợ cấp Wall
Street đang thụ hưởng hiện nay. Những cước phí che đậy của khu vực tài
chánh, như lãi suất tiệm tăng qua thời gian và nhiều xảo thuật lừa đảo khác,
có thể được kiểm soát. Những điều kiện đòi hỏi về tỉ lệ tư bản dự trữ và
thuế đánh vào khu vực ngân hàng có thể buộc các xí nghiệp tài chánh phải
trải nghiệm những thời kỳ thịnh vượng cũng như suy thoái. Trên hết, tái giám
sát có thể xác định hệ thống tài chánh mới có thể mang lại vừa lợi lộc và cả
bất trắc. Phải luôn
ghi nhớ thời kỳ sung mãn dài lâu của Wall Street đã không được san sẻ đáng
kể bởi phần lớn nền kinh tế Hoa Kỳ. Công xá của công nhân gia tăng quá chậm
trong ba thập kỷ vừa qua. Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ vừa qua nói chung
đã chậm hơn trong bất cứ thập kỷ nào sau Đệ Nhị Thế Chiến. Vả chăng, một mục
đích quan trọng của tái giám sát phải nhằm nới lỏng quyền kiểm soát của Wall
Street đối với các nguồn tài nguyên, tài chánh và nhân sự, của Hoa Kỳ, với
hy vọng các tài nguyên nầy sẽ được tái phân bổ vào các phương cách sử dụng
mang tính sản xuất tốt hơn.
GS Nguyễn
Trường
Irvine,
California, U.S.A.
|