Chính quyền Barack Obama và những thử thách đang chờ đợi

Vietsciences- Nguyễn Trường            17/12/2008
 

Những bài cùng tác giả

Diễn văn Barack Obama tại Chicago-Anh-Pháp-Việt

Barack Obama đã đắc cử Tổng Thống với một đa số phiếu đầy ấn tượng. Không ai lấy làm ngạc nhiên khi cuộc bầu cử ngày 4-11-2008 đã được đa số các nhà quan sát xem như bước ngoặc trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ.

Một biến chuyển như vậy đã hẳn rất hiếm hoi và đã diễn ra trong những trạng huống vượt quá tầm kiểm soát của những ai chủ trương phải thay đổi. Trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay, mọi người trên thế giới, đặc biệt là cử tri Mỹ, hy vọng đây là thời cơ để phục hưng chính trị ở Hoa Kỳ, đem lại một hình thái dân chủ nào đó trong tiến trình chấm dứt chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh triền miên, và phá sản, khởi đầu từ thời chiến tranh lạnh.

Nhiều người còn xem kết quả tuyển cử vừa qua như một bản án đối với những lỗi lầm chính trị trong tám năm liền của chính quyền George W. Bush. Tuy nhiên, việc bầu đảng đối lập lên cầm quyền tự nó chưa hẳn có thể phục hồi một nước Mỹ xứng danh một siêu cường lãnh đạo thế giới đáng mong muốn. Thực vậy, trong hiện tình nước Mỹ, khó thể có một tổng thống đủ sức đương đầu với sức ép áp đảo của tập đoàn quân sự-kỹ nghệ, cũng như cộng đồng 16 cơ quan tình báo ngoại-hiến-pháp đại diện nhiều nhóm hậu thuẫn với quyền lực hùng hậu. Ảnh hưởng tai hại của một tổng thống chế mang tính đế quốc - sự lan tràn một bức màn bí mật chính thức, một mạng lưới cảnh sát, và quyền thám thính rình rập của nhà cầm quyền, sự định chế hóa một bộ quốc phòng thứ hai dưới tên gọi Bộ An Ninh Quốc Gia, và sự hiện diện của 761 căn cứ quân sự mang tính đế quốc trong 151 quốc gia trên thế giới tính tới năm 2008 - không dễ gì có thể đảo ngược qua quá trình vận hành bình thường của hệ thống chính trị Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, sự thắng cử của Barack Obama trong tháng 11 vừa qua hình như đã đánh dấu một thay đổi mới trong bản đồ cử tri của Hoa Kỳ tương tự như cuộc bầu cử năm 1932.

Franklin RooseveltVới sự đắc cử tổng thống của Franklin Roosevelt năm 1932, Hoa Kỳ đã bước vào một trong những giai đoạn thực sự dân chủ hiếm hoi. Thực vậy, trong cốt lõi của lý thuyết chính trị, dân chủ là những điều kiện, những trạng huống đem lại cho người dân cơ hội cải thiện đời sống qua sự thể hiện vai trò cử tri và áp đặt lên nhà cầm quyền trách nhiệm đáp ứng những hy vọng và nhu cầu của chính mình.

Tuy nhiên, các nhà sáng lập ra nước Mỹ và hầu hết các vị lãnh đạo sau đó đều không mấy thiết tha với dân chủ hiểu theo nghĩa nầy. Họ đã ưa thích và lựa chọn thể chế cộng hòa với hệ thống chế ngự và quân bình (checks and balances) dưới quyền lãnh đạo của giới thượng lưu (elites) thay vì tập thể cử tri. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ đã được khai sinh với khuyết tật nô lệ, vì vậy, không phải là thể chế dân chủ, hay đúng hơn, với một thiên kiến phản dân chủ. Trong bối cảnh đó, dân chủ đã luôn tiến triển chậm chạp, khó khăn và không trọn vẹn. Cộng hòa Hoa Kỳ phải mất ba phần tư thế kỷ mới chấm dứt chế độ nô lệ, mất thêm một trăm năm trước khi dân da đen được quyền đi bầu. Phải đợi đến thế kỷ 20, phụ nữ mới được quyền bầu cử và các nghiệp đoàn mới có quyền thương thuyết tập thể. Trong mọi trường hợp, những chiến thắng nầy chưa bao giờ được trọn vẹn: cho đến nay, phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng, kỳ thị chủng tộc vẫn còn dai dẳng, các nghiệp đoàn vẫn luôn là mục tiêu phá hoại trong chiến lược của các đại công ty. Dân chủ ở Hoa Kỳ không hề mang tính bẩm sinh, mà luôn phải phấn đấu để sống còn trong chính trật tự kinh tế xã hội của Mỹ.

Chương trình New Deal của Franklin Roosevelt đã đem lại một giai đoạn ngắn tương đối dân chủ. Giai đoạn nầy đã chấm dứt với việc Hoa kỳ tham chiến chống lại phe trục Đức-Nhật-Ý trong Đệ Nhị Thế Chiến; và chương trình New Deal đã phải nhường chỗ cho kỹ nghệ sản xuất vũ khí và quân trang quân dụng. Chính nền kinh tế thời chiến - sản xuất để đáp ứng nhu cầu chiến tranh - cuối cùng đã giúp Hoa Kỳ vượt qua hệ lụy của cuộc kinh tế đại khủng hoảng và vãn hồi tình trạng toàn dụng. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu thử nghiệm chính sách đồng thời duy trì một nền kinh tế quân sự bên cạnh một nền kinh tế dân sự. Qua thời gian, cuộc thử nghiệm đã đưa đến việc phân bố lệch lạc tài nguyên quý hiếm vào kỹ nghệ chiến tranh thay vì vào đầu tư và tiêu thụ thực sự, do đó, đã bào mòn khả năng cạnh tranh của kỹ nghệ Hoa kỳ trên thị trường quốc tế.

Điều kiện kinh tế xã hội năm 2008 cũng không mấy khác năm 1932.

Tỉ lệ thất nghiệp năm 1932 ở mức kỷ lục -33%. Mùa thu 2008, tỉ lệ thất nghiệp tuy ở một mức thấp hơn nhiều - 6.7%, nhưng áp lực kinh tế suy thoái rộng khắp: hàng loạt nhà mua trả góp bị thu hồi và phát mãi, nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư vỡ nợ, giá cả thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, ô nhiễm môi trường, cuộc chiến tốn kém ở Iraq và Afghanistan, thất bại trong chính sách đối ngoại (ở Georgia, Ukraine, Palestine, Lebanon, Iran, Pakistan,..), ngân sách ngày một khuy khiếm, cân thương mãi mất cân bằng trầm trọng.

Chính trong bối cảnh đó, Barack Obama đã đắc cử Tổng Thống với một đa số phiếu quyết định, mặc dù đã phải đối đầu với Chiến Lược Miền Nam (Southern Strategy) của Đảng Cộng Hòa từ thời Richard Nixon (1968) nhằm khai thác chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong mấy thập niên cuối thế kỷ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21. Cuộc bầu cử 2008, vì vậy, có thể xem như một cuộc tuyển cử mang tính biến cải bản đồ cử tri nước Mỹ.

Những Thử Thách Chờ Đợi Tổng Thống Tân Cử

Tái cơ cấu hệ thống chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của một quốc gia, nhất là của siêu cường Hoa Kỳ - một siêu cường đang tuột dốc - hay thiết lập một trật tự thế giới mới, là một công trình lâu dài đòi hỏi một viễn kiến lãnh đạo tích cực mang tính xây dựng và đạo đức, và sự đồng thuận của đa số các quốc gia đầy đủ chủ quyền trên thế giới. Nhiều nhà phân tích ở Mỹ cũng như từ nhiều nơi trên thế giới nhận thấy ở Tổng Thống đắc cử, Barack Obama, một lãnh đạo trẻ tuổi, năng động, thông minh, một chính trị gia sáng giá và tài ba, am hiểu tình hình thế giới. Vào ngày 20-01-2009 tới, Barack Obama sẽ thừa kế một thế giới khác xa thế giới George W. Bush tiếp quản vào tháng 01-2001. Obama đang đứng trước một tình thế ngày một cam go hơn và cùng lúc phải đối diện nhiều thử thách cấp tính và nghiêm trọng, hậu quả của các chính sách phiêu lưu, tai họa trong suốt tám năm cầm quyền của Bush.

Khủng Hoảng Kinh Tế Tài Chánh

Trong một bài viết đăng trên báo The New York Times, số ra ngày 18-11-2008, Henry M. Paulson thú nhận: Hoa Kỳ đang trải qua một cuộc khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng và bất ngờ, hơn bất cứ cuộc khủng hoảng nào khác trong đời sống của thế hệ chúng ta...Vào tháng 9-2008, chính quyền đã phải đối đầu với một cuộc khủng hoảng trong toàn hệ thống . Chương Trình Cứu Cấp các Tích Sản Mất Giá (Troubled Asset Relief Program - TARP) của Paulson không mang lại ổn định cho hệ thống tài chánh, chẳng giúp được gì cho thị trường bất động sản hay giới nghèo không còn đủ khả năng trả nợ nhà hàng tháng, cũng như nền kinh tế đang bị lâm nguy.

Cơn bão lốc tài chánh đã gây ra nhiều vấn nạn phi tài chánh hết sức quan trọng cho địa vị của siêu cường Hoa Kỳ trong tương lai.

Ngay từ đầu, làn sóng âu lo đã biểu lộ một hình thức dàn trải quá mỏng mang tính đế quốc - một sự dàn trải quá mỏng của các xí nghiệp tài chánh khổng lồ của Wall Street. Đối với những xí nghiệp nầy, đó là hình thức những trái khoán dựa trên nguyên tắc đòn bẫy với điểm tựa thế chấp được đánh giá sai lầm, do đó, quá mong manh khập khiễng. Hay theo nhận định gần đây của John Grey trên báo British Guardian, sự hoảng sợ cũng bộc lộ một thứ dàn trải quá mỏng mang tính đế quốc khác - một sự dàn trải thế lực địa chiến lược của Hoa Kỳ, nêu lên vấn đề cần giải quyết: khoảng cách giữa những tài nguyên kinh tế, chính trị, quân sự đang suy yếu và những tham vọng lớn lao toàn cầu của Hoa Kỳ.

Điều quan trọng là phải làm sáng tỏ những gì đang lâm nguy trên thế giới. Tùy theo cách nhìn của mỗi người, đây là một đề tài rất dễ được thổi phồng hay xem nhẹ. Rất ít ai trong giới truyền thông dòng chính chấp nhận ngay cả sự khả dĩ có những đổi thay lớn lao trong vị thế của Mỹ. Ngược lại, một số khác lại sẵn sàng dành một ý nghĩa cực lớn cho những gì đang xẩy ra, ngay cả trước khi tình hình lắng dịu. Như sử gia Andrew Bacevich đã có lời khuyên, tương lai chưa rõ ràng, và chưa có gì ngã ngũ.

Dù sao, tưởng cũng cần tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay cùng với sự suy yếu trong quyền lực cứng và mềm của Hoa Kỳ, và những yếu tố nầy sẽ làm thay đổi cảnh quan địa chính trị như thế nào trong những tháng năm sắp tới.

Hậu Quả Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chánh

Cuộc khủng hoảng đã xẩy ra vì sự quản lý tín dụng và rủi ro sai lầm của toàn hệ thống tài chánh. Dụng cụ phức tạp credit-default swaps - CDS (gói trao đổi tín dụng-thiếu khả năng hoàn trái) được sáng tạo với mục đích giúp các định chế tín dụng giảm thiểu mức độ rủi ro không thu được nợ đầu cơ vào bất động sản, qua phương cách chia vụn các trái khoản để phân tán bất trắc giữa số đông các định chế tài chánh khác nhau. Cũng như các loại bảo hiểm khác, đây là phương cách trải mỏng rủi ro để tối thiểu hóa hậu quả của tai họa có thể xẩy đến.

Trong thực tế, CDS chỉ khiến các nhà đầu tư bớt quan tâm đến nhu cầu phải lượng định trung thực các rủi ro bất trắc. Tệ hơn nữa, chính hành động phân tán rủi ro đã làm cho việc lượng định tính lành mạnh của mọi định chế khác vô cùng khó khăn.

Điều nghịch lý là chính các dụng cụ giảm thiểu những hiểm tai bất trắc lại trở thành những dụng cụ làm rủi ro lan tràn. Rút cuộc, người ta không rõ, liệu sự sụp đổ của các thị trường trên toàn cầu là hậu quả của sự mất tin tưởng do nạn khô cạn thanh khoản hay vì các tích sản mất hết giá trị, một vấn đề mang tính căn bản hơn.

Ngoại trừ một số nhỏ thành viên nòng cốt Cộng Hòa, đối với đa số các dân biểu, nghị sĩ trong Quốc Hội, sự phá sản và gần phá sản của Bear Stearns, Lehman Brothers, AIG, và nhiều công ty khác, đã đánh dấu sự phá sản của chính sách Alan Greenspan, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, nhằm gỡ bỏ mọi giám sát đối với hệ thống tài chánh trong mấy thập kỷ vừa qua. Mô hình nầy đã lên đỉnh điểm trong hai nhiệm kỳ của TT George W. Bush, và nay đã đổ vỡ. Cuộc khủng hoảng tài chánh còn phơi bày những nhược điểm mang tính cơ cấu trong hệ thống chính trị của Mỹ - những nhược điểm đã đưa đến tình trạng một tổng thống vịt què nhiều tháng trước ngày mãn nhiệm kỳ. Quốc Hội cũng ở trong tình trạng tương tự, chẳng thể đưa ra một giải pháp thay thế nào.

Nói một cách ngắn gọn, địa vị chính trị áp đảo của đảng Cộng Hòa cầm quyền đã chấm dứt khi phải đối diện với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh, một cuộc khủng hoảng, dưới mắt cử tri, đã làm tiêu tan thẩm quyền và uy tín cũng như ý thức hệ thị trường tự do của đảng Cộng Hòa. Cuộc khủng hoảng đã xẩy ra trong giai đoạn chuyển tiếp hoàn toàn thiếu vắng một trung tâm quyền lực: chính quyền Bush sắp ra đi không còn được ai tin tưởng; chính quyền Obama sắp tới chưa có thực quyền; và hố cách biệt ý thức hệ quá sâu thẳm giữa hai bên ngăn cản mọi hành động phối hợp. Một vài hành động hữu ích - hai cơ quan Fannie Mae và Freddie Mac đã ra tuyên bố tạm ngưng các biện pháp thu-hồi-phát-mãi bất động sản (foreclosures); Quốc Hội đã thông qua biện pháp kéo dài thời gian được hưởng phụ cấp thất nghiệp - cũng chỉ mang tính vá víu tạm thời.

Tất cả những sự kiện vừa nói đã diễn ra trước mắt một thế giới đầy âu lo kinh ngạc. Trong nhiều thập kỷ qua, ngạch số khuy khiếm (nhập siêu) trong cân thương mãi hữu hình của Hoa Kỳ luôn gia tăng- một thước đo mức độ thiếu nợ của Hoa Kỳ đối với các đối tác thương mãi, nay đã lên đến 6.700 tỉ kể từ năm 1982.

Ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng tài chánh bùng nổ vào giữa tháng 9-2008, thiện chí của các trái chủ quốc tế đối với tình hình tài chánh, thuế khóa, ngân sách quá mất thăng bằng của "siêu cường duy nhất" hình như đã tiêu tan nhanh chóng.

Chẳng hạn, các nhà đầu tư Á châu đã nhanh chóng biểu lộ thái độ hoài nghi vô tiền khoáng hậu đối với hệ thống tài chánh của Hoa Kỳ trước khi cuộc khủng hoảng bắt đầu. Vào đầu năm 2008, các nguồn vốn dồi dào, với lợi tức từ dầu khí (petrodollars) của các xứ Trung Đông và Á châu, vẫn còn sẵn sàng đổ thêm tư bản vào các ngân hàng Mỹ, nhờ đó, đã giúp trì hoãn sự cố thanh khoản cạn kiệt. Tuy nhiên, từ tháng 9-2008, các quỹ nầy đã tỏ ra rất dè dặt e ngại trong việc tiếp sức cho các định chế tài chánh Mỹ, vì vậy, Hoa kỳ mất thêm một nguồn tài trợ khả dĩ đối phó với khủng hoảng thanh khoản và tín dụng.

Đến một thời điểm nào đó, những điều kiện tín dụng toàn cầu chặt chẽ hơn chắc sẽ hạn chế đáng kể quyền tự do hành động của Hoa kỳ trên trường quốc tế. Xét cho cùng, các nhà đầu tư Trung Quốc và Đông Á hiện nay cũng đã đủ khả năng chế ngự, và ngay cả vô hiệu hóa, ảnh hưởng của Hoa Kỳ.

Dù muốn dù không, khủng hoảng tài chánh kinh tế không sớm thì muộn cũng dễ đưa đến khủng hoảng an ninh quốc gia. Trong những năm sắp đến, Tổng Thống mới Barack Obama rồi cũng phải giải quyết vấn đề mất quân bình ngày một quan trọng giữa vai trò bá chủ mang tính lịch sử của Hoa Kỳ trên thế giới và tiềm lực kinh tế tài chánh ngày một suy giảm của chính Hoa Kỳ. Nói một cách khác, Hoa Kỳ sẽ phải làm nhiều hơn với ít tài nguyên, phương tiện hơn, dù chỉ để duy trì thế lực chiến lược hiện nay. Và trạng huống mới sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn định địa chính trị, đến những cuộc chiến toàn cầu lớn nhỏ, đến những vấn đề toàn cầu từ thay đổi khí hậu đến nhân quyền ..., là một điều còn phải chờ xem.

Cuộc Chiến Chống Khủng Bố Toàn Cầu

Tổng Thống Bush cũng đang để lại cho người kế nhiệm một cuộc chiến đã kéo dài hơn bảy năm và hiện đã hoàn toàn mất phương hướng. Đó là cuộc chiến chọn lựa và chỉ có lợi cho các nhà thầu quốc phòng, các tổ chức vận động hành lang, các viện nghiên cứu chiến lược, các tướng lãnh và sĩ quan đầy tham vọng...

Đó chỉ là một tập hợp hư cấu, một trò chơi thiếu tính hệ thống, che đậy những hoạt động nghịch lý, phản tác dụng, hay ít nhất cũng chẳng có chủ đích đứng đắn. Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố đối với các hoạt động khủng bố chẳng khác gì cuộc chiến chống nha phiến đối với tệ nạn lạm dụng và nghiện ngập hút sách. Tuyên bố một cuộc chiến thường trực chỉ có thể kéo dài một bi kịch, giả vờ đối phó với một vấn đề nghiêm trọng, trong khi các người làm chính sách chẳng quan tâm gì đến nguồn cội của vấn đề. Cuộc chiến chống ma túy là một sự lường gạt tốn kém. Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố cũng thuộc loại nầy.

Nhiều nhà quan sát đi tìm một ý niệm duy lý và mạch lạc có thể giải thích hành động của Hoa Kỳ ở Trung Đông và những vùng phụ cận, đều phải thất vọng. Trong đệ nhị thế chiến, T T Franklin Roosevelt liệt kê trước hết là "Đức" và kế đến là "đầu hàng vô điều kiện" như những nguyên tắc chính. Trong thời gian đầu của chiến tranh lạnh, chính quyền Truman đã đưa ra ý niệm ngăn bờ (containment) làm khung nguyên tắc hướng dẫn các nhà làm chính sách trong nhiều thập kỷ sau đó. Sau hơn bảy năm chiến tranh toàn cầu chống khủng bố, chính quyền Bush vẫn lẫn quẩn trong sa mạc không có lấy một địa bàn để tìm hướng đi. Nếu có một ý niệm chiến lược mơ hồ hiện hữu vào một thời điểm nào đó, như viễn kiến lố lăng của Phái Tân Bảo Thủ dùng sức mạnh của Hoa Kỳ để thay đổi thế giới Hồi giáo, những giả thuyết căn bản cho chiến lược nầy từ lâu cũng đã bị hủy hoại bởi các biến chuyển trong mấy năm qua.

Ở Trung Đông và Nam Á, Hoa Kỳ hiện đang theo đuổi không phải một mà nhiều cuộc chiến.

Cuộc chiến quan trọng nhất và cũng là di sản của Bush là cuộc chiến Iraq. Chính Bush luôn coi Iraq là mặt trận chính của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Chuẩn bị bàn giao cho người kế nhiệm, Bush và một số ít tay chân thân cận còn lại, rêu rao đợt tăng quân năm 2007 cuối cùng đã đem lại viễn ảnh chiến thắng, khả dĩ chuộc lại những lỗi lầm trong cách điều hành cuộc chiến ngay từ đầu. Nếu TT Bush rời Bạch Ốc và có thể xác quyết cuối cùng ánh sáng cũng đã le lói ở cuối đường hầm Mesopotamian dài và đen tối, ông ta có thể nghĩ: ít ra chiến lược ông đang theo đuổi phần nào đã được biện minh. Trong trường hợp sau ngày 20-01-2009 sự việc không diễn ra như ý muốn, Bush vẫn có thể đổ lỗi cho người kế nhiệm.

Kế đến là cuộc chiến Afghanistan, một cuộc chiến hiện đã bước vào năm thứ tám vẫn chưa có dấu hiệu dứt điểm. Bị sa lầy ở Iraq, các viên chức Hoa Kỳ không còn tâm trí dành cho Afghanistan mãi cho đến khi tình hình trở nên tồi tệ cả về chính trị lẫn quân sự. Al Qaeda vẫn kiên trì. Taliban ngày một táo bạo. Hy vọng vào sự trợ lực của NATO đã tỏ ra hảo huyền. Ngoài thành tích biến Afghanistan thành xứ sản xuất nha phiện số một của thế giới, những cố gắng bình định và canh tân Afghanistan của người Mỹ chẳng đi tới đâu.

Trừ phi điều chỉnh lại mục tiêu theo đuổi, cuộc chiến chắc sẽ còn tốn kém về nhân lực và tài lực trong một thời gian rất lâu dài.

Trong khi đó, còn có cuộc chiến được che dấu, đang diễn ra trước mắt mọi người, ở Pakistan. Tin tức về các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ từ không kích, nhất là bởi loại phi cơ không người lái có trang bị hỏa tiển, xẩy ra hàng ngày, đến các cuộc hành quân trên bộ, ít ra cũng một lần từ lãnh thổ Afghanistan vượt biên giới vào Pakistan. Mặc dù Tòa Bạch Ốc không hề gọi tên, cuộc chiến hao mòn Pakistan ngày một leo thang, gây thương vong cho một số khủng bố và nhiều dân lành. Điều tai hại là số khủng bố tử vong quá ít ỏi không đủ ảnh hưởng đến lực lượng Taliban, nhưng số thường dân thương vong lại khá nhiều đủ để giúp Taliban dễ dàng tuyển mộ tân binh thánh chiến.

Cuối cùng, tưởng phải nói đến cuộc chiến của Condoleezza Rice. Đây là cuộc chiến không có quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham dự, nhưng vẫn là cuộc chiến quan trọng hơn cả: cuộc xung đột đang tiếp diễn giữa Israel và Palestine. Sau nhiều năm gạt bỏ lập trường của thế giới Hồi giáo về số phận bi đát của người dân Palestine như một vấn đề tối hệ trọng, giờ đây, Ngoại Trưởng Rice thay đổi lập trường. Với sự nhiệt tình của một tân tòng, Condoleezza Rice quyết chí môi giới một thỏa ước chấm dứt cuộc xung đột trước ngày rời nhiệm sở vào tháng 1-2009.

Trong nhiều năm qua, Condoleezza Rice chẳng đưa ra được một sáng kiến đáng giá nào. Viễn ảnh thành công trong vai trò môi giới hòa bình của Rice không mấy sáng sủa. Cũng như di sản của Tổng Thống Bush gắn liền với Iraq, di sản của Ngoại Trưởng Condoleezza Rice phần lớn lệ thuộc vào cố gắng đem lại hòa bình cho Palestine. Nếu thất bại, lịch sử sẽ đánh giá bà như một bộ trưởng ngoại giao ít hiệu quả nhất từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và Condoleezza Rice sẽ kết thúc nhiệm kỳ không để lại một thành tích đáng kể nào.

Không có gì bất thường hoặc sai trái khi đồng thời phải chiến đấu trên nhiều mặt trận khác nhau, chừng nào những sự tác chiến trên tất cả các mặt trận bổ túc cho nhau để đạt chiến thắng cuối cùng. Chẳng may, đây không phải trường hợp cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố - một cuộc chiến hoàn toàn thiếu vắng mục tiêu chiến lược. Nói một cách khác, đó là một tai họa. Trong hơn bảy năm qua, Hoa kỳ đã phung phí một số tài nguyên kếch sù mà chẳng thu lượm được gì quý giá.

Cuộc chiến ngắn ngủi của Liên Bang Nga ở Georgia gần đây là một bằng chứng sinh động: lực lượng quân sự của siêu cường Hoa Kỳ đã dàn trải quá mỏng và đã đánh mất khả năng phản ứng đối với những biến động bất ngờ ở một nơi nào khác trên thế giới, ngay cả trước khi có cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế hiện nay. Ngoài những lời tố cáo vô bổ của Phó Tổng Thống Cheney, người Mỹ đã chẳng có, hay không thể có, một phản ứng ít nhiều hiệu quả đối với người Nga ở Georgia. Thực vậy, Tòa Bạch Ốc lúc đó đã nhận chân được vị thế suy nhược của mình, tương tự như các đồng minh Âu châu trước đây, chỉ có thể tự giới hạn trong những lời phản kháng phiền trách.

Tệ hơn nữa, chính quyền Bush rất có thể đã đồng tình với Georgia trong lỗi lầm chiến lược đưa đến khủng hoảng. Theo một số nhà phân tích quân sự, trước ngày xẩy ra biến động, Hoa Kỳ đã có sẵn 130 quan sát viên quân sự ở Georgia. Họ biết rõ các động thái điều động quân đội của Georgia, cũng như qua vệ tinh, có thể theo dõi quá trình Nga điều quân đến North Ossetia. Tuy vậy, Hoa Kỳ đã không can ngăn được đồng minh của họ tấn công vùng ly khai tự trị South Ossetia và thủ phủ Tskhinvali. Trong thực tế, rất có thể chính việc người Mỹ giúp huấn luyện và hổ trợ quân đội Georgia - để đổi lấy việc Georgia gửi quân tham gia liên minh tự nguyện ở Iraq - đã góp phần đem lại tin tưởng cho Saakashvili trong hành động xâm lăng phiêu lưu của mình.. Trong trường hợp nầy, chính quyền Bush đã thành công trong việc khuyến khích một đồng minh quan trọng bôi tro trát trấu vào mặt của chính mình.

Tình cảnh của người Mỹ ở Trung Đông cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Dù cho đợt tăng quân năm 2007 đã được xem như khá thành công trên sân khấu chính trị đảng phái quốc nội, sự thành công bền lâu, nếu có, cũng đã không giải quyết được sự bất ổn thù nghịch căn bản giữa các giáo phái Iraq, và cũng chẳng thay đổi được gì tình trạng mất quân bình ngày một trầm trọng trong khu vực, trong khi ảnh hưởng của Iran ngày một lớn lao hơn.

Khu vực đồi núi Pashtun dọc biên giới phía Đông Afghanistan và phía Tây Pakistan, ngược lại, đang trong tình trạng công khai nổi dậy chống lại tham vọng của Mỹ ở trong khu vực, trong khi chính quyền thân Bush ở Pakistan đã sụp đổ.

Người ta cũng đang viết điếu văn cho chế độ Karzai ở Afghanistan, một chế độ thực ra đã yểu tử ngay từ khi mới được khai sinh cách đây hơn 6 năm.

Sự suy giảm ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ cũng đã lôi kéo theo sự hao mòn trong "quyền lực mềm" của Hiệp Chủng Quốc. Chẳng hạn, trong tháng 9-2008, tại Liên Hiệp Quốc, chính quyền Bush đã phải đối mặt với làn sóng phiền trách về những lỗi lầm của Mỹ trong vai trò lèo lái kinh tế toàn cầu. Sự thất bại rõ ràng, trong một địa hạt người Mỹ thường rất tự hào, đã bào mòn khả năng thuyết phục và xây đắp đồng minh trong những vùng khác, như chống lại nạn tàn sát ở Dafur, tiểu trừ nạn cướp bể ở Vịnh Aden, hay chế ngự những toan tính của Liên Bang Nga trong những xứ sân sau mà họ thường gọi là những xứ "near abroad".

Uy tín đạo đức và vai trò lãnh đạo về nhân quyền của Hoa Kỳ cũng đã tiêu tan cùng với chính sách tra tấn, bí mật giam giữ và chuyên chở tù binh, với Guantanamo và nhiều nhà tù bí mật trên khắp thế giới...

Trong bối cảnh đó, Tổng Thống mới Barack Obama sẽ phải tìm cách lý giải nhiều câu hỏi gay cấn liên quan đến phương cách phục hồi uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên thế giới.

Thử Thách Trong Đia Hạt Năng Lượng

Trong những thử thách đang chờ đợi Tổng Thống đắc cử Barack Obama vào tháng 1-2009, không gì quan trọng đối với tương lai Hoa Kỳ hơn là nguồn năng lượng. Xét cho cùng, chính sách năng lượng - hoàn toàn sai lầm trong suốt triều đại Bush-Cheney - đang hiện diện trong mọi thử thách chờ đợi Tân Tổng thống, kể cả kinh tế, môi trường, đối ngoại, và các cuộc chiến ở Trung Đông. Thực vậy, đây là một thử thách vô cùng lớn lao, bởi lẽ Hoa Kỳ đang đối diện một cuộc khủng hoảng năng lượng ngày một nghiêm trọng hơn.

Với 5% dân số thế giới, nước Mỹ tiêu thụ 25% hay 1/4 tổng số cung năng lượng toàn cầu. 40% con số nầy đến từ dầu hỏa: 20 triệu thùng hay 840 triệu gallons mỗi ngày. 23% đến từ than đá, và một bách phân tương đương từ hơi đốt thiên nhiên.

Cung cấp đủ số năng lượng đó, ngay cả khi kinh tế đang suy thoái, là một nhiệm vụ nặng nề, và sẽ còn nặng nề hơn nhiều trong những năm tháng sắp tới. Đó là chưa nói đến trách nhiệm giải quyết hậu quả khí thải nhà kính, gây ô nhiểm môi trường..., do quá trình tiêu thụ số năng lượng vừa nói.

Theo giáo sư Michael T. Klare, tác giả cuốn Rising Powers, Shrinking Planet: The New Geopolitics of Energy, sau ngày nhận chức, Tổng Thống Obama sẽ phải tìm cách giải quyết ba loại vấn đề then chốt trong địa hạt năng lượng liệt kê sau:

1. Hoa Kỳ đang lệ thuộc quá nhiều vào dầu hỏa để thỏa mãn nhu cầu năng lượng trong khi số cung dầu hỏa trong tương lai sẽ giảm sút và bấp bênh hơn.

2. Nguồn cung cấp nhiên liệu khá dồi dào của Mỹ là than đá, trong phương cách sử dụng hiện nay, luôn gây ra lượng khí thải nhà kính cao nhất (gấp đôi hơi đốt thiên nhiên, gấp rưởi dầu hỏa, để sản xuất cùng một số năng lượng).

3. Hiện nay không một nguồn năng lượng nào, kể cả hơi đốt thiên nhiên, năng lượng nguyên tử, nhiên liệu sinh học, năng lượng tái tạo như gió và năng lượng mặt trời, có thể hoàn toàn thay thế dầu hỏa và than, ngay cả khi có quyết định giảm bớt phân lượng của cả hai trong số năng lượng tổng hợp tiêu thụ ở Mỹ.

Trong hiện tình kinh tế suy thoái, giá dầu hỏa đã sụt giảm nhanh chóng, hơn 65% (xuống còn khoảng trên dưới 50 USD từ đỉnh điểm 147 USD/mỗi thùng trong năm 2007). Một lần nữa, những phương án đầu tư vào những nguồn năng lượng thay thế và tái tạo hình như không còn có lợi và không cần thiết, ngoại trừ lý do làm biến đổi khí hậu toàn cầu.

Tuy nhiên, phúc trình hàng năm sắp được phổ biến của Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (International Energy Agency) lại cảnh cáo, giá dầu trong những năm sắp tới một lần nữa sẽ vượt mức 100 USD/một thùng, và sau năm 2030 hay sớm hơn, có thể lên tới 200 USD. Lý do là số cung dầu hỏa luôn hữu hạn và số cầu ngày một gia tăng, nhất là với sự trổi dậy của những đại cường tân kỹ nghệ hóa như Ấn Độ, Ba Tây, Trung Quốc.

Sự cạnh tranh tiếp cận các nguồn cung cấp năng lượng sẽ ngày một gay gắt hơn, có thể dẫn đến những cuộc chiến triền miên, vì năng lượng, nhất là phần lớn trữ lượng dầu hiện còn, đều tọa lạc trong những vùng bất ổn, đầy biến động. Giá dầu không sớm thì muộn sẽ gia tăng.

Nếu không chuẩn bị trước, nền kinh tế toàn cầu sẽ không tránh khỏi những xáo trộn mang tính địa chấn.

Đã hẳn, không thể nói thời điểm nào mới đúng lúc để đầu tư các tài nguyên khoa học, kỷ thuật, tài chánh vào một tương lai năng lượng thay thế an toàn, cần thiết cho nhân loại. Vì vậy, thiết tưởng đây là thử thách hàng đầu đối với chính quyền mới - một chính quyền có-thể-làm (a can-do administration) - theo lời của chính T T Obama.

Theo phần lớn các chuyên viên năng lượng, nhân loại đã sử dụng khoảng 50% tổng trữ lượng dầu hỏa nguyên thủy của địa cầu, và đang đến gần mức sản xuất tối đa. Không ai biết chắc mức sản xuất tối đa sẽ đến trong vòng 5, 10, 15 năm hay ít lâu sau đó, nhưng chắc không quá xa. Và mức đó cũng chỉ ở khoảng từ 90 đến 95 triệu thùng mỗi ngày thay vì 115-125 triệu thùng như Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ đã dự phóng.

Nhịp sụt giảm trong số sản xuất sau đó sẽ ngày một tăng tốc. Lý do là các mỏ dầu lớn, hiện đang sản xuất, đã đi vào khai thác cách đây từ 30 đến 60 năm, và nay đã gần cạn trữ lượng. Trước đây, người ta tin tỉ suất sụt giảm chỉ ở khoảng từ 4 đến 5% mỗi năm, nhưng theo kết quả khảo cứu công bố ngày 12-11-2008 của Cơ Quan Năng Lượng Quốc tế (IEA), thuộc Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD - câu lạc bộ các nước kỹ nghệ giàu có), tỉ suất nầy sẽ vào khoảng 9%, một con số cao đáng ngạc nhiên. Với tỉ suất sụt giảm cao hơn, số trữ lượng của các mỏ dầu lớn đang sản xuất trên thế giới sẽ cạn kiệt nhanh chóng, và thế giới sẽ lệ thuộc những mỏ dầu nhỏ, ít trữ lượng, khó khai thác, hoặc tọa lạc trong những vùng bất ổn, cũng như những mỏ dầu mới có thể khai thác trong tương lai.

Mặc dù số tiền đầu tư vào việc tìm kiếm, thăm dò, gia tăng, các công ty dầu hiện nay đã không tìm được những mỏ dầu có kích cỡ lớn như các giếng dầu đã được khám phá trong những thập kỷ trước. Trong khoảng từ 1970 đến 1990, thế giới chỉ khám phá được hai khu dầu lớn, và một từ 1991 cho đến nay: khu dầu Kashagan ở Kazakstan trong vùng Biển Caspian. Trong thực tế, các công ty cũng đã khám phá được vài khu dầu khá lớn ở vùng biển sâu trong Vịnh Mexico và ngoài khơi bờ biển Angola và Brazil, nhưng cũng kém xa các khu dầu hiện đang sản xuất, và khó khai thác hơn nhiều. Trong mọi trường hợp, những khu dầu mới được khám phá cũng không thể giúp đảo ngược tỉ suất sụt giảm sắp tới trong số sản xuất toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, số cung dầu hỏa toàn cầu ắt sẽ bắt đầu sụt giảm trong một tương lai không xa, và sau khi số cung đã đạt mức đỉnh điểm, tỉ suất sụt giảm sẽ ở một mức cao hơn nhiều. Nạn suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay và sự sụt giảm bất thần trong giá dầu khí có thể tạm thời che mờ hiện tượng nầy, nhưng sẽ không làm thay đổi số cung một cách đáng kể.

Như đã nói trên đây, trong khi số cung dầu lửa trong tương lai sẽ sụt giảm, số cầu ngược lại sẽ gia tăng, do số tiêu thụ gia tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tây và các quốc gia đang phát triển.

Cho đến năm 1990, các quốc gia đang phát triển ở Á châu chỉ tiêu thụ khoảng 10% số dầu sản xuất trên toàn cầu. Tuy nhiên, với nhịp phát triển kinh tế nhanh trong gần hai thập kỷ vừa qua, tỉ suất nầy đã tăng lên đến 18%. Nếu số tiêu thụ tiếp tục gia tăng theo nhịp độ nầy, số dầu các xứ Á châu tiêu thụ sẽ lên đến 27% vào năm 2030, lần đầu tiên vượt mức tiêu thụ thuần của Bắc Mỹ. Điều nầy có nghĩa, nếu không có gì thay đổi trong thói quen tiêu thụ năng lượng hiện nay, Hoa Kỳ sẽ phải cạnh tranh, giành giựt với Trung Quốc và Ấn Độ từng thùng dầu khả dụng trong số cung trên thị trường thế giới, và giá dầu sẽ tăng vọt, phương hại cho nền kinh tế quá lệ thuộc vào dầu khí của Hoa Kỳ.

Tệ hại hơn nữa, số cung dầu hỏa trên thế giới sẽ ngày một tập trung nhiều hơn vào vùng Trung Đông, Trung Á, và sub-Sahara ở Phi châu, những vùng vì nhiều lý do lịch sử, hậu quả của chính sách thuộc địa trước đây, luôn bất ổn và đầy biến động. Ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn cung cấp dầu hỏa từ những vùng nầy, Hoa Kỳ đã luôn dựa vào lực lượng quân sự để bảo đảm an ninh cho nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho nền kinh tế, mặc dù không mấy hữu hiệu. Thực vậy, vùng Vịnh Ba Tư ngày nay cũng chẳng mấy ổn định hay hòa bình so với khi chủ thuyết Carter mới ra đời vào đầu thập kỷ 1980s.

Khi nói đến số cung năng lượng toàn cầu, người ta thường nghĩ đến một thiểu số quốc gia, có lẽ chỉ khoảng 12 xứ giàu tài nguyên năng lượng như dầu hỏa, hơi đốt, than đá, và uranium, không những đủ đáp ứng nhu cầu quốc nội mà còn một số thặng dư đáng kể để xuất khẩu. Các xứ nầy, do đó, không những đã xây dựng được một nền tài chánh phong phú, mà còn giành được một vị thế chính trị thuận lợi trong sinh hoạt địa chính trị toàn cầu.

Trong địa hạt dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên, các xứ thặng dư năng lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay. Mười quốc gia giàu dầu hỏa sở hữu đến 82,2% trữ lượng khả dĩ khai thác trên toàn thế giới. Theo thứ tự tiệm giảm, đó là: Saudi Arabia, Iran, Iraq, Kuwait, United Arab Emirates, Venezuela, Russia, Libya, Kazakstan, và Nigeria. Số quốc gia giàu hơi đốt thiên nhiên còn ít hơn nhiều. Ba xứ Russia, Iran, và Qatar nắm khoảng 55,8% số cung toàn thế giới. Các quốc gia nầy giữ một địa vị ưu thế, có thể lợi dụng sự tăng giá năng lượng toàn cầu, và trong nhiều trạng huống, đã có lợi thế mặc cả và giành được nhiều nhượng bộ chính trị quan trọng.

Trong thế giới hiện nay, năng lượng chi phối đời sống hàng ngày của nhân loại, từ di chuyển, sưởi ấm, điều hòa nhiệt độ, du lịch, thức ăn, thậm chí đến cả chiến tranh và hòa bình. Vì vậy, thử thách lớn lao và cấp thiết đang chờ Tổng Thống và Quốc Hội sắp tới là tìm cách tốt nhất để tăng tốc quá trình chuyển đổi hệ thống năng lượng dựa trên dầu lửa, than đá hoặc hơi đốt thiên nhiên (a fossil-fuel-based energy system) qua hệ thống các năng lượng thay thế tái tạo và không thể tái tạo không tác hại đến môi trường.

Thay Lời kết luận

Nếu những lượng định trên đây là chính xác, Tổng Thống Obama sẽ phải đương đầu với nhiều thử thách cam go trong những tháng năm sắp tới. Nhận trách nhiệm vào một thời điểm đầy thử thách, Obama sẽ bị tràn ngập bởi nhiều cuộc khủng hoảng đang cùng lúc diễn tiến phức tạp, đòi hỏi nhiều tài nguyên: nhân, tài, vật lực. Cấp bách hơn hết là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu; kế đến là cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, và khủng hoảng năng lượng.

Cố nhiên, ưu tiên số một phải là tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh. Đây cũng là đề tài đang được tranh luận sôi nổi hiện nay. Rất nhiều ý kiến đã được đưa ra trên báo chí và diễn đàn công luận. Điều quan trọng là không còn ai

tin tưởng cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do. Ngược lại, mọi người đềù đặt hy vọng ở Tổng Thống và Quốc Hội mới, và chỉ còn tranh luận về trình độ quyết liệt của chính quyền trong hành động nhằm đảo ngược tình hình kinh tế tài chánh.

Một số đông kinh tế gia đã lên tiếng kêu gọi bành trướng chính sách thuế vụ-công trái (chấp nhận khuy khiếm ngân sách và gia tăng công trái) nhằm ngăn ngừa một sự sụp đổ kinh tế nhanh chóng. Một số khác lại âu lo gánh nặng khiếm hụt ngân sách đối với các thế hệ tương lai.

Trong hiện tình kinh tế tài chánh, tác dụng bù-trừ (trade-off) giữa hiệu quả đoản kỳ và trường kỳ không đáng lo ngại như nhóm bảo thủ nhấn mạnh. Ngược lại, một chính sách bành trướng thuế vụ-công trái, trong thực tế, có nhiều cơ may cải thiện kinh tế trong tương lai.

Luận cứ của nhóm bảo thủ cho rằng khiếm hụt ngân sách sẽ đưa đến suy yếu kinh tế trong trường kỳ, vì lẽ Nhà Nước vay mượn nhiều sẽ làm cạn nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân (crowd out private investment). Khi chính quyền phát hành nhiều công trái, lãi suất sẽ gia tăng, làm nản lòng khu vực tư nhân muốn đầu tư vào máy móc trang bị, do đó, giảm bớt tỉ suất phát triển trong trường kỳ. Trong trạng huống bình thường, lập luận nầy không phải không có giá trị.

Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh chẳng bình thường chút nào. Giả thiết chính quyền mới, thuận theo lập luận của nhóm bảo thủ, giảm thiểu chương trình bành trướng thuế vụ-công trái , liệu chính sách nầy trong năm tới có đưa đến một sự sụt giảm lãi suất ngắn hạn như họ chờ đợi ? Chắc hẳn là không. Cho đến nay, Cục Dự trữ Liên Bang đã giảm lãi suất xuống mức tối thiểu gần số không, và chắc chắn sẽ không thay đổi chính sách trừ phi có triệu chứng kinh tế trở nên quá nóng, một điều rất khó xẩy ra trong tương lai gần.

Riêng lãi suất dài hạn, hiện đang ở mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ qua, cũng chỉ phản ảnh lãi suất ngắn hạn trong tương lai. Một chính sách khắc khổ có thể đẩy lãi suất ngắn hạn xuống thấp hơn - nhưng chỉ bằng cách tạo ra sự chờ đợi kinh tế tiếp tục suy thoái lâu dài và sâu đậm, một sự chờ đợi có thể làm suy giảm thay vì gia tăng đầu tư tư nhân.

Luận cứ chính sách thuế vụ-công trái khắc khổ khi kinh tế suy thoái trong thực tế chỉ làm giảm sút đầu tư tư nhân, không phải chỉ là một luận cứ mang tính lý thuyết. Điều nầy đã thực sự xẩy ra hai lần trong lịch sử thế giới gần đây.

Lần đầu vào năm 1937 khi Tổng Thống Franklin Roosevelt lỡ nghe theo lời khuyến cáo của các cố vấn quá âu lo về khiếm hụt ngân sách thời đó. Roosevelt đã giảm bớt công chi, nhất là cắt giảm 50% ngân sách Cơ Quan Works Progress Administration, và tăng thuế. Kết quả là kinh tế suy thoái trầm trọng, và đầu tư tư nhân sụp đổ.

Lần thứ hai đã xẩy ra 60 năm sau đó ở Nhật. Vào thời điểm 1996-97, chính phủ Nhật tìm cách quân bình ngân sách , cắt giảm công chi, và tăng thuế. Lập tức kinh tế suy thoái, lôi kéo theo suy sụp trầm trọng trong số đầu tư tư nhân.

Điều khiến chính sách thuế vụ khắc khổ thất bại ở Hoa Kỳ vào cuối thập kỷ 1930s và ở Nhật vào cuối thập kỷ 1990s là những trạng huống đặc biệt. Trong cả hai trường hợp, chính quyền đã chùn bước trước sự thắt chặt thanh khoản, một tình trạng trong đó nhà cầm quyền tiền tệ đã quyết định cắt lãi suất tối đa, tuy vậy, nền kinh tế vẫn không phục hồi.

Ngày nay, chúng ta cũng trong cùng cảnh ngộ và đang đối đầu với hiện tượng thiếu vắng chi tiêu trong khu vực tư. Giới tiêu thụ tái phát hiện lợi ích của hạn chế chi tiêu và tiết kiệm; giới kinh doanh, sau khi bị phỏng lửa vì quá tham lam liều lĩnh và bị trói tay bởi thảm họa trong hệ thống tài chánh, đã phải cắt giảm đầu tư. Đã hẳn, nạn thiếu hụt thanh khoản và tín dụng không sớm thì muộn sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, các chi tiêu công của chính quyền phải điền vào chỗ thiếu vắng. Nếu không, đầu tư tư nhân và nền kinh tế nói chung sẽ suy sụp hơn nữa. Vì vậy, sự âu lo khuy khiếm ngân sách trong lúc nầy là việc làm không đúng lúc.

Hơn nữa, chính sách bành trướng thanh khoản và tín dụng trong thời điểm nầy sẽ đem lại một tương lai kinh tế tài chánh tốt đẹp hơn cho Hoa Kỳ, nếu phần lớn được dùng để tài trợ những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở, đường sá, cầu cống, phát triển các công nghệ và kỷ thuật mới, và nhất là các nguồn năng lượng thay thế có thể và không thể tái tạo. Đây là một đề án với một tầm cỡ tương đương với Manhattan hay Apollo Moon Projects, nhưng mang tính thực tiển, xây dựng và hòa bình.

Trên đây là những mục tiêu được nhiều giới chuyên môn, chính khách, trí thức - ở Hoa Kỳ cũng như ở những nước ngoài - chia sẻ. Chỉ khi theo đuổi một nghị trình thể hiện những mục tiêu vừa kể, T T Obama mới có thể hy vọng vượt qua các khủng hoảng hiện đang đối diện siêu cường Hoa Kỳ. Ngoài ra, hướng hành động tốt nhất đối với giới lao động hiện nay cũng như con em của họ mai sau là phải làm tất cả những gì cần thiết để vực kinh tế trở lại con đường phục hồi càng sớm càng tốt.

© GS Nguyễn Trường

Irvine, CA, USA

05-12-2008

 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr- Nguyễn Trường