Những bài cùng tác giả
Việc thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đang trở thành khủng hoảng
vì nhà nước Việt Nam đang thực hiện nhiều mục tiêu mâu thuẫn nhau, trong đó
mục tiêu quyết liệt giảm lạm phát là mục tiêu mới. Trong tuần thứ 3 của
tháng 2, mục tiêu này được thực hiện trong chớp mắt, có thể nói là “hơi quả
quyết” nhưng thiếu suy nghĩ, do đó nhanh chóng đưa tới hậu quả xấu, và đến
cuối tuần mất ngay tính quả quyết ban đầu. Ngân hàng nhà nước tăng tỷ lệ dự
trữ rút về khoảng 10 ngàn tỷ, rồi tăng lãi suất một chút (vẫn còn quá thấp
so với tốc độ lạm phát hiện nay) và tuần qua đòi hỏi các ngân hàng thương
mại mua tín phiếu 20 ngàn tỷ đồng để rút về. Nhưng khi các ngân hàng thiếu
thanh khoản, lãi suất liên ngân hàng vọt lên, Ngân hàng Nhà nước mất nhuệ
khí, tung ra thị trường hơn 33 ngàn tỷ đồng vay ngắn hạn. Thế là xong một
cuộc đánh trống bỏ dùi. Tuy thế nó cũng có ưu điểm là NHNN đã lắng nghe thị
trường. Nhưng bất cứ một cuộc chống lạm phát nào cũng phải có trả giá.
Tại sao lạm phát lại xảy ra tới mức báo động đỏ hiện nay? (Nói là báo động
đỏ bởi vì nếu không giảm xuống, nó sẽ tạo ra tâm lý lạm phát, có thể đưa đến
bất ổn xã hội vì lao động không đủ sống, lại làm hàng hóa đắt đỏ với người
đầu tư nước ngoài, do đó làm mất niềm tin vào thị trường và chấm dứt cuộc đổ
bộ đầu tư vào Việt Nam). Lạm phát do mức tăng tín dụng, tăng tiền đã rõ từ
lâu, ít nhất là từ năm 2004 khi mức tăng tiền lên đến 25%, rồi mới đây nhảy
vọt tới 35-40%, nhưng nhà nước vẫn án binh bất động cho đến mới đây.

 |
Tỷ lệ lạm phát thế giới năm 2005
(wikipedia) |
Nhưng tại sao tín dụng lại tăng như vậy. Đó là vì những mục tiêu trong kế
hoạch đặt ra đã đưa tới tình trạng trên:
1) Mức đầu tư của ngân sách và của công ty nhà nước quá lớn đưa tổng đầu tư
lên trên 40% GDP nhưng thường vì thiếu hiệu quả và không đúng chỗ nên mức
tăng GDP chỉ ở mức tạm gọi là phấn khởi,
2) Mở rộng cho đầu tư ở nước ngoài đặc biệt là vào thị trường tài chính
(trong 7-9 tỷ chuyển vào Việt Nam năm 2007, theo tôi ước đoán, chỉ có 3 tỷ
là vào đầu tư trực tiếp) do đó tiền chuyển đổi để mua chứng khoán tất nhiên
làm tăng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nhưng khác với đầu tư trực
tiếp, không được các công ty bán ra chứng khoán, hoặc các đại gia nắm chứng
khoán đầu tư vào sản xuất hàng hóa dịch vụ, mà chủ yếu chạy đuổi theo hàng
hóa có sẵn, nhà đất và chứng khoán, làm toàn bộ trở nên bong bóng.
Muốn làm giảm lạm phát tất phải có biện pháp làm giảm khối lượng tiền tệ
trên thị trường, nhưng như thế vẫn không đủ và khi quá độ lại trở thành nguy
hiểm. Các biện pháp thì hầu như các nhà kinh tế đều biết:
1) Nâng lãi suất ở mức cao hơn lạm phát để thu hút tiền vào ngân hàng, và
tất nhiên việc này sẽ làm giảm đầu tư và nhu cầu tiền vốn. Điều này chưa
được làm đến nơi vì chạm vào mục tiêu đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao
(với đầu tư của nhà nước cao, để lãi suất cao đưa đến thiếu hụt ngân sách
lớn hơn, do đó mức in tiền lại lớn). Lãi suất hiện nay vẫn còn âm so với tốc
độ lạm phát nên không có sức thu hút tiền gửi.
2) Cắt giảm đầu tư của nhà nước. Việc này cũng động đến kế hoạch có tốc độ
tăng trưởng cao.
3) Thực hiện các biện pháp trung hòa như bán tín phiếu ngân hàng để thu tiền
về Ngân hàng Nhà nước.
4) Giảm dòng chảy đầu tư nước ngoài bằng cách tăng hối suất (hối suất chính
là giá nhằm quân bình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước). Điều
này tât nhiên mâu thuẫn với quyết định của nhà nước là giữ hối suất ổn định
để phát triển xuất khẩu.
Vấn đề là kết hợp đồng thời các biện pháp này cùng một lúc và điều chỉnh tùy
theo tình hình thực tế. Điều chỉnh như thế nào tùy thuộc vào tình hình thực
tế mà có lẽ chỉ có chính quyền mới nắm được nếu thu thập đầy đủ và kịp thời
thông tin. Chỉ giảm thanh khoản bằng bán tín phiếu sẽ bóp ngay cổ họng ngân
hàng thương mại tư và khu vực tư nhân vì công ty nhà nước có lẽ sẽ êm thắm
vì được ưu đãi.
Cũng cần nói thêm về việc cần thiết tăng hối suất. Điều này không thể tránh
được nếu như muốn giải quyết lạm phát và nếu như không muốn có biện pháp
ngăn cản dòng chảy tư bản nước ngoài vào thị trường tài chính. Nói đến tăng
hối suất là nói đến việc tự do hóa hơn mua bán ngoại tệ trên thị trường Việt
Nam. Tuy nhiên khó có thể tiên đoán trước được hối suất ở mức nào có thể
điều hòa được cung cầu ngoại tệ và đồng thời không tạo khủng hoảng trên thị
trường xuất nhập khẩu hàng hóa. Do đó vẫn có thể cần phải kiểm soát dòng
chảy tư bản ở mức độ nhất định. Chẳng hạn dù không cấm ngân hàng thương mại,
ngân hàng Nhà nước, nơi có khả năng cung cấp thanh khoản lớn nhất, có thể
chỉ chuyển đổi ra đồng Việt Nam những trường hợp đặc biệt như đầu tư trực
tiếp hay đầu tư gián tiếp nhưng ở mức độ chiến lược tức là ở tỷ lệ đáng kể
và với thời gian sở hữu tối thiếu, không được bán lại trên thị trường.
Dòng vốn tài chính từ nước ngoài là con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế,
đặc biệt đối với nền kinh tế chưa có cơ chế điều hành và kiểm soát chúng.
Khi chúng đổ vào nhiều như hiện nay, nền kinh tế bội thực. Khi chúng tháo
chạy mở đầu cho cuộc khủng hoảng ở châu Á trước đây, nền kinh tế đói lả. Đã
có lúc Mỹ và IMF cổ động mạnh mẽ cho tự do dòng chảy vốn tài chính, nhằm
biến thành nguyên tắc bắt buộc cho các thành viên IMF, nhưng sau đó đã phải
rút lại vì cuộc khủng hoảng ở châu Á năm 1997 và sau đó là cuộc khủng hoảng
ở Nam Mỹ. Mã Lai là nước độc nhất lúc đó áp dụng áp biện pháp kiểm soát do
đó tránh cho nền kinh tế của họ bị đẩy vào khủng hoảng trầm trọng như
Indonesia và Thái Lan.
Có được một chính sách kiểm soát dòng chảy tư bản là điều cần thiết.
Toàn bộ những hoạt động chống lạm phát sẽ có ảnh hưởng đến thị trường chứng
khoán và thị trường nhà đất nhưng đây là điều cần làm. Thanh khoản quá nhiều
đã nhanh chóng đẩy khai khu vực này thành bong bong. Riêng khu vực chứng
khoán do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính của Mỹ đã làm xẹp bong bóng một
phần đáng kể, và hiện nay ở chỉ số ở mức độ khoảng 600-700 là tương đối hợp
lý, và dù có xuống hơn thế cũng không cần sự can thiệp của nhà nước. Việc
can thiệp mới đây cho phép mua cổ phần bằng đô la (hành động đầu tiên là
giúp dầu khí đi vào hoạt động tài chính, một hoạt động hoàn toàn trái ngành)
là quyết định sai lầm vì nó sẽ đô la hóa nền kinh tế, làm mất khả năng điều
hành tiền tệ của NHNN và đồng đô la đó không nhất thiết không chạy đuổi đồng
Việt Nam để đổ vào hai thị trường quá nóng như nhà đất và chứng khoán. Làm
dẹp bong bóng nhà đất là điều cần làm, và điều này đang chờ đợi hành động áp
dụng thuế nhà đất ở mức hợp lý và thuế chênh lệch lãi trên lợi nhuận mua bán
nhà đất, ít nhất ngang bằng thu nhập doanh nghiệp khác. Dẹp bong bóng nhà
đất cũng cần chính sách khuyến khích đầu tư vào xây dựng nhà cửa, và làm
giảm việc đầu cơ đất bằng thuế đặc biệt đối với người mua quyền sử dụng đất
nhưng không sử dụng vào kinh doanh, nhằm đầu cơ.
Đã đăng trên Diễn Đàn Forum
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Vũ Quang Việt
|