Những bài cùng tác giả

"Nghèo đói phải lùi vào lịch sử",
một khẩu hiệu hấp dẫn, một mục đích đáng ca ngợi, đã được các
lãnh đạo thế giới chấp nhận tại phiên họp thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc ở New
York ngay trước ngày đầu của Thiên Niên Kỷ Mới. Một thập kỷ sau, chính Hoa
Kỳ đã làm nên lịch sử - nhưng lịch sử ngược dòng. Thống kê mới nhất của Văn
phòng Điều Tra Dân Số cho thấy, năm 2009, cứ một trong chín người Mỹ đã sống
dưới mức nghèo khó, con số cao nhất trong hơn nửa thế kỷ. Trên 95.000 vụ
tịch biên bất động sản riêng trong tháng 8-2010: một kỷ lục mới.
Trên đây chỉ là hai trong nhiều dấu hiệu suy giảm quyền lực của siêu cường
duy nhất, nay đang nợ nần Trung Quốc (TQ) quá nhiều. Các chỉ dấu khác gần
đây gồm có sự thất bại trong nỗ lực thuyết phục TQ tái định giá trị đồng
nhân dân tệ đối với đồng USD, và áp lực buộc Nga, TQ, Ấn, hay ngay cả
Pakistan phải theo chân Hoa Kỳ kìm hãm mua bán dầu lửa và hơi đốt thiên
nhiên với Iran. Qua sự thất bại của Hoa Thịnh Đốn áp đặt chính sách tiền tệ
và năng lượng lên phần còn lại của thế giới, chúng ta đã bước vào kỷ nguyên
mới trong lịch sử.
KINH TẾ HOA KỲ VẪN TRÌ TRỆ
Công ăn việc làm và kinh tế rõ ràng là những ưu tư hàng đầu của cử tri Hoa
Kỳ trong cuộc bầu cử Quốc Hội giữa kỳ 2-11-2010.
Tiến trình phục hồi tỏ ra khập khiễng, ngập ngừng, thiếu máu. Tỉ suất tăng
trưởng 2% GDP của Hoa Kỳ trong quí III vốn đã thấp, và Tổ chức Hợp Tác và
Phát Triển Kinh Tế OECD, với 30 quốc gia thành viên giàu nhất thế giới, đã
dự phóng khoảng 1,2% trong quí IV.
Donald Kohn, nguyên Phó Chủ Tịch Dự Trữ Liên Bang, đã tóm lược tình trạng
khốc liệt như sau: "Kinh tế Hoa Kỳ đang ì ạch thoát ra khỏi hố sâu thăm
thẳm ".
Hãy thử thăm dò độ sâu của hố thẳm: từ tháng 12-2007 - khởi điểm chính thức
Đại Suy Thoái - cho đến tháng 12-2009, kinh tế Hoa Kỳ đã đánh mất tám triệu
việc làm . Ngay cả khi thị trường nhân dụng được cải thiện đến mức các năm
phát triển nhanh của thập kỷ 1990s, người ta cũng phải đợi đến tháng 3-2014
chỉ để cắt giảm phân nửa tỉ suất thất nghiệp 9,6% hiện nay và trở lại mức
tiền suy thoái 4,7%. Chẳng trách James Bullard, chủ tịch Dự Trữ Liên Bang
St. Louis, cảnh báo kinh tế Hoa Kỳ đang từng bước tiến tới "lỗ đen"
giảm phát Nhật Bản đã trải nghiệm trong thập kỷ 1990s.
Đến nay, chương trình kích cầu 787 tỉ USD của chính quyền Obama đã hoàn tất
lộ trình qua hệ thống với rất ít tác động tạo thêm công ăn việc làm trên thị
trường nhân dụng. Cũng không nên quên tỉ suất thất nghiệp chính thức cao
9,6% còn thấp hơn nhiều so với con số thực tế, vì đã bỏ sót ở bên ngoài
những người chỉ làm vệc bán thời gian trong khi muốn có việc toàn thời gian,
những người bỏ cuộc không còn tích cực kiếm việc sau nhiều tháng năm thất
bại, và những thanh niên đến tuổi đi làm nhưng chẳng tìm được việc làm. Cuối
cùng, các nhà làm chính sách trong chính quyền hình như chưa hiểu được suy
thoái do khủng hoảng ngân hàng luôn tệ hại hơn suy thoái không vì khủng
hoảng ngân hàng.
TRUNG QUỐC VỮNG TIẾN
Trong khi chính quyền Obama đã tái duyệt tỉ suất tăng trưởng thiếu máu GDP
xuống thấp hơn, kinh tế TQ đã vượt qua kinh tế Nhật Bản và trở thành nền
kinh tế lớn số 2 thế giới. Tỉ suất tăng trưởng ở TQ vẫn ở mức 10% mỗi năm;
cùng lúc, kinh tế Nhật vẫn như rùa lẹt đẹt theo sau xa hút với 0,4%.
Trước đà suy giảm trong ngạch số xuất khẩu như hệ quả của suy thoái
2008-2009 từ phương Tây, cấp lãnh đạo TQ đã đáp ứng bằng cách nhanh chóng
thay đổi các ưu tiên của mô hình. Họ nhanh chóng quyết định hành động nhằm
tăng cường và phát triển số cầu quốc nội và mạnh dạn rót tiền đầu tư vào hạ
tầng cơ sở và cải thiện các dịch vụ công.
Trong khi chính quyền các quốc gia Tây phương
tìm cách khống chế khủng hoảng đầu tư nhằm vào gốc rễ Đại Suy Thoái qua biện
pháp lạm chi - tài trợ với khuy
khiếm ngân sách,
các ngân hàng TQ, do nhà nước kiểm soát, đã gia tăng công chi và cung cấp
tín dụng dễ dàng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm các tiêu thụ phẩm bền lâu như
xe hơi và nhà cửa. Ngoài ra, chính quyền còn đầu tư vào các dịch vụ công
cộng như y tế, đã suy đồi tiếp theo sau quyết định tự do hóa kinh tế trong
ba thập kỷ qua.
Rút cuộc, các biện pháp vừa kể đã giúp GDP tăng trưởng 9% trong năm 2009,
trong khi kinh tế Hoa Kỳ sụt giảm 2,6%. Cấp lãnh đạo trong nhiều quốc gia
đang phát triển rất ấn tượng trước thành tích của TQ. Họ kết luận mô hình
phát triển do chính quyền chỉ đạo của TQ thích hợp với dân tộc họ hơn mô
hình phát triển do giới tư doanh của Tây phương rất nhiều.
Trên bình diện ý thức hệ, đối với các nhà làm chính sách ở TQ, sự thất bại
phủ phàng của hệ thống ngân hàng, cơ sở của khu vực tư ở Tây phương, đã đem
lại lòng tin và sinh khí cho hệ thống xã hội chủ nghĩa từ lâu đang trên đà
suy yếu. Để đáp lại, họ quyết định tăng cường các doanh nghiệp công do nhà
nước kiểm soát, chứng minh cho cả thế giới thấy sai lầm của các nhà phân
tích Tây phương khi quyết đoán các định chế doanh thương trong khu vực công
luôn kém hiệu quả hơn các đối tác trong khu vực tư.
Vai trò công chi và chính sách bột phát mở rộng tín dụng ngân hàng đã đưa
đến gia tăng đầu tư bởi các công ty quốc doanh. Dù trong ngành khai thác
khoáng sản, dầu khí, than đá, hay sản xuất sắt thép, chuyên chở hành khách
và hàng hóa , các công ty quốc doanh đã được tài trợ đầy đủ để canh tân các
cơ sở kỹ nghệ và dịch vụ, một quá trình tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Thêm vào đó, họ cũng đã bắt đầu mở rộng hoạt động vào những ngành nghề mới
như bất động sản.
Nói chung, Đại Suy Thoái ở phương Tây, bắt
nguồn từ các lạm dụng, tham lam của Wall Street, đã tạo cơ hội cho Bắc Kinh
nhấn mạnh, ở TQ xã hội chủ nghĩa, vốn tư nhân chỉ giữ một vai trò thứ yếu.
Như Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã nói trước phiên họp hàng năm của Quốc Hội Nhân
Dân trong tháng 3-2010: "Những lợi
điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa đang giúp chúng ta lấy quyết định kịp
thời, tổ chức hiệu quả, và tập trung tài nguyên để thành đạt những công
trình lớn".
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ NGOẠI GIAO TÀU CHIẾN
Trong hai tháng 3 & 4-2010, Tòa Bạch Ốc rất huyên náo với vấn đề đồng nhân
dân tệ TQ được định giá quá thấp, do đó, đã đem lại cho các nhà xuất khẩu TQ
những lợi thế bất công đối với các đối tác Hoa Kỳ. Thẩm định nầy dĩ nhiên đã
được giới truyền thông dòng chính tích cực phổ biến. Các nhà bình luận tai
mắt tiên đoán phúc trình định kỳ của Bộ Ngân Khố Mỹ vào giữa tháng 4-2010 sẽ
lên án TQ đã nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ của mình, bước đầu để nâng mức
thuế quan đánh vào các hàng hóa nhập khẩu từ TQ. Nhưng rồi cũng chẳng có gì
xẩy ra.
Thay vào đó, Bộ Ngân Khố đã hoãn phúc trình
thêm ba tháng. Đến kỳ hạn công bố, phúc trình chỉ nói, trong khi đồng nhân
dân tệ vẫn còn được định giá thấp, TQ cũng đã có một
"động thái có ý nghĩa"
qua việc chấm dứt buộc chặt đơn vị tiền tệ của mình vào đồng USD. Các sự
kiện thực tế đã chứng minh ngược lại, nêu rõ sự bất lực của siêu cường duy
nhất trong tương quan giao tiếp với Bắc Kinh đang đi lên nhanh chóng. Từ
giữa tháng 4 đến giữa tháng 9-2010, tỉ suất hối đoái đồng nhân dân tệ chỉ
ghi nhận một gia tăng "có ý nghĩa" vỏn vẹn 1%.
Điều các nhà làm chính sách ở Bạch Ốc âu lo hơn là phương cách TQ chuyển đổi
sức mạnh kinh tế thành sức mạnh quân sự và ngoại giao. Sự tranh luận chung
quanh vụ đánh chìm tàu tuần tiểu Nam Hàn Cheonan trong tháng 3 là một
trường hợp điển hình. Tiếp theo sau phúc trình vào tháng 5 của đoàn chuyên
viên Hoa Kỳ, Anh quốc, và Thụy Điển nói rõ một ngư lôi Bắc Hàn đã phá hủy
tàu tuần tiểu, Hoa Kỳ và Nam Hàn đã loan báo những cuộc tập trận chung
trong vùng Hoàng Hải ngoài bờ Tây bán đảo Cao ly. TQ phản kháng, đưa ra luận
cứ: cuộc tập trận, được hoạch định diễn ra rất gần lãnh hải Bắc Hàn, đã đe
dọa an ninh của xứ nầy. Vào cuối tháng 5, tại cuộc họp thượng đỉnh Nam
Hàn-Nhật Bản-TQ, thủ tướng TQ Ôn Gia Bảo từ chối nêu đích danh Bắc Hàn như
thủ phạm, và thay vào đó, đã nhấn mạnh nhu cầu giảm thiểu tình hình căng
thẳng trên bán đảo Cao Ly.
Hoa Thịnh Đốn tảng lờ khuyến cáo của Bắc Kinh, và cuộc tập trận chung đã
diễn ra trong tháng 7. Sáu tuần lễ sau, Hoa Kỳ lại loan báo một cuộc diễn
tập tương tự tại Hoàng Hải vào đầu tháng 9. Tức giận, Bắc Kinh đã đáp lại
với một cuộc tập trận hải quân trong ba ngày trong cùng địa bàn. Phá vỡ mọi
nghi thức thường lệ, TQ đã quảng bá rộng rãi các cuộc diễn tập trên các kênh
truyền thông đại chúng. Bất ngờ, thời tiết đã can thiệp. Một trận bão nhiệt
đới kéo đến gần Hoàng Hải đã buộc Ngũ Giác Đài hoãn lại các cuộc tập trận
chung.
Đến thời điểm đó, Bắc Kinh đã thực sự đối đầu với Hoa Thịnh Đốn, thách thức
tuyên bố của Hoa Kỳ Hoàng Hải là hải tuyến thuộc hải phận quốc tế rộng mở
cho tàu bè qua lại, kể cả các tàu chiến. Đây là chỉ dấu không thể lầm lẫn là
hải quân TQ đang chuẩn bị mở rộng tầm với ra khỏi hải phận của mình. Thực
vậy, kế hoạch rõ ràng đã sẵn sàng để nới rộng địa bàn hoạt động đến nhiều
vùng trong Thái Bình Dương trước đây do Hải quân Hoa Kỳ khống chế.
Bộ Tư Lệnh Hải Quân TQ nay công khai bàn thảo việc gửi các tàu chiến đến
vùng Eo Biển Malacca và Vịnh Ba Tư, với mục tiêu bảo vệ các tuyến đường vận
chuyển dầu lửa đến Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.
CHÍNH SÁCH IRAN CỦA HOA THỊNH ĐỐN ĐANG BỊ THỬ THÁCH
Như một quốc gia cung cấp dầu khí đứng thứ ba cho TQ sau Saudi Arabia và
Angola, Iran luôn hiện diện rõ nét trên màn ảnh radar của Bắc Kinh.
Cho đến nay, các công ty năng lượng TQ, đều do nhà nước sở hữu, đã đầu tư 40
tỉ trong địa hạt dầu khí của Cộng Hòa Hồi Giáo. Các công ty nầy cũng sẵn
sàng tham dự vào việc xây cất bảy nhà máy lọc dầu ở Iran. Hồi đầu năm, khi
các công ty của Liên Hiệp Âu Châu ngưng cung cấp dầu lửa cho Iran, phải nhập
khẩu đến 40% nhu cầu, các công ty dầu TQ đã nhảy vào thay thế. Nhờ vậy,
trong năm 2009 , với 21,2 tỉ USD thương mãi hai chiều, TQ đã qua mặt EU như
đối tác thương mãi số 1 của Iran. Mậu dịch TQ-Iran được ước tính sẽ gia tăng
khoảng 50% trong năm 2010.
Cũng như Nga, TQ chỉ ủng hộ một gói chế tài kinh tế thứ tư của LHQ sau khi
Hoa Thịnh Đốn đồng ý nghị quyết của Hội Đồng Bảo An sẽ không dự liệu những
gì có thể phương hại đến nhân dân Iran. Vì vậy, nghị quyết sau đó đã không
cấm đoán đầu tư hay tham gia trong kỹ nghệ dầu và hơi đốt của Iran.
Điều đáng buồn đối với Mạc Tư Khoa, ngày
1-7-2010, T T Obama đã ký ban hành luật
Chế Tài Phổ Thông, Trách Nhiệm, và Giải Tư năm
2010 -CISADA.
Luật cấm xuất khẩu các sản phẩm dầu lửa đến Iran và triệt để hạn chế đầu tư
vào kỹ nghệ dầu. Luật cũng gồm một điều khoản dự liệu cho phép Tòa Bạch Ốc
trừng phạt bất cứ chủ thể nào trên thế giới vi phạm, qua biện pháp hạn chế
mọi giao dịch thương mãi với các ngân hàng hay chính quyền Hoa Kỳ.
Hai tuần lễ sau, bộ trưởng dầu khí Nga Sergey
Shmatko công khai chống đối. Shmatko loan báo Nga sẽ khai triễn và nới rộng
các hình thức hợp tác hiện hữu trong khu vực dầu khí của Cộng Hòa Hồi Giáo.
Ông nhấn mạnh: "Chúng tôi là láng
giềng",
và còn tuyên bố: các công ty dầu Nga sẽ tự do bán xăng dầu cho Iran và vận
chuyển dầu xuyên qua Biển Caspian cả hai quốc gia cùng chia sẻ. Điện Cẩm
Linh cũng cảnh cáo, nếu Hoa Thịnh Đốn trừng phạt các công ty Nga vì các hoạt
động ở Iran, Liên Bang Nga sẽ trả đũa. Đại sứ Nga bên cạnh LHQ, Vitaly
Cherkin, ra tuyên bố khẳng định: Liên Bang Nga đóng cửa mọi thắt chặt hơn
nữa các chế tài đối với Iran.
Như đã công khai hứa hẹn nhiều lần, người Nga cuối cùng cũng đã khai trương
nhà máy điện hạt nhân dân sự gần Bushehr trong tháng 8 - hợp đồng xây cất đã
được ký từ năm 1994. Nhà máy đáp ứng mọi điều kiện của Cơ Quan Năng Lượng
Hạt Nhân Quốc Tế - IAEA.
Nga sẽ cung cấp cho nhà máy các que hạt nhân và sẽ di dời các nhiên liệu phó
sản có thể dùng làm vũ khí hạt nhân.
Chính vì vậy, Nga và TQ đã có tên trên danh
sách 22 quốc gia giao dịch đáng kể với Iran. Điều làm các nhà phân tích Mỹ
ngạc nhiên là sự hiện diện của Ấn Độ trên danh sách, chứng tỏ họ chưa ý thức
được một sự kiện nổi bật: "an ninh
năng lượng trên hết"
luôn là nguyên tắc điều hướng chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia đang
lên.
Chẳng bao lâu sau khi luật CISADA được ban
hành, Bộ trưởng Ngoại Giao Ấn Độ Nirupama Rao đã tuyên bố
"chính phủ của bà rất lo ngại các biện pháp
chế tài đơn phương do một số quốc gia riêng rẽ áp đặt có thể có tác động
trực tiếp và bất lợi đối với các công ty Ấn Độ và, quan trọng hơn nữa, đối
với an ninh năng lượng của chúng tôi".
Lời tuyên bố của bà đã được khen ngợi rộng rãi trong giới báo chí Ấn, phẫn
uất trước sự can thiệp của nước ngoài vào thánh địa an ninh năng lượng.
Delhi đã đáp ứng CISADA bằng cách vực dậy ý tưởng xây một tuyến dẫn dầu dài
680 hải lý từ Iran đến Ấn Độ, với phí tổn 4 tỉ USD.
Đáng để ý hơn cả, chính sách của Hoa Thịnh Đốn còn bị các chủ thể chính trị
phụ thuộc vào thiện chí và hào phóng của chính Hoa Kỳ phá hoại. Trong các
giao dịch chợ đen với tầm cỡ lớn lao , trên 1.000 xe chở dầu chứa đầy các
sản phẩm dầu lửa từ Kurdistan thuộc Iraq vào Iran mỗi ngày. Về phía
Kurdistan, số lợi nhuận từ mậu dịch năng lượng phi pháp đã lọt vào túi các
đảng phái chính trị Kurdish liên kết chặt chẽ với Hoa Thịnh Đốn kể từ sau
Cuộc Chiến vùng Vịnh I năm 1991.
Một ví dụ coi thường Hoa Thịnh Đốn trắng trợn hơn chỉ vì lý do năng lượng đã
đến từ Pakistan, một xứ khó thể đứng vững nếu không có đôi nạng kinh tế do
Mỹ cung cấp. Trong tháng 1-2010, Hoa Thịnh Đốn đã gây sức ép với Islamabad
buộc phải từ bỏ dự án xây tuyến dẫn dầu Iran-Pakistan dài 690 dặm được hoạch
định từ mấy năm nay. Islamabad từ chối. Vào tháng 3-2010, đại diện Islamabad
đã ký một thỏa ước với Iran. Và một tháng sau, Iran loan báo đã hoàn tất
công tác xây 630 dặm tuyến dẫn dầu trên phần lãnh thổ của mình, và dầu Iran
sẽ khởi sự chảy vào Pakistan trong năm 2014.
UY QUYỀN SUY SỤP KHÔNG THỂ HỒI PHỤC
Trong nhiều vùng trên thế giới, uy lực của Hoa Kỳ đang thay đổi, nói chung
đang suy sụp. Hoa Kỳ vẫn còn là quốc gia hùng mạnh với một quân lực vô song,
với trọng lượng không thể phủ nhận trên sân khấu toàn cầu. Nhưng quyền lực
tuột dốc vẫn là một sự thật, và trên nhiều phương diện, không thể đảo ngược.
Thế kỷ 21, dù có thế nào, chắc cũng không thể là thế kỷ của Hoa Kỳ.
Những ai quen thuộc với thị trường chứng khoán đều biết giá cổ phiếu của một
công ty đang trên đà suy yếu cũng sẽ không rơi tự do xuống vực thẳm. Công ty
suy sụp thu hút người mua mới, phục hồi phần lớn những gì đã mất, chỉ để
suy sập hơn nữa lần sau. Đó chính là trường hợp cổ phiếu của chính Hoa Kỳ
trên thế giới. Đỉnh điểm như siêu cường duy nhất đã trôi qua và không có
viễn tượng hồi phục hoàn toàn, chỉ một cơ may thành công mong manh trong địa
hạt xung đột Do Thái-Palestine, nơi Hoa Kỳ vẫn còn là cường quốc duy nhất
với quyền lực đáng kể.
Gần một thập kỷ, Hoa Thịnh Đốn đã rót những tài nguyên khổng lồ, máu, sức
mạnh quân sự, và vốn liếng ngoại giao, vào những cuộc chiến tai họa tự tạo ở
Afghanistan và Iraq, cùng lúc đã đánh mất ảnh hưởng ở Nam Mỹ và toàn bộ Phi
châu, ngay cả ở Ai Cập. Hai cuộc chiến tranh kéo dài cũng chỉ làm nổi bật
những giới hạn quyền lực của các loại vũ khí quy ước, và lý thuyết quân sự
áp dụng sức mạnh vũ bão đối với kẻ thù.
Trong khi bộ tư lệnh ở Ngũ Giác Đài huấn luyện một thế hệ quân nhân và sĩ
quan mới về chiến tranh chống khởi nghĩa, đòi hỏi những công tác dài lâu tìm
hiểu văn hóa nước ngoài và học ngoại ngữ, kẻ thù của Mỹ, rất thành thạo
trong việc sử dụng mạng lưới internet, đang rèn luyện những chiến thuật
mới. Trước sức mạnh kinh tế ngày một lên cao của TQ, Brazil, và Ấn Độ , ảnh
hưởng của Hoa Kỳ trong nhiều cường quốc đang lên, sẽ tiếp tục tàn lụi. Đà
tuột dốc của Hoa Kỳ trong mọi tình huống thật khó lòng đảo ngược.
THẾ GIỚI HẬU CHIẾN TRANH IRAQ
Âu châu đã điều chỉnh từ lâu, dù phải trải nghiệm nhiều đau đớn, với địa vị
nhỏ bé hơn trên chính trường quốc tế. Sau kênh đào Suez đối với người Anh,
sau Algeria đối với người Pháp, ngay cả những ảo tưởng dai dẳng nhất hậu thế
chiến II rồi cũng thành mây khói. Chiếc gậy chỉ huy đã được trao qua tay
người Mỹ. Các quốc gia Âu châu chỉ còn tập trung tư duy về một Liên Hiệp
loại trừ chiến tranh.
Hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan đối với Mỹ,
không như những biến cố Suez và Algeria đối với Anh và Pháp: những điểm
chuyển biến hay biến tố không thể thay đổi. Tuy nhiên, không ngã ngũ và do
điều hành sai quấy, hai cuộc chiến đã đặt giới hạn mới cho quyền lực Hoa Kỳ.
T T Obama đang tập trung giảm thiểu những cuồng vọng cuả người Mỹ trong
"kỷ nguyên không một lễ đầu hàng
được cử hành ".
Obama đã định nghĩa thời đại chúng ta như thế trong bài nói chuyện chấm dứt
bảy năm chiến tranh Iraq của Mỹ. Đó là bài diễn văn cốt lỏi của Obama -
thông minh nhưng không gây xúc động, vững chắc, ôn hòa và trang nghiêm, tất
cả trong hình ảnh một Tòa Bạch Ốc sơn phết lại với sắc màu trung tính, bình
lặng và không ưa thích bất trắc. Văn phòng và bài nói chuyện được phối trí
hài hòa: chúng ta có thể ngợi khen giọng điệu gọn gàng sạch sẽ nhưng nhịp
tim không hề xao động.
Đề tài chính không gợi cảm phải hoan hô. Ở Iraq, một thắng lợi ngắn ngủi đã
nguội lạnh trong chuổi dài bất lực dẫn đến đổ vỡ với hàng trăm nghìn thường
dân thương vong, một tình trạng bất định đầy biến động, bạo lực và bế tắc
dân chủ. Không một vũ điệu tinh thần, ngay cả những xáo động 'cho và nhận
chính trị', có thể ghi lại trong lịch sử một thắng lợi của Hoa Kỳ trong
"Chiến Dịch Tự Do Cho Iraq".
Một thời đại không có lễ đầu hàng chỉ là thế: một thời đại không kẻ thắng
người thua rõ ràng, một thời kỳ mù mờ tranh sáng tranh tối.
Obama đã mô tả tình trạng như sau:
"Một trong những bài học từ nỗ lực của chúng
ta ở Iraq là ảnh hưởng của người Mỹ trên thế giới không chỉ là một hàm số
của chỉ lực lượng quân sự. Chúng ta phải sử dụng mọi yếu tố trong quyền lực
của chúng ta - kể cả ngoại giao, sức mạnh kinh tế, và uy lực 'làm gương của
Mỹ' - để bảo vệ quyền lợi của chúng ta và giúp đỡ đồng minh của chúng ta".
Quyền lực, trong chủ thuyết Obama, không phải
để chiến thắng hay đánh bại kẻ thù. Mục tiêu khiêm tốn hơn nhiều:
chỉ để theo đuổi quyền lợi của Hoa Kỳ hay
quyền lợi của các quốc gia bạn.
Obama là người thực tế trong hình ảnh một
chính khách thế kỷ 19 của Anh Quốc, Lord Palmerston, người đã từng nói:
Chúng ta không có đồng minh vĩnh
viễn và chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền lợi của chúng ta là vĩnh
viễn và trường tồn , và những quyền lợi đó chúng ta có bổn phận phải theo
đuổi".
Theo Jonathan Eyal, một nhà phân tích chính
sách người Anh, điều kiềm chế Obama là lòng tin Hoa Kỳ
"vẫn còn là cường quốc lớn nhất nhưng không
phải là cường quốc quyết định. Và người Mỹ sẽ chỉ chấp nhận điều đó với thời
gian và nhiều nhồi xóc qua các giảm sốc".
Đây không phải là loại tự truyện anh hùng của Mỹ, những thành phố tỏa sáng
trên đỉnh đồi, hay hải đăng hướng dẫn nhân loại. Một cách tế nhị nhưng kiên
trì, Obama muốn tiết giảm cường độ chủ thuyết Biệt lệ Hoa Kỳ và thay
vào đó quyền lợi hổ tương và tương kính, hai cụm từ ưa chuộng. Obama cũng
tìm cách giảm thiểu tham vọng của Hoa Kỳ - lối ra khả dĩ khỏi Afghanistan
đang được chuẩn bị theo chiều hướng không thắng không bại kiểu Iraq - với
mục đích tái xây dựng Hoa Kỳ.
Đây chính là chỗ đảng Cộng Hòa sẽ tấn công Obama từ nay cho đến 2012. Đảng
viên Cộng Hòa sẵn sàng gọi Obama một lãnh tụ nước đôi hay thiếu lập trường
rõ rệt. Họ sẽ rêu rao Obama luôn thỏa hiệp với các thành phần quá khích Hồi
Giáo thay vì đánh bại những thành phần nầy như nước Mỹ đã từng đánh bại Quốc
Xã hay Cộng Sản. Họ lên án Obama đang bán đứng uy quyền Hoa Kỳ. Họ quảng bá
Obama như một lãnh tụ chủ hòa thiếu lòng ái quốc. Họ sẽ gọi ông một người
truyền giáo thuyết giảng chủ nghĩa xã hội thế quyền, muốn lèo lái Hoa Kỳ vào
tình trạng xơ cứng của Âu châu. Trong thực tế, họ đã bắt đầu. Chỉ cần lắng
nghe những ứng cử viên Cộng Hòa tiềm năng như Newt Gingrich, ám ảnh bởi Hồi
Giáo và luôn thấy luật Hồi Giáo Shariah đang ngoi đầu lên ở New Jersey, hay
Mitt Romney luôn rêu rao Obama đang bán đứng cho gấu già Liên Bang Nga, hay
Sarah Palin hay ngay cả Tim Pawlenty vô danh miền Trung Tây luôn than phiền
những tín hiệu nhu nhược lập lờ.
Cuộc bầu cử Tổng Thống 2012 sắp tới sẽ không được quyết định trên những chủ
đề vừa nói. Vấn đề cốt lõi sẽ là kinh tế Hoa Kỳ có thể hồi phục đủ nhanh và
bền vững. Nhưng Obama cũng dễ bị tổn thương vì lập trường thiếu vững chắc -
một hình ảnh ăn sâu vào đầu óc người Âu từ quyết định leo thang ở
Afghanistan. Ông cũng dễ bị tấn công vì luận điệu ông đã từ bỏ tự truyện anh
hùng gắn liền với ý thức của người Mỹ về chính nước Mỹ.
Đã hẳn, lô-gic đứng về phía Obama. Như Obama đã ghi nhận, hơn 1.000
tỉ USD đã phung phí từ sự kiện 11-9. Đó là lý do kinh tế Mỹ, nợ nần quá
nhiều, đã mất quân bình đến độ phải cần nhiều năm để khống chế. Cắt xén, tái
củng cố và tái cơ cấu là những điều kiện tiên quyết để tự vực dậy - những
việc Hoa Kỳ vẫn còn có đủ khả năng thành đạt.
Nhưng lô-gic không giúp thắng cử. Sự thắng cử vẻ vang của Obama năm
2008 là bằng chứng rõ ràng nhất. Nhưng tình hình đã đổi khác. Hoa Kỳ hiện
nay không giống Anh quốc ngày trước trong giai đoạn chuyển tiếp từ đế quốc
thực dân đến liên hiệp các xứ độc lập Commonwealth. Nhưng những khó
khăn của Mỹ đang đặt Obama trong tình trạng tương tự phải cắt xén, giảm
thiểu và bắc cầu.
Vấn nạn chính trị của Obama có thể tóm tắt: làm cách nào để lấy lại tự tin
và lạc quan trong khi lôi kéo Hoa Kỳ ra khỏi hai cuộc chiến ngông cuồng tốn
kém, thay vì nhảy vào một cuộc chiến mới và tai họa, chẳng hạn ở Iran.
MỘT HOA KỲ SUY NHƯỢC TRƯỚC VẬN HỘI MỚI Ở Á CHÂU
Các chính sách bành trướng quân lực và mậu dịch khẳng định của TQ đang gieo
rắc âu lo kinh sợ khắp Á châu, thúc đẩy các xứ láng giềng phải nhen nhúm
lại các liên minh cũ và vun quén các đồng minh mới khả dĩ bảo vệ quyền lợi
của chính mình hữu hiệu hơn - trước một siêu cường đang lên.
Những vận động ngoại giao và mậu dịch cuồng nhiệt , từ Tokyo đến New Delhi,
đã đem lại cho Hoa Kỳ cơ hội tái khẳng định sự hiện diện khó tránh bị lu mờ
bởi một TQ lên nhanh trong khu vực.
Cuộc công du của Obama trong tuần nầy, rộng lớn và quan trọng nhất kể từ
ngày nhận chức, đến những quốc gia dân chủ lớn mạnh, Ấn Độ, Indonesia, Nam
Hàn và Nhật Bản, trong vòng rìa TQ. Các xứ nầy và một số quốc gia láng giềng
khác đã có nhiều động thái, với trình độ bộc trực ít nhiều khác nhau, để
kiềm chế các hoạt động khẳng định của TQ trong khu vực.
Các nhà quan sát chờ đợi T T Obama và Thủ
Tướng Ấn Manmohan Singh sẵn sàng ký kết thỏa ước mua bán các phi cơ vận tải
quân sự Mỹ và ngay cả các chiến đấu cơ phản lực , những động thái có thể
nâng quan hệ đối tác quốc phòng giữa Ngũ Giác Đài và Ấn độ lên một bậc cao
mới. Nhật và Ấn cũng đang ve vãn các quốc gia Đông Nam Á về các thương ước
và thảo luận về một "vòng đai dân
chủ".
Việt Nam cũng đang khai triển một quan hệ ngày một ấm dần với cựu thù Hoa
Kỳ, phần lớn vì đồng minh cũ TQ đang đòi hỏi chủ quyền nhiều hải đảo ở Biển
Đông hay Nam Hải theo TQ.
Các thỏa ước và liên minh không hẳn hoàn toàn để ngăn bờ TQ, nhưng cũng đã
gợi ý một chuyển dịch cụ thể trong bối cảnh ngoại giao, đã phơi bày sống
động khi lãnh đạo 18 quốc gia gặp nhau hồi cuối tuần ở Trung tâm Hội nghị Hà
Nội với mái lượn sóng tân thời, không mấy xa lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong một hội nghị trong không khí tràn ngập căng thẳng giữa TQ và các xứ
láng giềng.
Xung đột Nhật-Trung, đang leo thang về một nhóm hải đảo đang tranh chấp khác
trong vùng biển phía Đông TQ, đã chiếm các tít lớn vào ngày thứ bảy vừa qua.
Và ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton đã đề nghị các cuộc thương thảo tay
ba để giải quyết.
Hầu hết các quốc gia Á châu, ngay cả khi tin chắc TQ sẽ thay thế Hoa Kỳ
trong vai trò cường quốc hàng đầu trong khu vực, đã ngày một âu lo trước sự
chuyển dịch quyền lực nhanh chóng và lối hành xử vẫn còn là một ẩn số của
siêu cường TQ.
Các đối tác thương mãi của TQ đã lớn tiếng phàn nàn TQ đang can thiệp quá
hung hăng và khẳng định với lập trường duy trì tỉ suất hối đoái ở mức thấp.
Quyết định - hạn chế xuất khẩu các khoáng sản đất quí hiếm thiết yếu đến
Nhật rồi đến Hoa Kỳ và các nước Âu châu - đã cho thấy viễn tượng TQ có thể
sử dụng vị trí áp đảo của mình trong một số kỹ nghệ then chốt như một loại
vũ khí chính trị và ngoại giao.
Và sự bành trướng hải quân nhanh chóng, cùng với lập trường lớn tiếng bảo vệ
các đòi hỏi chủ quyền trong các vùng lãnh thổ đang tranh chấp xa biên giới
TQ, đã thuyết phục Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam, và Singapore tái xác nhận
nhiệt tình đối với dù an ninh che chở của người Mỹ.
Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố khi đến
Hawaii, mở đầu chuyến công du bảy nước Á châu kể cả trạm dừng chân chỉ lên
lịch phút chót ở TQ, "Điều các lãnh
đạo Á châu đã thường nói với tôi nhất trong các chuyến công du trong 20
tháng vừa qua: Cám ơn quý vị, chúng tôi rất vui mừng khi Hoa Kỳ một lần nữa
đang giữ một vai trò tích cực ở Á châu".
Rất ít láng giềng của TQ đã nói lên những quan ngại của họ đối với TQ một
cách công khai, nhưng các nhà phân tích và ngoại giao cho biết, trong giao
tiếp riêng tư, họ đã bày tỏ quan ngại trước tốc độ bành trướng quân sự và
tính khẳng định chát tai trong chính sách mậu dịch của TQ.
Kenneth G. Lieberthal, nguyên cố vấn về các
vấn đề TQ bên cạnh T T Clinton và hiện công tác ở Brookings Institution,
cũng đã phát biểu, "Hầu hết các quốc
gia nầy đã nói với chúng tôi, 'Chúng tôi thật sự rất quan ngại TQ' ".
Chính quyền Obama đã nhanh chóng lợi dụng các bước sai lầm của TQ. Các quan
chức Hoa Thịnh Đốn trước đây thường nói tới TQ như cường quốc kinh tế khổng
lồ Á châu, giờ đây họ đã nói đến Ấn Độ và TQ như cặp khổng lồ song sinh. Và
họ nói rõ xứ nào họ tin đồng cảm với Hoa Kỳ nhiều hơn.
"Ấn Độ
và Hoa Kỳ chưa bao giờ thiết yếu cho nhau hơn", bà Clinton phát biểu. "Như
hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, chúng tôi đoàn kết nhất trí vì quyền lợi
và hệ giá trị chung".
Trong khi Obama viếng thăm Ấn Độ trong chặng dừng đầu trong chuyến công du
đến các quốc gia dân chủ Á châu, thủ tướng Ấn Manmahan Singh cũng vừa trở về
sau chuyến công du lớn của mình - cả hai, ít nhiều rõ ràng hay ít ra cũng
tình cờ, đã đi vòng quanh TQ.
Những chi tiết đó hình như không có vẻ đưa đến một thế quân bình kiểu chiến
tranh lạnh. TQ đã hội nhập đầy đủ vào kinh tế toàn cầu, và tất cả các nước
láng giềng rất hăm hỡ kết thân với TQ. Ngoài cuộc chiến dạy Việt Nam một
bài học cách đây ba thập kỷ, TQ đã không gây chiến với ai sau đó, và
luôn nhấn mạnh không có ý định dùng vũ lực để biểu dương quyền lực.
Cùng lúc, nỗi âu lo - TQ đã ngày một giàu mạnh và khẳng định hơn - tự nó,
cũng đang đem lại nhiều hệ quả thực sự.
Ấn Độ đang tự tiến cử như một đối trọng của TQ trong khu vực; Nhật đang giải
quyết tranh chấp với Hoa Kỳ về căn cứ không lực của thủy quân lục chiến;
Việt Nam đang thương thảo một hiệp ước về kỹ thuật hạt nhân dân sự với Hoa
Kỳ; và người Mỹ, trước đây đã bỏ quên Á châu vì quá bận rộn với hai cuộc
chiến Iraq và Afghanistan, đang thấy một cơ hội để hiên ngang trở lại.
Một ví dụ, trong tháng 7, ngoại trưởng Clinton đã trấn an Việt Nam và Phi
Luật Tân khi loan báo Hoa Kỳ rất muốn giúp giải quyết các tranh chấp giữa TQ
và các quốc gia láng giềng về một chuổi các hải đảo có tầm quan trọng chiến
lược ở Biển Đông.
Bộ trưởng ngoại giao TQ, Yang Jiechi, đã phản ứng giận dữ, lên án Mỹ đang có
âm mưu chống lại TQ. Yang còn nhìn thẳng vào mặt bộ trưởng ngoại giao của
Singapore nhỏ bé và nhấn mạnh: TQ là một nước lớn. Không do dự, ngoại
trưởng Clinton, thứ bảy tuần rồi từ Hà Nội, không những đã lặp lại cam kết
của Hoa Kỳ đối với tranh chấp ở Biển Đông, mà còn mở rộng cam kết để bao gồm
cả tranh chấp Nhật-Trung. Tuy nhiên, trong hiện tình đối nội-đối ngoại của
Hoa Kỳ, cam kết cũng có thể chỉ là cam kết. Đó là điều không nên quên.
Sự trỗi dậy của TQ như một cường quốc chuyên
chế cũng đã làm sống lại ý thức: các quốc gia dân chủ cần phải thực sự đoàn
kết . K. Subrahmanyam, một nhà phân tích chiến lược uy tín ở Ấn Độ, đã ghi
nhận: một nửa dân số thế giới hiện sống trong các quốc gia dân chủ; và
trong số sáu cường quốc lớn nhất trên thế giới, chỉ có TQ là chưa hay không
chấp nhận dân chủ. Ông nói thêm,
"Vấn đề ngày nay là một TQ không dân chủ và đang thách thức giữ địa vị số 1
thế giới".
Thực vậy, phương thức ứng xử thích hợp với một TQ đang lên nhanh luôn là ưu
tư ám ảnh các lãnh đạo Á châu.
Ở Nhật, Thủ Tướng Naoto Kan và Thủ Tướng Ấn Singh đã thảo luận các vấn đề
kinh tế tăng trưởng nhanh, bành trướng quân sự, và khẳng định gia tăng lãnh
thổ của TQ.
Bộ trưởng ngoại giao Ấn, Nirupama Rao, đã
tuyên bố với các phóng viên báo chí,
"Thủ Tướng Kan rất quan tâm tìm hiểu cách ứng
xử của Ấn Độ đối với TQ. Thủ Tướng của chúng tôi đã nói cần phải khai triển
lòng tin ở nhau, giao tiếp chặt chẽ, và rất nhiều kiên nhẫn".
Nam Hàn đã rất bức xúc hồi đầu năm khi TQ chận đứng một nghị quyết minh thị
lên án Bắc Hàn đã đánh đắm tàu tuần tiểu Nam Hàn, chiếc Cheonan. Nam
Hàn tố cáo Bắc Hàn là thủ phạm, nhưng TQ, một đồng minh lịch sử của Bắc Hàn,
đã không muốn buộc Bắc Hàn phải chịu trách nhiệm.
Ấn Độ đang theo dõi với đầy âu lo TQ đã bắt đầu xây các hải cảng ở Sri Lanka
và Pakistan, nối dài đường hỏa xa đến biên giới Nepal, và tìm cách bành
trướng sự hiện diện ở Nam Á.
Bộ Quốc Phòng Ấn đã tìm kiếm những quan hệ quân sự với nhiều quốc gia Á châu
trong khi liên tục mở rộng quan hệ và tạo mãi vũ khí từ Hoa Kỳ. Theo các
quan chức Mỹ, Hoa Kỳ đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập chung trong những năm
gần đây với Ấn Độ, nhiều hơn bất cứ với quốc gia nào khác.
Chuyến công du vừa qua của thủ tướng Singh là
một phần trong "chính sách Nhìn Phía Đông - Look East policy",
nhằm mở rộng mậu dịch với phần còn lại của Á châu. Thủ tướng nói, điều nầy
không liên hệ gì đến bất cứ xung đột nào với TQ, nhưng TQ vẫn quan ngại. Thứ
năm tuần trước, Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản TQ,
trong bài xã luận, đã đặt câu hỏi:
"Chính Sách 'Nhìn Phía Đông' có nghĩa 'Nhìn Nhằm Bao Vây Trung Quốc?' ".
Cách nhìn cảnh giác đó rất có thể chính là phản ứng của TQ đối với toàn bộ
các động thái trong các xứ láng giềng.
Theo Charles Freeman, một chuyên gia chính trị và kinh tế TQ, tại Trung Tâm
Nghiên Cứu Chiến Lược và Thế Giới,
"Người TQ nhận thức cuộc họp ở Hà
Nội như một tấn công tập thể đối với họ. Rõ ràng họ đã tính toán sai lầm về
chỗ đứng của họ trong khu vực".
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
07-11-2010
|