Những bài cùng tác giả
TP - GS Trần Văn Thọ
hiện đang giảng dạy và nghiên cứu kinh tế tại Đại
học Waseda (Tokyo), Nhật Bản. Ông là một trong ba
nhà khoa học nước ngoài từng được mời làm thành viên
chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế của Chính
phủ Nhật Bản trong gần 10 năm.
 |
GS Trần
Văn Thọ. |
Tại Việt Nam ông
từng là thành viên trong Tổ Tư vấn Cải cách Hành
chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. GS
Trần Văn Thọ là một trong 14 trí thức ở nước ngoài
vừa đề xuất Bản ý kiến về việc đẩy mạnh cải cách
toàn diện để phát triển đất nước. Tiền Phong
có cuộc trao đổi với GS Trần Văn Thọ nhân
chuyến công tác ngắn ngày về Việt Nam của ông.
Chúng ta đã
mất hơn một thế hệ
Có thời điểm
chúng ta thường nói đến hình ảnh Việt Nam như một
“ngôi sao đang lên”, một “con hổ đang chuyển mình”…
nhưng hiện nay hình ảnh này ít được nhắc đến, cá
nhân ông nghĩ sao về điều này?
Việt Nam đến nay đã
tách được ra khỏi nhóm các nước nghèo và chen chân
vào nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Tuy
nhiên, chúng ta đã mất hơn một thế hệ để có được
thành quả đó. Trong phát triển kinh tế, một thế hệ -
tương đương trên dưới 25 năm - có thể xem như một
đơn vị thời gian quan trọng để khảo sát sự thay đổi
về chất của xã hội. Thực tiễn trên thế giới, khoảng
thời gian một thế hệ đủ làm thay đổi hẳn cục diện
của nhiều quốc gia.
Câu hỏi cũng khiến
tôi nhớ lại khoảng thời gian vào nửa đầu thập niên
90 thế kỷ trước, cụ thể là từ năm 1993, tình hình
quốc tế khi đó rất thuận lợi cho Việt Nam. Cộng đồng
quốc tế bắt đầu một cơ chế giúp vốn vay ưu đãi để
xây dựng kết cấu hạ tầng. Doanh nghiệp nước ngoài dự
định đổ xô vào Việt Nam đầu tư sản xuất nhiều mặt
hàng công nghiệp như điện tử và các loại máy móc.
Đồng yên Nhật lên giá mạnh làm phát sinh dòng chảy
đầu tư trực tiếp lớn đang khao khát tìm cơ sở sản
xuất mới.
Nhưng rồi chúng ta
đã bỏ mất thời cơ này do môi trường pháp lý chậm cải
thiện, kéo dài chính sách đối xử phân biệt với nước
ngoài và chính sách công nghiệp không rõ ràng, thay
đổi thường xuyên. Dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp đó
kết cuộc đã đổ sang các tỉnh ven biển Trung Quốc,
sau đó kéo theo hàng chục vạn doanh nghiệp nhỏ và
vừa đến đầu tư hình thành những cụm công nghiệp lớn
ở vùng này.
Mối lo từ sự
lệ thuộc kinh tế
Trong bối cảnh
như vậy, chúng ta cần nhìn nhận như thế nào về sự
ảnh hưởng, đặc biệt là lệ thuộc về kinh tế?
Chẳng hạn, chúng ta
thử so sánh với một đối tác thôi. Năm 1984, thu nhập
bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ hơn Việt Nam
30% nhưng đến nay khoảng cách này là 300%. Tất nhiên
cần xét đến chất lượng phát triển nữa nhưng chất
lượng phát triển của chúng ta cũng không hơn Trung
Quốc nên không cần đặt ra so sánh chi tiết ở đây.
Một thực tế chúng ta
có thể thấy là hàng công nghiệp của Trung Quốc đang
tràn ngập thị trường Việt Nam, nhập siêu từ Trung
Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ
mô vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp của Việt Nam. Đặc biệt hiện nay cơ cấu mậu
dịch giữa Việt Nam và Trung Quốc có tính chất Bắc -
Nam, nghĩa là một quan hệ mậu dịch giữa nước tiên
tiến và nước chậm tiến, trong đó Việt Nam xuất khẩu
nguyên liệu thiên nhiên kể cả sản phẩm sơ chế và
nhập khẩu hàng công nghiệp.
 |
Đẩy mạnh
CNH - HĐH, thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế
Ảnh: H.V. |
Dưới trào lưu mậu
dịch tự do tại Đông Á, đặc biệt dưới tác động của
Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, trong
đó từ tháng 1-2015, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế đối
với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sản phẩm rẻ từ
Trung Quốc chắc chắn sẽ còn ào ạt vào thị trường
Việt Nam. Còn tại thời điểm này, các thống kê cho
thấy doanh nghiệp Trung Quốc đang chiếm rất nhiều
các gói thầu xây dựng, đưa lao động vào Việt Nam
dưới nhiều hình thức - kể cả bất hợp pháp - và nhiều
nơi còn hình thành cộng đồng người Hoa mới... Lệ
thuộc về kinh tế sẽ còn dẫn đến những sự lệ thuộc
khác.
Bài học từ
Philippines và Hàn Quốc
Thời gian qua
nhiều ý kiến đề cập đến việc nếu không có chiến lược
phát triển đúng đắn thì Việt Nam sẽ rơi vào “bẫy thu
nhập trung bình” rất nhiều nước đang mắc phải, ông
chia sẻ gì về lo lắng này?
Theo tiêu chuẩn của
Ngân hàng thế giới, Việt Nam hiện đang ở trong nhóm
các nước có thu nhập ở mức trung bình thấp, đến năm
2020 cũng có thể sẽ đạt mức thu nhập trung bình cao.
Nhưng vấn đề là Việt Nam có thể tiếp tục phát triển
bền vững để trở thành nước có thu nhập cao trong vài
thập kỷ sau đó nữa hay không mới là điều quan trọng.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, rất ít nước vượt qua
được cái bẫy này thậm chí có những nước đã mắc vào
bẫy này từ rất sớm mà không cần đợi đến khi đạt được
mức thu nhập trung bình cao (độ 4.000 USD).
Điển hình chúng ta
có thể thấy ở trường hợp của Philippines. Vào những
năm của thập niên 1950, Philippines là nước phát
triển chỉ sau Nhật Bản, cao hơn cả Hàn Quốc. Năm
1960, GDP bình quân đầu người của Philippines cao
gấp đôi Thái Lan nhưng đến giữa thập niên 1980 Thái
Lan đã theo kịp Philippines và đến năm 2000 hai nước
đảo ngược vị trí của năm 1960.
Năm 1985, GDP bình
quân đầu người của Philippines cao gấp 3,5 lần Trung
Quốc nhưng sau năm 2000, Trung Quốc đã vượt
Philippines. Trong khi đó, Hàn Quốc vào đầu thập
niên 1960 vẫn là nước kém phát triển nhưng chỉ sau
một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công
nghiệp phát triển trên thế giới.
Vậy theo ông,
điều gì đã góp phần làm nên sự thần kỳ đó của đất
nước Hàn Quốc mà Việt Nam chúng ta có thể tham khảo?
Lý do đầu tiên phải
kể đến đó là tố chất của những người lãnh đạo, đó là
những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua
những niềm tin ý thức hệ, luôn trăn trở về con đường
đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ cũng là
những người thức thời, quy tụ và sử dụng được nhiều
người tài giỏi, có tâm huyết với sự nghiệp xây dựng
đất nước.
Lý do thứ hai cũng
rất quan trọng là Hàn Quốc từ rất sớm đã có cơ chế
thi tuyển công chức nghiêm ngặt để từ đó họ xây dựng
được bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao. Ngoài
ra, trong quá trình phát triển, Hàn Quốc xây dựng
được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và
doanh nghiệp. Cùng với các yếu tố đó thì giáo dục,
nghiên cứu khoa học và công nghệ luôn được Hàn Quốc
quan tâm hàng đầu.
Cho đến nay, Việt
Nam có nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước nhưng
chủ yếu là những chính sách, chiến lược cụ thể, còn
những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền
tảng văn hóa, giáo dục... những tiền đề để cho các
chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu
như chưa được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nhưng
chưa được thực thi, áp dụng. Đó là những điều tôi
mong thời gian tới sẽ thay đổi.
Cảm ơn ông.
Cao Nhật - Bích Diệp
(thực hiện)
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Văn Thọ
|