Những bài cùng tác giả
Năm 1989, bức tường
Bá Linh sụp đổ. Năm 1991, Liên Bang Xô Viết tan rã.
Trong tác phẩm The End of History and the Last
Man, xuất bản năm 1992, tác giả Francis Fukuyama
chính thức tuyên bố Điểm Chung Cuộc của Lịch Sử.
Văn hóa Tây phương toàn thắng ; trật tự thế giới mới
sẽ dần dà được định hình theo mô hình Dân Chủ Tự
Do. Và Chủ nghĩa Tự do về Chính trị và Kinh tế
từ nay sẽ là mô hình duy nhất và tốt nhất cho nhân
loại.
Trong mô hình nầy,
mục tiêu tối hậu của các công ty là tối đa hóa doanh
lợi cho giới đầu tư hay cổ đông. Lợi nhuận càng cao,
giới lãnh đạo quản trị càng được tưởng thưởng hậu hỷ
dưới hình thức thù đáp cao, nhất là với các chứng
khoán hoặc cổ phiếu đặc biệt. Nhiệm vụ của chính
quyền là giảm thiểu các biện pháp can thiệp và kiểm
soát, đẩy mạnh tư hữu hóa. Tất cả những việc khác sẽ
được giải quyết tốt đẹp bởi bàn tay vô hình của thị
trường tự do. Nói một cách ngắn gọn, thị trường cạnh
tranh tự do là guồng máy phân bổ tài nguyên ưu việt,
và là cơ chế phát triển kinh tế hữu hiệu nhất.
Theo nhóm Washington
Consensus, giới lãnh đạo trong Bộ Ngân Khố, Cục Dự
Trữ Liên Bang, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế
giới, và một số trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ, sau
chiến tranh lạnh, chủ nghiã tư bản tự do là hệ thống
duy nhất đã vượt qua thử thách và thích hợp với thế
giới ngày mai. Theo họ, toàn cầu hóa - tiến trình
hội nhập các nền kinh tế và các đại công ty đa quốc
gia qua mậu dịch và đầu tư quốc tế - là nguyên tắc
chỉ đạo, là phương châm hành động. Họ chủ trương:
quân bình ngân sách, giảm thuế, thị trường tự do, tư
hữu hóa, bảo vệ quyền tư hữu, giảm thiểu vai trò của
chính quyền... Tóm lại, mô hình nầy sẽ mang lại
thịnh vượng, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đưa đến
dân chủ, hòa bình và ổn định.
Trong thực tế, với
tình trạng chiến tranh khắp nơi, với hiện tượng hâm
nóng toàn cầu, ô nhiễm môi trường, tình trạng nghèo
đói dai dẳng trong nhiều vùng trên thế giới, và nhất
là với chính sách đối ngoại của chính siêu cường Hoa
kỳ, trật tự thế giới mới không còn đứng vững. Nếu
toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu bất khả kháng, nó
cũng che dấu nhiều đợt sóng ngầm dẫn tới các cuộc
khủng hoảng tài chánh trầm trọng như cuộc khủng
hoảng năm 1997 ở Á châu, và cuộc khủng hoảng toàn
cầu hiện nay.
Cứu Nguy và Xã Hội
Hóa Chủ Nghĩa Tư Bản
Trong một bài bình luận ngày
25-10-2008, báo The New York Times viết,
"gạt bỏ một lời khoa trương
đùa cợt của Tổng Thống Pháp Nicolas Sarkozy - chủ
nghĩa tư bản kiểu Mỹ đã chấm dứt - là một việc làm
dễ dàng, chỉ cần xếp nó chung với các lời phê bình
của Pháp về thức ăn liền và văn hóa bình dân Mỹ".
Thực vậy, chính quyền
Mỹ hiện nay đang nắm nhiều chứng khoán và cổ phần
trong những ngân hàng lớn, kiểm soát một trong những
công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới - AIG (American
International Group), nhận bảo đảm hơn nửa số nợ có
bất động sản thế chấp trong cả nước. Nói một cách
khác, chính quyền đã nắm giữ và kiểm soát hệ thống
tài chánh - mạch sống của chủ nghĩa tư bản.
Alan Greenspan, người
luôn rao giảng chủ nghĩa tư bản kinh điển và nguyên
chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, tuần rồi, cũng đã
phải thú nhận nhược điểm trong niềm tin sắt đá của
mình trong hơn 40 năm qua: thị trường luôn tự
động điều chỉnh. Ông nói:"Tôi đã sai lầm".
Bối rối, ông ra trước Quốc Hội than phiền quan điểm
kiên cường của ông về thế giới trước đây nay đã rạn
vở và ông vẫn chưa hiểu bằng cách nào cuộc khủng
hoảng đã xẩy ra. Đây chính là lúc giới trí thức
phải lo lắng.
Vấn đề là chủ nghĩa
tư bản phải chuyển hướng như thế nào. Trong một thế
giới với những liên kết toàn cầu, Hoa Kỳ không thể
đơn thuần trở lại với chủ nghĩa tư bản của các thập
kỷ 1950s và 1960s khi luật lệ giám sát rất khắt khe
và các công ty độc quyền được o bế đang khống chế
thế giới các công ty. Tuy nhiên, Tổng Thống và Quốc
Hội mới sắp tới sẽ có nhiều cơ may không thể bỏ qua
để tái thẩm định những nguyên tắc và luật lệ chi
phối một hình thức kinh tế thị trường vốn được buông
lỏng và tự do thái quá từ thời Tổng Thống Ronald
Reagan.
Sự gỡ bỏ giám sát tài
chánh đã đem lại sinh động cho sinh hoạt kinh tế,
khi thịnh vượng lúc thoái trào - gỡ bỏ rào cản đối
với chuyển dịch tư bản, cho phép tự do giao dịch các
sản phẩm tài chánh mờ ám, và thả lỏng các định chế
tài chánh tự do vay nợ ngày một nhiều hơn.
Tiền vay nhẹ lãi từ
Trung Quốc và Cục Dự Trữ Liên Bang đã thêm dầu vào
lửa. Và các định chế tài chánh được buông lỏng tự do
của Hoa Kỳ - các định chế trung gian môi giới, các
qũy đầu cơ, và các ngân hàng phi- ngân- hàng
(nonbank banks) - giữ một vai trò quan trọng trong
những diễn biến đưa tới thảm họa.
Giải pháp cho cuộc
khủng hoảng đòi hỏi phải rà soát, tư duy lại các
quy luật giám sát tài chánh. Tỉ suất vốn dự trử của
các ngân hàng phải được tăng cao; các định chế tài
chánh phải được tái giám sát. Và nhiều hình thức
kiểm soát, khác hơn là buộc dây cương lên các ngân
hàng Mỹ, cũng rất cần thiết.
Chính quyền mới sắp
đến phải tái lập ý niệm cơ hội đồng đều, cần đầu tư
vào y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở. Một khế ước xã
hội và vai trò của chính quyền trong khế ước đó cần
được xét duyệt. Vượt qua những thách thức đó là một
trách nhiệm khó khăn. Cứu cấp hệ thống tài chánh
cũng chỉ mới là bước đầu.
Khủng Hoảng Nhiều Mặt
Càng hiểu rõ cuộc
khủng hoảng kinh tế hiện nay, người ta càng thấy
nhiều vấn đề đáng lo ngại.
Hai ứng viên Tổng
Thống trong quá trình vận động tuyển cử chỉ quan tâm
đến những khó khăn của giai cấp trung lưu - các gia
đình âu lo về công ăn việc làm, đến tiền nhà hàng
tháng, tiền tiết kiệm hưu trí và học phí đại học cho
con em.
Mỗi lần chỉ số Dow
Jones sụt giảm, mối âu lo càng gia tăng. Mỗi công ty
đóng cửa và mỗi phúc trình của chính quyền về số
người thất nghiệp gia tăng làm họ thêm sợ hãi.
Chẳng ai biết phải
làm gì để ổn định tình hình. Và cũng chẳng ai nói gì
về người nghèo khó.
Nhưng nếu chúng ta đã
thực sự rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng nhất kể từ cuộc kinh tế đại khủng hoảng
1929-33, những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là
những người nghèo khổ và trung lưu hạng thấp (lower
middle class). Có hàng triệu người như vậy, nhưng
phần lớn chẳng ai biết đến. Đối với họ, một bước sụt
thang là thêm một bước chìm sâu vào cảnh khốn cùng
hơn nữa.
Trước hết, ít ra
trong đoản kỳ, nhiều gia đình sẽ mất căn hộ đang ở,
sẽ khó tìm được việc làm. Khi mất việc, nhiều gia
đình sẽ mất bảo hiểm y tế... Tình trạng nầy sẽ là
một gánh nặng vượt khỏi khả năng chịu đựng của các
bệnh viện cung cấp các dịch vụ y tế căn bản, vốn
đang đối mặt với bất trắc khả dĩ vở nợ.
Nạn kinh tế thoái
trào cùng với dự phóng gia tăng trong số bệnh nhân
không có bảo hiểm y tế sẽ làm cuộc khủng hoảng hiện
nay thêm phần trầm trọng.
Hệ thống tài chánh
Hoa Kỳ đã bị chìm đắm trong cuộc khủng hoảng tín
dụng bất động sản vì từ lâu các nhà lãnh đạo đã
không nghiêm chỉnh chú tâm đến các triệu chứng rõ
ràng của căn bệnh đã di căn.
Hiện nay, nhiều triệu
chứng đáng lo ngại cũng đã xuất hiện trong một số
địa hạt quan trọng khác: hạ tầng cơ sở quốc gia
xuống cấp, hệ thống giáo dục công lập bất cập, các
chính sách năng lượng và y tế vô hiệu. Và không một
cấp lãnh đạo nào đưa ra một phương án thích ứng.
Tóm lại, dấu hiệu suy
thoái, mục rữa, đầy dẫy ở khắp nơi. Kể từ đệ nhị thế
chiến, Hoa Kỳ chưa bao giờ phải cần đến một chính
quyền cùng lúc có viễn kiến toàn cảnh và khả năng
lãnh đạo trên nhiều mặt trận như lúc nầy.
Ngay từ đầu, khi cần
chuyên viên giúp lèo lái Wall Street ra khỏi trì
trệ, Henry Paulson, Bộ trưởng Ngân Khố, đã quay về
Goldman Sachs tuyển chọn một số cộng tác viên cũ
giàu kinh nghiệm về ngân hàng và tái cấu trúc các
công ty.
Tháng 9-2008, sau khi
chính quyền Bush quyết định cứu cấp tập đoàn bảo
hiểm AIG với ngân khoản 85 tỉ USD (nay tăng lên
khoảng 122 tỉ), Paulson cũng đã giúp chọn một giám
đốc trong hội đồng quản trị Goldman Sachs vào chức
vụ lãnh đạo AIG.
Vào đầu tháng
10-2008, khi cần người cầm đầu quỹ cứu trợ 700 tỉ,
Paulson lại tuyển chọn Neel T. Kashkari, 35 tuổi,
một tay em - cũng thuộc nhóm Goldman Sachs - chỉ có
kinh nghiệm trong ngành ngân hàng đầu tư.
Chính vì hầu hết các
viên chức lèo lái các chương trình cứu trợ và giải
quyết cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay đều xuất
thân từ lò luyện Goldman Sachs, các ngân hàng và
công ty tài chánh cạnh tranh đã đặt cho Goldman cái
tên lóng: Government Sachs (Chính quyền Sachs).
Chính tầm cỡ cuộc
khủng hoảng tài chánh và các phương cách can thiệp
mang tính lịch sử của chính quyền đã đưa đến nhiều
nghi vấn về vai trò của Goldman Sachs.
Các nhà phân tích tự
hỏi tại sao Paulson lại không tuyển chọn một số
trợ tá từ các ngân hàng cạnh tranh khác để giảm
thiểu hình ảnh của Bộ Ngân Khố, trong thực tế, đã
trở thành một bộ phận của Goldman. Một số khác
đặt câu hỏi: Paulson và nhóm của ông đang lo cho
quyền lợi của ai? Của những vị đang giám sát các xí
nghiệp dịch vụ trên đường phá sản, hay của các sở
hữu chủ những căn hộ trung bình đang bị đe dọa bởi
cuộc khủng hoảng?
Và câu trả lời có thể
là những hành động của Paulson và câu lạc bộ các cựu
nhân viên Goldman Sachs sẽ được mổ xẻ phân tích bởi
Quốc hội mới vào mùa xuân sắp tới khi thảo luận vấn
đề luật pháp, trình độ giám sát và chế tài các hình
thức hoạt động dịch vụ tài chánh thiếu cẩn trọng,
nghiêm túc.
Những Cam Go Trước
Mắt
Trong nhiều tuần lễ
vừa qua, sự chao đảo trên các thị trường chứng khoán
toàn cầu đã chiếm vị trí những tin hàng đầu của báo
chí. Nhưng quan trọng và đáng lo hơn cả vẫn là những
tin tức về thực trạng kinh tế toàn cầu. Trong thực
tế, hiện nay, các biện pháp cứu nguy khu vực ngân
hàng rõ ràng chỉ mới là bước đầu. Các khu vực kinh
tế ngoài tài chánh còn cần cứu trợ cấp thiết hơn
nữa.
Do đó, trái với các
chính sách Tân Bảo Thủ, sự can thiệp của chính
quyền vào sinh hoạt kinh tế thật sự rất cần thiết
qua gia tăng công chi dù phải tạm thời quên đi mục
tiêu thăng bằng ngân sách.
Vào đầu tháng
10-2008, chỉ số tiêu thụ sụt giảm mạnh song song với
chỉ số sản xuất kỹ nghệ. Tỉ lệ thất nghiệp vọt cao.
Chỉ số kỹ nghệ chế biến của Ngân Hàng Dự Trử Liên
Bang Philadelphia sụt giảm nhanh nhất trong vòng 20
năm qua. Tất cả mọi dấu hiệu đều cho thấy nạn thoái
trào kinh tế sẽ rất sâu đậm, tàn nhẫn,và lâu dài.
Tỉ suất thất nghiệp
đã vượt quá 6%; tỉ suất khiếm dụng trên 10%. Đến
nay, hầu như chắc chắn tỉ suất thất nghiệp sẽ lên
quá 7%, và rất có thể trên 8%, cho thấy đây là cuộc
thoái trào nghiêm trọng nhất trong vòng một phần tư
thế kỷ.
Đợt thoái trào lần
nầy cũng có thể dài lâu. Nhiều người còn nhớ những
gì đã xẩy ra trong cuộc thoái trào lần cuối, tiếp
theo sau sự kiện bong bóng kỹ thuật bùng nổ trong
thập kỷ 1990s. Trên bề mặt, người ta những tưởng các
biện pháp đối phó lần đó khá thành công. Lúc đó mặc
dù nhiều người lo sợ Hoa kỳ có thể đánh mất một
thập kỷ tương tự như người Nhật, nhưng điều đó đã
không xẩy ra. Cục Dự Trữ Liên Bang đã thành công đem
lại sự phục hồi qua các biện pháp cắt giảm lãi suất.
Trong thực tế, Hoa Kỳ
trong thập kỷ 1990s cũng chẳng mấy khác Nhật Bản.
Cục Dự Trữ Liên Bang cũng đã gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù sau nhiều lần cắt giảm lãi suất cho đến khi
lãi suất quỹ liên bang xuống còn 1%, tỉ suất khiếm
dụng vẫn tiếp tục gia tăng. Phải mất tới hơn hai năm
trước khi thị trường công ăn việc làm mới bắt đầu
được cải thiện. Và khi thực sự đạt được phục hồi,
điều đó cũng chỉ nhờ ở việc Alan Greenspan đã phải
chấp nhận thay thế bong bóng kỷ thuật bằng bong bóng
bất động sản.
Hiện nay, bong bóng
bất động sản cũng đã nổ tung, để lại đàng sau một
thị trường tài chánh tơi tả. Ngay trong giã thuyết
những nổ lực giải nguy hệ thống ngân hàng và tái
khởi động các thị trường tín dụng thành công - và
hiện quá sớm để quyết đoán, và các kết quả ban đầu
cũng chẳng mấy khả quan - điều đó cũng không thể đem
lại nhiều hy vọng thị trường bất động sản có thể hồi
phục sớm sủa. Do đó, Cục Dự Trữ Liên Bang lần nầy
còn gặp nhiều thử thách hơn và cũng không mấy lạc
quan.
Nói một cách khác,
cũng không còn gì nhiều để Ben Bernanke có thể làm
cho nền kinh tế. Ông ta có thể và cần cắt giảm lãi
suất nhiều hơn nữa - nhưng không ai chờ đợi hành
động đó có thể giúp được gì nhiều ngoài việc đem lại
cho nền kinh tế một sự kích thích nào đó.
Đã hẳn, chính quyền
liên bang còn có thể làm nhiều việc để giúp nền kinh
tế, chẳng hạn kéo dài thời gian phụ cấp cho người
thất nghiệp để giúp gia đình họ và cùng lúc đem tiền
đến tận tay những người sẵn sàng đem ra chi tiêu,
hay như ngôn từ của giới kinh tế gia, những người có
khuynh hướng tiêu thụ biên tế cao. Chính
quyền cũng có thể viện trợ khẩn cấp cho nhà cầm
quyền các tiểu bang và các địa phương giúp họ tránh
việc cắt giảm quá đáng chi tiêu công gây thất nghiệp
và phương hại các dịch vụ công cộng. Chính quyền
liên bang cũng có thể mua lại số tín dụng bất động
sản, tái cơ cấu các điều kiện trả nợ hàng tháng giúp
các gia đình nghèo giữ lại căn hộ đang ở đồng thời
tránh nạn xuống cấp trong các khu gia cư lân cận.
Hơn nữa, nay cũng là
lúc chính quyền cần phát động các chương trình nâng
cấp các hạ tầng cơ sở cần thiết - lưu thông vận tải,
giáo dục, y tế - nhất là khi viễn ảnh chấm dứt
khủng hoảng chóng vánh hầu như quá mong manh.
Chính quyền mới sắp
tới cũng phải mạnh dạn thay đổi chính sách, dành ưu
tiên cho các công trình tái phục hồi kinh tế, dù
phải tăng công chi và, như vậy, ngân sách càng khiếm
hụt nhiều hơn.
Barack
H. Obama vừa đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, vị Tổng Thống
thứ 44 và cũng là vị Tổng Thống hai dòng máu, người
Mỹ gốc Phi châu đầu tiên, với thông điệp "Đổi
Thay và Hy Vọng". Trong tình trạng phức tạp và
rối reng của hiện tình thế giới, mọi người không
phân biệt mầu da, tìn ngưỡng, sang hèn, Đông Tây Nam
Bắc, đang khát khao "Hy Vọng" những "Đổi
Thay" tích cực vì ổn định, hòa bình, thịnh vượng
cho toàn cầu. Xin hãy cùng chung lời cầu nguyện!
(Có bổ
sung đoạn cuối)
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USA
It would be fairly easy to dismiss the
gleeful boast by President Nicolas Sarkozy
of France that American-style capitalism is
over, to file it with French critiques of
fast food and American pop culture.
|