Những bài cùng tác giả
Trong
cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Sự Tìm Kiếm Vai Trò
Khống Chế Toàn Cầu của Hoa Kỳ[1],
Noam Chomsky, giáo sư ngữ học và triết lý Viện
Đại Học Kỹ Thuật Massachusset (MIT), đã viết:"Lịch
sử đầy dẫy những trường hợp các nhà lãnh đạo luôn
sẵn sàng đe dọa hoặc dùng bạo lực khi đối diện với
bất trắc đại họa. Nhưng ngày nay, cái giá phải trả
thật quá cao. Sự lựa chọn giữa bá quyền và thượng
tồn hiếm khi hay chưa hề được đặt ra rõ ràng như
thế"[2].
Theo
những tài liệu do Văn Khố An Ninh Quốc Gia
Hoa Kỳ(National Security Archive) giải mật,
liên quan đến Kế Hoạch Hành Động Hội Nhập Thống
Nhất (Single Integrated Operational Plan-SIOP),
ngày nay chúng ta được biết, cách đây hơn 40 năm, bộ
tư lệnh quân sự tối cao Hoa Kỳ đã soạn thảo và đã
được cấp lãnh đạo dân sự chấp thuận kế hoạch tấn
công chặn đầu (first strike), nhằm phóng trên
3.200 đầu đạn nguyên tử đến 1.060 mục tiêu trong các
xứ thuộc khối cộng sản. Theo con số chính thức, nếu
được thực hiện, ít ra 130 thành phố có thể đã bị
tiêu hủy, 285 triệu tử vong, 40 triệu người bị
thương - và vài chuyên gia quân sự còn lo ngại những
hậu quả thương vong lớn lao do phóng xạ ngay trên
đất Mỹ. Trong một thế giới đầy những bí ẩn đế quốc,
một cuộc tấn công như vậy có nghĩa: không phải vì
lẽ sống còn mà vì tham vọng bá chủ. Trong
thực tế, cho đến nay chúng ta luôn chung sống với
một SIOP như vậy. Sức tàn phá của SIOP
hiện nay kinh hoàng như thế nào vẫn còn là một bí
mật tuyệt đối.
I.
CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA HOA KỲ:
Trong
cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Chomsky trở
lại đề tài thống trị và số phận con người,
điểm lại những phương cách theo đó chính quyền Bush
đã nâng vũ lực lên hàng nguyên tắc bên trên mọi thứ,
do đó, đã khiến khủng bố lan tràn, bạo lực gia tăng,
và gây nguy cơ cho sự trường tồn của nhân loại.
 
Colin Powell
Condoleezza Rice
Như Colin Powell đã giải thích Chiến Lược An Ninh
Quốc Gia (National Security Strategy - NSS) của
Hoa Kỳ trước một cử tọa đối nghịch tại Diễn Đàn
Kinh Tế Thế Giới (World Economic Forum), Hoa
Thịnh Đốn
"có toàn quyền sử dụng vũ lực để tự vệ"[3]đối
với các quốc gia sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt
(WMD) và hợp tác với khủng bố - những lý do chính
thức để xâm lăng Iraq. Cho đến nay, như mọi người
đều biết, các lý do đưa ra là hoàn toàn ngụy tạo.
Tuy nhiên, rất ít ai lưu tâm đến hậu quả quan trọng
nhất của nó: NSS đã được sửa đổi để hạ thấp tiêu
chí tấn công gây chiến. Bằng cớ liên hệ với khủng bố
không còn cần thiết nữa.
Bush và
phe nhóm còn tuyên bố quyền sử dụng vũ lực đối với
một xứ dù không sở hữu WMD hay ngay cả không có
chương trình khai triển loại vũ khí nầy. Chỉ cần xứ
đó có "ý định và khả năng"(intent and ability)
chế tạo là đủ. Đã hẳn, gần như bất cứ xứ nào
cũng có khả năng nầy, và "ý định" thì ai muốn
nói sao cũng được (in the eyes of the beholder).
Tóm lại, theo NSS được sửa đổi, bất cứ xứ nào cũng
có thể bị Hoa Kỳ tấn công. Colin Powell còn đi xa
hơn trong việc tái thẩm định. Powell nói: "T T Bush
đã đúng khi tấn công Iraq vì Saddam chẳng những có "ý định và khả năng", mà trong thực tế, đã sử
dụng những vũ khí ghê tởm đó trong cuộc chiến
Iran-Iraq và ngay cả với thần dân của chính ông", dĩ
nhiên Powell đã cố tình không nhắc đến - "với sự
đồng tình và liên tục hỗ trợ của chính Powell và các
cộng sự". Condoleezza Rice cũng cùng chung lập
luận.
Trong
khi lúng túng tìm cách biện minh, lý do xâm chiếm rõ
ràng nhất mà chính quyền Bush luôn tìm cách che giấu:
thiết lập những căn cứ quân sự an toàn trong một
xứ chư hầu ngay trung tâm tài nguyên dầu khí lớn
hàng đầu thế giới - loại tài nguyên đã được xem như
nguồn quyền lực chiến lược lớn lao ngay từ Đệ Nhị
Thế chiến, và ngày một quan trọng hơn trong tương
lai.
Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên khi tin tức tiết lộ ra bên
ngoài cho biết chính quyền Bush đã có chương trình
tấn công Iraq trước cả biến cố 11-9, và đã xếp cuộc
chiến chống khủng bố xuống hàng thứ yếu. Trong các
cuộc thảo luận nội bộ, sự lẫn tránh không còn cần
thiết. Ngay trước ngày dọn vào Tòa Bạch Ốc, Bush đã
đồng ý: "nhu cầu một sự hiện diện quân sự hùng hậu ở
Vùng Vịnh được dành ưu tiên cao hơn là vấn đề chế độ
Saddam Hussein"[4].
Với những đổi thay trong chính sách từ ngày nhóm
quan chức lãnh đạo hiện nay lần đầu tiên tham gia
chính quyền vào năm 1981, một nguyên tắc hướng đạo
luôn được giữ nguyên - dân Iraq không được quyền
làm chủ Iraq
Chiến
Lược An Ninh Quốc Gia (NSS) 2002, và việc áp dụng
chiến lược nầy vào Iraq được nhiều quan chức xem như
một bước ngoặc trong quan hệ quốc tế. "Chiến lược
mới mang tính cách mạng"(The new approach is
revolutionary), Henry Kissinger viết, chấp
thuận chủ thuyết mới với một vài dè dặt chiến thuật
và một điều kiện căn bản: đây không thể là "một
nguyên tắc phổ quát áp dụng cho mọi quốc gia"(...a
universal principle available to every nation).
Quyền xâm lăng chỉ dành riêng cho Hoa Kỳ và có lẽ
một vài "đồng minh" do Hoa Kỳ lựa chọn. Hoa
Kỳ phải loại bỏ yếu tố sơ đẳng nhất của chân lý đạo
đức căn bản (moral truisms): nguyên tắc phổ quát
- một lập trường thường được che giấu dưới những
thuật ngữ "dụng ý tốt"(virtuous intent) và
"vỏ pháp lý méo mó"(tortured legalisms).
Arthur
Schlesinger cũng đồng ý là chiến lược mới và cách
thể hiện chiến lược nầy mang tính cách mạng, nhưng
từ một góc độ hoàn toàn khác. Khi những quả bom đầu
tiên rơi xuống Baghdad, Schlesinger nhớ lại lời nói
của
T T F.D.Roosevelt
sau khi Trân Châu Cảng bị
người Nhật tấn công: "một ngày sẽ sống mãi trong
ô nhục"(a day which will live in infamy). Ngày
nay, chính người Mỹ là người đang sống trong ô nhục
, vì như Schlesinger viết, chính phủ Hoa Kỳ đang làm
theo chính sách của đế quốc Nhật. Ông nói thêm,
George Bush đã cải biến một làn sóng thông cảm
toàn cầu ( a global wave of sympathy) dành cho
Hoa Kỳ thành một làn sóng uất hận toàn cầu đối
với thái độ kiêu căng và chính sách dựa trên vũ lực
của Mỹ (a global wave of hatred of American
arrogance and militarism) Năm năm sau, sự căm
hờn người Mỹ và các chính sách của Mỹ đã ngày một
gia tăng thay vì giảm bớt. Ngay ở Anh quốc, sự ủng
hộ cuộc chiến cũng ngày một giảm bớt đi nhiều.
Như
nhiều người đã tiên liệu, cuộc chiến đã làm gia tăng
hiểm họa khủng bố. Theo Fawaz Gerges, chuyên gia về
Trung Đông, "thật là một điều khó tin khi cuộc
chiến đã làm sống lại sức lôi cuốn của phong trào
thánh chiến Hồi giáo toàn cầu, một phong trào đã
thực sự yếu thế sau biến cố 11-9"[5].
Số thành viên trong mạng lưới Al Qaeda đã gia
tăng; Iraq lần đầu tiên đã trở thành "nơi trú ẩn
an toàn của khủng bố"(a terrorist haven). Các
cuộc tấn công cảm tử - Iraq đã trải nghiệm lần đầu
vào thế kỷ 13 - nay tái diễn ngày một nhiều hơn từ
giữa năm 2003.
Cuộc
chiến cũng đã đưa đến tình trạng WMD ngày một lan
tràn. Gần một năm sau 11-9, cảnh sát trang bị vũ khí
tự động đã phải tuần tiểu ga xe lửa Grand Central
Station ở New York, một phản ứng sau vụ xe lửa ở
Madrid, Tây Ban Nha, bị nổ bom ngày 11-3-2004, gây
một số thương vong trên 200 người trong một vụ khủng
bố tồi tệ nhất Âu châu. Vài ngày sau, cử tri Tây Ban
Nha đã bỏ phiếu thay đổi chính quyền đương nhiệm vì
đã tham gia cuộc chiến trước sự chống đối của đại đa
số dân chúng. Nhân dân Tây Ban Nha cũng bị buộc tội
đã không đủ cương quyết trong cuộc chiến chống khủng
bố khi bỏ phiếu quyết định rút quân khỏi Iraq mặc dù
chưa có sự chấp thuận của LHQ, một lập trường tương
đương với sự kiện 70% dân Hoa Kỳ đã kêu gọi LHQ phải
đảm nhiệm vai trò lãnh đạo ở Iraq.
Bush
quả quyết với nhân dân Mỹ, "thế giới ngày nay đã
an ninh hơn, vì ở Iraq , liên quân đã kết liễu một
chế độ đã dung dưởng khủng bố và chế tạo WMD"[6].
Các cố vấn của Tổng Thống đều hiểu rõ lời nói đó
hoàn toàn dối trá, nhưng họ cũng tin sự dối trá của
Tổng Thống có thể trở thành "chân lý"(Truth) nếu cứ
được kiên trì lặp đi lặp lại.
Các
chuyên gia đồng ý với nhau về những phương thức giảm
thiểu nạn khủng bố cũng như những điều khiến nạn
khủng bố ngày một trầm trọng hơn. Sự đồng tình nầy
đã được Jason Burke diễn đạt một cách mạch lạc trong
một công trình nghiên cứu về hiện tượng Al Qaeda -
một cuộc điều tra tỉ mỉ và rỏ ràng về một tổ chức
lỏng lẻo của các tín đồ Hồi giáo cực đoan. Đối với
những tín đồ nầy, bin Laden chỉ là một biểu tượng -
một biểu tượng hết sức nguy hiểm nếu bị giết, có thể
trở thành một vị tử vì đạo, , do đó lôi cuốn
được nhiều người khác gia nhập phong trào. Khi còn
dưới trướng của Reagan, vai trò của số lãnh đạo hiện
nay trong việc ra đời của mạng lưới Hồi giáo quá
khích là một điều đã được nhiều người biết rõ. Điều
ít người biết đến là việc họ đã để Pakistan dần dà
trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan và khai triển các
vũ khí nguyên tử.do đó lôi cuốn được nhiều người khác gia nhập phong
trào. Khi còn dưới trướng của Reagan, vai trò của số
lãnh đạo hiện nay trong việc ra đời của mạng lưới
Hồi giáo quá khích là một điều đã được nhiều người
biết rõ. Điều ít người biết đến là việc họ đã để
Pakistan dần dà trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan
và khai triển các vũ khí nguyên tử.
Như
Burke đã ghi lại, việc T T Clinton bỏ bom Sudan và
Afghanistan năm 1998 đã giúp tạo ra bin
Laden-biểu tượng, đưa đến sự liên kết chặt chẻ giữa ông ta và phong
trào Taliban, làm gia tăng hậu thuẩn, tuyển mộ, và
tài trợ cho Al Qaeda, một tổ chức cho đến thời điểm
đó gần như chẳng ai biết. Một sự đóng góp kế tiếp
cho sự lớn mạnh của Al Qaeda và danh tiếng của bin
Laden là viêc George W. Bush oanh tạc Afghanistan
sau biến cố 11-9 mà chẳng có một duyên cớ khả tín,
như đã được kín đáo thú nhận sau đó. Cuộc xâm lăng
Iraq cũng đã đưa đến những hậu quả tương tự.
Đưa ra
những bằng chứng cụ thể, Burke kết luận: "Mỗi
lần dùng bạo lực là một dịp bin Laden có thêm một
thắng lợi nhỏ"[7].
Ông ta đang thắng dù sống hay chết. Nhiều nhà phân
tích, kể cả những người cầm đầu ngành tình báo Do
Thái, cũng đồng tình như thế.
Nhiều
chuyên gia đã đồng ý một cách đại cương về phương
thức thích hợp để đối phó với khủng bố . Phương thức
gồm hai mủi nhọn: (1) Nhằm trực tiếp các đối tượng
khủng bố; (2) nhằm các tiềm lực cung cấp hỗ trợ .
Phương thức đối phó với khủng bố thích hợp nhất là
các biện pháp cảnh sát, như nhiều nơi trên thế giới
đã từng trải nghiệm. Điều quan trọng hơn là cơ sở
quần chúng mà các tổ chức khủng bố - những người tự
xem như đội tiền phong - đang tìm cách vận dụng, kể
cả những ai ghét bỏ và kinh sợ họ nhưng vẫn tin họ
đang chiến đấu vì chính nghĩa.
Bằng
bạo lực, chúng ta có thể vô tình tiếp tay cho các tổ
chức nầy động viên các tiềm lực hỗ trợ vừa nói. Hoặc
chúng ta có thể giúp giải quyết những bức xúc, bất
bình, nhiều khi rất chính đáng, của quần chúng -
thường là căn nguyên của thái độ đối kháng của khối
Hồi giáo hiện nay. Điều đó có thể giúp làm giảm bớt
nguy cơ khủng bố rất nhiều.
Bạo lực
có thể đưa đến thành công, nhưng thường với một giá
rất đắt, như người Mỹ đã từng trải nghiệm qua lịch
sử lập quốc khi xâm chiếm lãnh thổ và tàn sát dân da
đỏ bản địa (Indians). Như một vòng lẩn quẩn, bạo
lực thường đưa đến bạo lực. Khủng bố gia tăng cũng
chỉ là một biểu hiện. Nhiều phản ứng khác còn nguy
hại hơn nhiều.
Tháng
2-2004, Liên Bang Nga đã tổ chức nhiều cuộc tập trận
lớn nhất trong vòng hai thập kỷ, trình diễn nhiều
WMD hiện đại. Các tướng lãnh Nga và Bộ trưởng Quốc
Phòng Sergei Ivanov loan báo, nước Nga sẽ đáp ứng
những kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn nhằm dùng vũ khí
nguyên tử làm phương tiện giải quyết các mục đích
quân sự, kể cả việc khai triển các vũ khí nguyên tử
mới có sức công phá thấp, một khuynh hướng cực kỳ
nguy hiểm phương hại đến tình trạng ổn định khu vực
và toàn cầu, ...hạ thấp tiêu chí sử dụng các vũ khí
tối nguy hiểm nầy. Theo Bruce Blair, một nhà phân
tích chiến lược, Nga hiểu rất rõ loại bom công phá
các hầm trú ẩn "bunker busters" được thiết kế nhằm
các hầm trú ẩn của các tư lệnh nguyên tử cao cấp có
nhiệm vụ kiểm soát các kho vũ khí nguyên tử.
Ivanov
và các tướng lãnh Nga cho biết, để đáp lại sự leo
thang của Mỹ, họ đang triển khai "loại hỏa tiễn
hiện đại nhất thế giới", hầu như bất khả hủy
diệt - một việc, theo nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc
Phòng Mỹ, Phil Coyle, "rất đáng lo ngại đối với
Ngũ Giác Đài"[8].
Các nhà phân tích Hoa Kỳ lo ngại Nga cũng có thể
triển khai các hỏa tiễn siêu âm có khả năng tái nhập
vào khí quyển từ thượng tầng không gian và mở các
cuộc tấn công bất thần. Đó chính là một phần trong
kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ, nhằm giảm bớt sự lệ
thuộc vào các căn cứ ở hải ngoại hoặc vào việc
thương thảo sử dụng không phận của các xứ đồng minh.
Các nhà
phân tích Mỹ ước tính chi tiêu quốc phòng của Nga đã
gia tăng gấp ba trong nhiệm kỳ của hai Tổng Thống
Bush-Putin, một phản ứng dễ hiểu đối với chính sách
hiếu chiến của chính quyền Bush. Putin và Ivanov đã
viện dẫn lý do chủ thuyết chiến tranh phòng ngừa hay
đánh phủ đầu của Bush (Bush doctrine of preemptive
strike), một chủ thuyết mới, mang tính cách mạng
trong Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ. Putin
và Ivanov còn thêm một chi tiết then chốt: lực lượng
quân sự có thể được sử dụng nếu có kế hoạch giới hạn
quyền tiếp cận các khu vực thiết yếu cho sự trường
tồn của Liên Bang Nga. Đây chính là một quyết định
theo đúng chủ thuyết Clinton - Hoa Kỳ có quyền đơn
phương sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền tự do tiếp
cận không hạn chế các thị trường then chốt, các
nguồn cung cấp năng lượng và các tài nguyên chiến
lược. Theo Fiona Hill ở Brookings Institution, thế
giới ngày nay càng thiếu an ninh khi Nga đã quyết
định theo cách ứng xử của Hoa Kỳ. Nhiều nước khác
chắc cũng thế.
Trong
quá khứ, hệ thống trả đủa tự động của Nga, có lần
chỉ còn vài phút trước khi khởi động tấn công nguyên
tử, đã được chận đứng nhờ sự can thiệp kịp thời của
người hữu trách. Ngày nay những hệ thống nầy không
còn khả tín. Những hệ thống của Mỹ đáng tin cậy hơn,
nhưng cũng cực kỳ bất bênh nguy hiểm. Những hệ thống
nầy cũng chỉ cho người hữu trách ba phút để quyết
định sau khi máy vi tính báo động sắp bị tấn công,
một điều thường xẩy ra. Theo Bruce Blair, Ngủ Giác
Đai đã khám phá nhiều khiếm khuyết, nhược điểm,
trong các hệ thống an ninh vi tính - có thể bị các
phần tử phá hoại (terrorist hackers) xâm nhập, kiểm
soát, và mô phổng một cuộc tấn công - một bất trắc
có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Tình hình càng bất
trắc hơn với những lời răn đe, hăm dọa dùng vũ lực.
Người
ta được biết, tai họa không hề được giảm bớt khi gần
đây nhiều vị Tổng Thống Hoa Kỳ thường nhận được
những thông tin sai lạc về hậu quả của chiến tranh
nguyên tử. Mức độ tàn phá đã được đánh giá quá thấp
"vì thiếu vắng hệ thống giám sát các viên chức có
trách nhiệm đánh giá và phân tích
chiếntranh-nguyêntử-hạnchế-khảthắng" name="_ftnref9" title href="#_ftn9">[9],
đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa,
trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về
Iraq trước đây. ,
đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa,
trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về
Iraq trước đây.
Chính
quyền Bush đã bắt đầu lên kế hoạch khai triển hệ
thống hỏa tiễn phòng vệ (missile defense system) từ
mùa hè 2004, một hành động hoàn toàn mang tính chính
trị, sử dụng một kỷ thuật quá tốn kém và chưa được
thử nghiệm đầy đủ. Điều nguy hiểm là hệ thống có vẻ
khả dĩ vận hành ; và trong lô gic của chiến
tranh nguyên tử, điều quan trọng là nhận thức
(perception). Các nhà hoạch định Mỹ lẫn những mục
tiêu khả dĩ, đều xem hệ thống hỏa tiễn phòng vệ như
những khí giới nguyên tử mang tính tấn công ngăn
chặn , nhằm đem lại sự tự do tấn công, kể cả tấn
công nguyên tử. Họ hiểu rõ phương thức Hoa Kỳ đối
phó với việc người Nga triển khai một hệ thống ABM
hạn chế vào năm 1968: hướng các vũ khí nguyên tử vào
hệ thống ABM Nga với mục đích khống chế ngay tức
khắc (instantly overwhelmed).
Các nhà
phân tích cảnh cáo kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ cũng
sẽ đưa đến những phản ứng tương tự từ Trung Quốc.
Lịch sử và lô gic
của chiến lược ngăn đe (deterrence) nhắc nhở chúng
ta là các hệ thống hỏa tiễn phòng vệ là lực mạnh mẽ
thúc đẩy việc hoạch định tấn công nguyên tử. Sáng
kiến của Bush một lần nữa nâng cao sự đe dọa, bất
trắc, bất ổn và bất an cho nhân dân Mỹ và nhân loại.
Phản
ứng của Trung Quốc sẽ có ảnh huởng như những đợt
sóng dồn dập lan dần qua Ấn Độ, Pakistan và nhiều
nước lân cận. Ở Tây Á, Hoa Thịnh Đốn đang gây thêm
bất ổn với hiểm họa nguyên tử và WMD của Do Thái.
Hoa Kỳ đã cung cấp cho Do Thái hơn 100 pháo đài phản
lực hiện đại nhất cùng với lời loan báo các phản lực
cơ nầy có tầm hoạt động bay đến Iran và trở về, cũng
như các phi cơ loại hiện đại nhất trước đây Do Thái
đã từng sử dụng để phá hủy một lò phản ứng nguyên tử
của Iraq năm 1981. Báo chí Do thái cũng tung tin Hoa
Kỳ đã cung cấp cho không lực Do Thái một "loại vũ
khí đặc biệt"(special weaponry). Đã hẳn cơ quan tình báo và nhà cầm
quyền Iran đã theo dõi sít sao và đã dự liệu những
tình huống xấu nhất: những vũ khí nguyên tử. Việc
tiết lộ thông tin và chuyển giao các loại phản lực
cơ hình như nhằm khích động giới lãnh đạo Tehran,
với hy vọng Iran có thể phản ứng thiếu tỉnh táo, đem
lại cho Hoa Thịnh Đốn cái cớ để tấn công.
Ngay
sau khi loan báo Chiến Lược An Ninh Quốc Gia mới vào
tháng 9-2002, Hoa Kỳ đã hành động nhằm chấm dứt mọi
thương nghị một hiệp định vũ khí sinh hóa khả thi và
chận đứng mọi nổ lực quốc tế nhằm ngăn cấm chiến
tranh sinh học và quân sự hóa ngoại tầng không gian.
Một năm sau, tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ là quốc
gia duy nhất đã bỏ phiếu chống việc thực thi Hiệp
Định Cấm Thử Nghiệm Toàn Diện (Comprehensive Test
Ban Treaty), và cùng với đồng minh mới Ấn Độ chống
lại mọi nổ lực loại bỏ vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ cũng
là quốc gia duy nhất bỏ phiếu chống lại "sự tuân
thủ các chuẩn mực môi sinh"(observance of
environmental norms) trong những thỏa ước giải trừ
và kiểm soát vũ khí (disarmament and arms control
agreements); và cùng
với Do Thái và Micronesia chống lại các nổ lực ngăn
ngừa sự lan tràn vũ khí nguyên tử ở Trung Đông - một
cái cớ để xâm chiếm Iraq. Cũng cần nhắc lại quyết
nghị ngăn ngừa quân sự hóa không gian đã được chấp
thuận, với 174 phiếu thuận và bốn phiếu trắng
(abstentions): Hoa Kỳ, Do Thái, Micronesia, và Quần
Đảo Marshall. Như đã biết, một phiếu trắng hay phủ
quyết của Hoa Kỳ có nghĩa tương đương với phiếu phủ
quyết kép (double veto): nghị quyết không những bị
chận đứng mà mọi dấu vết đều bị xóa khỏi phúc trình
và lịch sử.
Các nhà
hoạch định của chính quyền Bush hiểu rất rõ là việc
sử dụng vũ lực sẽ làm gia tăng khủng bố; thái độ và
các hành động quân sự gây hấn sẽ gây nhiều phản ứng
và làm gia tăng bất trắc tai họa. Họ không ước muốn
những hậu quả như thế, nhưng xếp những hiểm tai nầy
thấp hơn các nghị trình đối nội và đối ngoại mà họ
chẳng cần tìm cách che giấu.
II. CHỦ NGHĨA DÙNG VŨ LỰC VÀ SỰ SUY SỤP CỦA CHÍNH
QUYỀN HIẾN ĐỊNH:
Trong cuốn Nemesis, Chalmers Johnson bắt đầu duyệt
lại lịch sử thăng trầm của một số đế quốc tiêu biểu
trong thế kỷ 20, song song với trạng huống hiện nay
của Hoa Kỳ. Tác giả đã viện dẫn trường hợp Anh, Xô
Viết, Đức Quốc Xã, Nhật, và Ottomans. Theo Johnson,
cũng như các nước trên và La Mã trước Công nguyên,
người Mỹ "đang tới gần bờ vực thẳm và sắp rơi
xuống vực"[10].
Ông cũng trích dẫn nổi âu lo của sử gia Kevin Baker
: Hoa kỳ đang kề cận một cách nguy hiểm thời điểm
Quốc Hội - giống như Thượng Viện La Mã vào năm 27 BC
- sẽ sử dụng quyền hạn của mình lần chót trước khi
trao trọn quyền cho một nhà độc tài. Dựa trên
những diễn biến trong sáu năm vừa qua, người ta có
thể tin nước Mỹ hiện đang nằm trong tay một nhà độc
tài dân sự.
Chính quyền Bush-Cheney đã đưa nước Mỹ vào tình cảnh
khốn đốn hiện nay. Nhưng cuộc khủng hoảng không phải
chỉ mới bắt đầu với Bush-Cheney. Nó đã khởi sự ngay
từ khi Benjamin Franklin cảnh cáo: người Mỹ hiện
có một nước Cộng Hòa nếu họ có thể giữ được nó.
Cuộc khủng hoảng đã tăng dần nhưng chỉ gia tốc sau
Đệ Nhị Thế Chiến khi chỉ có Hoa Kỳ là quốc gia hùng
mạnh áp đảo duy nhất còn đứng vững và quyết tâm duy
trì hiện trạng, để rồi phải đương đầu với những hối
tiếc hiện nay - một Tổng Thống chế mang tính đế
quốc; một cơ chế kiểm soát và quân bình và một cơ
chế phân quyền bị xói mòn; và một nền văn hóa quân
sự áp đảo không ai dám thách thức.
Các nhà lập quốc (Founders) tìm cách ngăn ngừa một
thể chế thực dân chuyên chế như dưới thời đại đế
George III. Họ đã nghĩ ra một hệ thống chính quyền
cộng hòa hiến định với định chế liên bang san sẻ
quyền lực với các tiểu bang; phân quyền giữa ba
ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Hoa Thịnh Đốn
khả dĩ kiểm soát và quân bình lẫn nhau, với quyền
lực quan trọng nhất nằm trong tay Quốc Hội và tách
khỏi tầm tay các Tổng Thống - quyền tuyên chiến.
James Madison, Cha Đẻ của Hiến Pháp, đã nói rõ lý
do: "Trong tất cả các kẻ thù của tự do, có lẽ
chiến tranh là điều đáng sợ nhất, bởi lẽ nó hàm chứa
và phát triển mầm móng của mọi thứ khác...(Trao)
những thứ quyền đó (cho Tổng Thống) là điều không
những làm rách nát cấu trúc của Hiến Pháp, mà ngay
cả nền móng của mọi chính quyền được tổ chức và kiểm
soát chặt chẻ"[11].
Lần cuối Quốc Hội sử dụng quyền duy nhất của mình là
ngày 8-12-1941 sau khi người Nhật tấn công Trân Châu
Cảng, và ngày 11-12-1941 sau khi Đức và Ý tuyên
chiến với Hoa Kỳ.
Hơn hai thế kỷ sau, ngày nay, lời cảnh cáo của
Benjamin Franklin lại ám ảnh dân Mỹ hơn bao giờ hết,
bởi lẽ cấu trúc hiến pháp của các nhà lập quốc đã
gần như tan rã. Tổng Thống có nhiều quyền hạn hơn
cả đế vương. Cùng với quân lực, Tổng Thống còn có cả
một đội quân riêng dưới hình thức một tổ chức CIA bí
mật, kiểm soát tất cả 15 tổ chức tình báo
ngoại-hiến-pháp (extraconstitutional intelligence
organizations). Tất cả, kể cả quân lực, đều không
chịu trách nhiệm trước bất cứ ai, ngay cả với Quốc
Hội, vì tất cả đều hoạt động trong vòng bí mật, với
những ngân sách không được tiết lộ (một phần ngân
sách của Ngủ Giác Đai cũng thế). Luật pháp quốc gia
cũng chỉ là những văn bản ngoại vi (an artifact),
không đủ hiệu lực khống chế hay chi phối.
Trong tác phẩm Nemesis, Chalmers Johnson chỉ tập
trung vào quyền lực của quân đội và một cơ quan tình
báo duy nhất - CIA. Ngay từ đầu, ông viết:"Chúng
ta sẽ không bao giờ còn biết được hòa bình, và có lẽ
không thể tồn tại lâu dài như một quốc gia, trừ phi
chúng ta hủy bỏ CIA, vãn hồi chức năng thu thập tình
báo cho Bộ Ngoại Giao, tước bỏ mọi thứ ngoại trừ
những chức năng thuần túy quân sự khỏi Ngũ Giác Đài"[12].
Ngay cả trong trường hợp nầy, Johnson tin là đã quá
trể vì Hoa Kỳ, như một quốc gia từng được xem như
một xứ dân chủ mẩu mực,"có thể đã bị tác hại đến
mức vô phương cứu chữa, (và) may lắm cũng phải mất
một thế hệ hay hơn thế nữa mới mong vượt khỏi hình
ảnh một 'nước Mỹ tra tấn'[13]
và một nhà nước ngoài vòng pháp luật, coi thường
luật quốc tế, nhân quyền, và dân thường ở khắp nơi.
Đó không phải là những gì các Nhà Lập Quốc quan
niệm, cũng không phải những điều cần có trong một
nhà nước dân chủ"của dân, do dân, vì dân..."[14]như
Lincoln đã từng nói đến ở Gettysburg. Ngày nay, đó
chỉ là những gì được dành cho giới ưu đải.
Điều đáng buồn là quyền lực làm hư hỏng những ai có
quá nhiều quyền lực. Từ năm 1941, quyền lực đó đã
gia tăng khi chuẩn bị chiến tranh, và từ đó nhà
nước không ngừng vận dụng quyền lực. Cái giá phải
trả là đánh mất dân chủ và tự do - những thứ không
thể cộng sinh với chủ nghĩa đế quốc đang trên đường
chinh phục và khống chế. Và nước Mỹ xinh đẹp
(America the beautiful) đã trở thành một quốc gia
đáng sợ và cũng đáng ghét. Nước Mỹ ra khỏi Đệ Nhị
Thế Chiến kiêu hảnh và tự tin trong tư thế siêu
cường kinh tế, chính trị, quân sự duy nhất, như ước
muốn. Người Mỹ sẽ không từ bỏ uy thế đó, ngược lại,
còn cố tận dụng thời co để ngự trị toàn cầu, không
tha thứ một ai, và đòi hỏi tất cả các quốc gia khác
phải thần phục và nghiêm trị nước nào tỏ ý cưởng
lại.
Đệ Nhị Thế Chiến, thường được gọi sai là cuộc
chiến tốt (good war), đã giúp người Mỹ phát động
chính sách đế quốc tòan cầu, trên đường tìm kiếm một
sự "khống chế trọn vẹn"[15],
có nghĩa là một sự độc chiếm và kiểm soát toàn vũ
trụ một cách tuyệt đối và không thể đối kháng - đất
đai, mặt nổi và mặt chìm các đại dương, không phận,
ngoại tầng không gian, toàn bộ sóng điện từ, và các
hệ thống thông tin- tột cùng của tham vọng và không
bao giờ chịu lùi bước.
Cái giá phải trả đã vô cùng lớn lao, với chi tiêu
quân sự của Mỹ lớn hơn tổng số chi tiêu của toàn bộ
thế giới bên ngoài gộp lại. Biến cố 11-9, được xem
như một "Trân Châu Cảng Mới", đã được lợi
dụng tối đã để nuôi dưỡng một bầu không khí sợ hải,
cho phép chính quyền Mỹ củng cố mạng lưới kiểm soát
quốc nội và phát động một loạt các cuộc chiến xâm
lăng chống các nước người Mỹ gán cho cái nhãn thù
nghịch. Dẫn đầu danh sách là các nước giàu năng
lượng như Iraq, hoặc có vị trí địa dư chiến lược gần
những khu vực giàu năng lượng như Afghanistan kế cận
vùng Vịnh Caspian (Caspian Basin). Ngay cả một quốc
gia dân chủ mẩu mực như Venezuela của Hugo Chavez
cũng bị xếp vào hàng ngũ những xứ cần phải thay đổi
chế độ - một nhắc nhở cho những ai quên rằng quyền
tối thượng của nước Mỹ luôn ở trên quyền tối thượng
của bất cứ xứ nào khác.
Và kẻ nào dám thách thức một sự thật hiển nhiên:
"sức mạnh làm nên lẽ phải"[16].
Vì vậy, luật quốc tế, các chuẩn mực và hiệp định có
giá trị như hiến pháp của các xứ thành viên, cũng
không thể cản đường siêu cường duy nhất. Chúng chẳng
có nghĩa gì với một đế quốc ngoài vòng pháp luật
(rogue empire) đang trên đường bành trướng, và
một Tổng Thống vững tin luật pháp chỉ là luật pháp
do chính ông, là những gì ông gọi là luật pháp, an
ninh quốc gia chỉ là một chiêu bài để tự do hành
động, và hiến pháp cũng chỉ là "một mảnh giấy
lộn"(just a goddamned piece of paper). Những gì
Bush và các phụ tá thân cận thiếu về tế nhị, họ đã
bù lại bằng sự táo bạo cực đoan. Và đó chính là thái
độ dọn đường đến bờ vực thẳm.
Chalmers Johnson đã duyệt lại những chiến dịch chống
Iraq từ cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Chiến tranh Iraq
1991, các biện pháp cấm vận giết người suốt 12 năm
tiếp đó, và cuộc chiến từ 2003, tất cả đều vi phạm
luật quốc tế và là những việc làm rõ rệt mang tính
tội phạm chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại.
Nhưng quốc gia nào đủ vai vế để buộc tội siêu cường
duy nhất của thế giới. Tổn thất gây ra cho nhân dân
và xứ sở Iraq trong vòng 16 năm qua thật sự kinh
hoàng. Chiến dịch của Mỹ đã hủy diệt một quốc gia
từng phồn thịnh với một di sản vô giá, để lại đằng
sau một vùng đất hoang tàn, những trại lính siêu
thực vô luật pháp, thiếu vắng hoặc rất ít dịch vụ
thiết yếu như điện, nước sạch, các cơ sở vệ sinh, y
tế, năng lượng, và hầu hết mọi thứ cần thiết cho an
sinh công cộng và trường tồn.
Johnson trích dẫn các chuyên viên về nạn hôi của tại
Viện Bảo Tàng Quốc Gia Baghdad, nạn đốt phá Thư Viện
và Văn Khố Quốc Gia, Thư Viện Korans thuộc Bộ Tôn
Giáo, như những đại họa lớn lao nhất trong vòng 500
năm qua, nếu không nói được kể từ năm 1258 khi quân
Mông Cổ chiếm đóng Baghdad. Donald Rumsfeld và Ngũ
Giác Đai đã chú tâm bảo vệ Bộ Dầu Khí, nhưng không
quan tâm gì đến những báu vật vô giá bị trộm cướp và
đốt phá. Cả một "vũ trụ cổ vật" bị tiêu hủy, một
điều không những người Iraq mà cả thế giới văn minh
không bao giờ tha thứ.
Nói chung, cuộc chiến vùng Vịnh và các biện pháp cấm
vận của Hoa Kỳ đã gây ra hơn 1.5 triệu tử vong tính
đến tháng 3-2003, hơn 3.5 triệu người di tản lánh
nạn bên trong cũng như bên ngoài Iraq. Thêm vào đó,
theo kết quả nghiên cứu đã được công bố của tổ chức
Lancet, cuộc xâm lăng Anh-Mỹ từ tháng 3-2003 đã làm
hơn 655.000 tử vong tính đến giữa năm 2006, và còn
cho biết con số thực sự có thể lên đến 900.000 bởi
lẽ cán bộ đã không thể đến điều tra trong những vùng
quá hổn loạn hay phỏng vấn hàng nghìn gia đinh đã bị
tiêu diệt, hoàn toàn không còn dấu vết.
Cho đến nay, sự tàn phá do liên quân Anh-Mỹ gây ra
cho nhân dân và xứ sở Iraq kể từ năm 1991 đã là một
trong số tội phạm lớn lao nhất trong lịch sử nhân
loại do chiến sự, chế tài, và chiếm đóng . Hậu quả
còn tiếp tục gia tăng gấp bội, và chẳng có cách nào
biết được con số thương, tử vong sẽ là bao nhiêu khi
cuộc chiến chấm dứt. Một ngày nào đó cuộc chiến cũng
sẽ chấm dứt vì lẽ người Iraq sẽ không ngừng chiến
đấu cho đến khi giành lại được tự do cho chính mình.
Trong khi chờ đợi, những thương vong, tàn phá của
cuộc chiến không hề được các cơ quan truyền thông
Hoa Kỳ phản ảnh; báo chí phương Tây cũng chẳng mấy
quan tâm. Cho đến nay, chiến sự vẫn tiếp tục vì
chính quyền Mỹ luôn theo đuổi mộng đế quốc, quân đội
Mỹ chỉ chịu trách nhiệm trước các cấp chỉ huy trực
tiếp tại mặt trận hoặc Ngũ Giác Đai, và khoảng
100.000 nhà thầu dân sự chỉ chịu trách nhiệm với
chính họ.
Khía cạnh đen tối nhất của cuộc phiêu lưu là mạng
lưới nhà tù quân sự Mỹ trên khắp thế giới, dưới
quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ Truởng Quốc Phòng
và Ngũ Giác Đài. Tại đây, sự tra tấn, cả tinh thần
lẫn thể chất, đã và đang diễn ra mặc dầu chẳng mang
lại một thông tin hữu ích nào. Trong thực tế, theo
nhận định của Chalmers Johnson, đó chỉ là một
phương tiện kiểm soát xã hội, trả thù, và là một
chính sách hạ thấp phẩm giá những phần tử chính
quyền Mỹ xem như thấp kém hơn con người bình thường
vì họ là người Arập da-không-đủ-trắng hay người
Afghanistan Hồi giáo[17]
. Đó cũng là hành động phản ảnh sự khinh mạn
siêu cường, coi thường cộng đồng quốc tế, thách thức
tất cả mọi người. Luật lệ quốc tế căn cứ trên các
Thỏa Ước Geneva và Thỏa Ước LHQ chống Tra Tấn và
Đối Xử Tàn Nhẫn, Vô Nhân Đạo, hay Nhục Mạ, chẳng còn
ý nghĩa gì đối với chúa tể của vũ trụ. Hoa Kỳ là
một quốc gia thành viên của các Thỏa Ước vừa kể.
Nhưng điều đó chẳng ăn nhằm gì đối với các luật sư
khôn lanh, ranh mảnh , và các vị Bộ Trưởng Tư Pháp
ngoài vòng pháp luật khi họ soạn thảo hay sửa đổi
các quy luật tác chiến (rewrite the rules of
engagement).
III. PAX AMERICANA TRONG THỜI HẬU CHIẾN TRANH
LẠNH:
Chalmers Johnson đã phân tích hai nguyên do lịch sử
đã đưa đến sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã: chủ nghia
đế quốc và chính sách dùng vũ lực (Imperialism and
militarism). Tác giã ghi nhận, sau khi thảm bại
trong tay kiện tướng thành Carthage, Hannibal, năm
216 BC, ngưới La Mã thề sẽ không bao giờ để một
cường quốc Địa Trung Hải nào trổi dậy khả dĩ thách
thức sự trường tồn của mình và quyết tâm dùng chiến
tranh phòng ngừa chống lại bất cứ một quốc gia đối
nghịch nào toan tính như thế.
Đó cũng là ý niệm của Paul Wolfowitz trong cương vị
Phụ Tá Bộ Truởng Quốc Phòng trong chính quyền George
H.W. Bush năm 1992, một ý niệm Wolfowitz đã đem ra
thực thi trong cương vị Thứ Truởng Quốc Phòng năm
2001 và đã trở thành một phần của Chiến Lược An Ninh
Quốc Gia 2002. Đó cũng là một viễn kiến hoang tuởng
xa xưa của người La Mã, mệnh danh Pax Romana, và sau
Đệ Nhị Thế Chiến đã trở thành Pax Americana, với ảo
tuởng giữ địa vị bá chủ không cho phép bất cứ quốc
gia nào cạnh tranh, và sẵn sàng dùng chiến tranh
phòng ngừa để thành đạt mục tiêu mong muốn.
Johnson giải thích, sau khi Julius Caesar bị ám sát
ngay giữa Thượng Viện La Mã năm 44 BC, người cháu
nuôi Octavian lên thay thế. Sau khi được Thượng Viện
La Mã trao toàn quyền và phong làm quốc vương,
Octavian, với tước hiệu Augustus Caesar, đã biến
Thượng Viện thành một câu lạc bộ quý tộc hữu danh vô
thực, và thể chế Cộng Hòa La Mã cáo chung.
Trường hợp Đức Quốc Xã cũng tương tự. Ngày
30-01-1933, cơ quan lập pháp Đức Reichstag đã bầu
Adolph Hitler làm Quốc Truởng - Reichschancellor.
Ngày 23-3-1933, Quốc Hội thông qua Đạo Luật Cứu Chửa
Tình Trạng Khốn Cùng của Nhân Dân (Enabling Act or
Law to Remedy the Distress of the People). Từ đó,
thể chế độc tài Quốc Xã ra đời và Cộng Hòa Weimar
cáo chung. Hitler nắm trong tay quyền hành tuyệt
đối, làm luật, sửa đổi hiến pháp. Quốc Hội trở
thành bất lực, hửu danh vô thực. Một năm sau, Hitler
trở thành một lãnh tụ độc tài trong suốt 12 năm sau
đó.
Cũng như Đức Quốc Xã, La Mã đã không thích ứng được
với những hậu quả bất ngờ của chủ nghia đế quốc,
hình thức Chính quyền Cộng Hòa đã phải nhường chỗ
cho thể chế độc tài. Dưới quyền trị vì của quốc
vương, hiến pháp mất hết hiệu lực, người dân đánh
mất nhân quyền cũng như quyền dân sự. Những thắng
lợi quân sự đã đem lại giàu có cho giới lãnh đạo
ngày một kiêu căng, dẫn đến tình trạng Chalmers
Johnson mô tả: "trường hợp điển hình đầu tiên của
điều mà ngày nay chúng ta gọi là dàn trải quá mỏng
của đế quốc"[18].
Quân đội biến thành những lính nhà nghề ngày
một lớn mạnh, trở thành một quốc gia trong một quốc
gia, giống như Ngũ Giác Đài hiện nay. Tình trạng nầy
đã đưa đến một văn hóa dựa trên vũ lực, dần dà trở
thành một văn hóa mục rữa về đạo đức, đưa đến suy
tàn và sụp đổ của đế quốc.
Cộng Hòa Hiệp Chủng Quốc chưa sụp đổ. Tuy nhiên, một
Tổng Thống Chế mang tính đế quốc ngày nay đang đè
nặng lên đất nước với một Ngũ Giác Đài áp đảo và một
văn hóa thẩm thấu vũ lực đang làm suy yếu các định
chế lập pháp, tư pháp, và các quyền dân sự. Kinh
nghiệm Đế quốc La Mã trước đây chứng tỏ những nguyên
tắc phân quyền, với mục đích kiểm soát và quân bình
giữa ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, không
thích ứng với chủ nghia đế quốc với một quân lực
hùng mạnh đồng hành. Hoa Kỳ có thể đã vượt qua ranh
giới Rubicon sau ngày 18-9-2001 với sự thông qua
Nghị Quyết Cho Phép Sử Dụng Quân Lực[19]
của Lưỡng Viện Quốc Hội, cho phép "sử
dụng quân lực Hiệp Chủng Quốc chống lại những ai
chịu trách nhiệm trong các cuộc tấn công gần đây
chống lại Hiệp Chủng Quốc, và cho phép Tổng Thống
quyền hiến định để hành động nhằm làm nản lòng và
ngăn chặn các hành động khủng bố quốc tế chống lại
Hiệp Chủng Quốc..."[20].
Với luật mới nầy, George Bush được Quốc Hội dành
trọn quyền, không mấy khác một nhà độc tài, nhân
danh an ninh quốc gia, không quan tâm đến hiến pháp
và luật quốc tế, có thể khai chiến để bảo vệ quốc
gia, và tìm cách thông qua luật lệ mang tính đàn áp,
đe dọa quyền tự do của mọi công dân và nhiều người
khác. Kế đến, vào tháng 10-2002, Quốc Hội lại biểu
quyết dành cho Tổng Thống toàn quyền quyết định tiến
chiếm Iraq để phòng ngừa (chiến tranh lựa chọn) khi
nào ông tin thích hợp, nói một cách khác, quyền tự
do khai chiến với Iraq hay bất cứ xứ nào khác xét
như một mối đe dọa, sử dụng vũ khí nguyên tử nếu
Tổng Thống thấy cần.
Đây không chỉ đơn thuần một thứ quyền vô giới hạn,
mà còn là một quà tặng hổ trợ điên rồ của ngành lập
pháp và tư pháp hữu phái. Việc làm nầy đã đưa Hoa Kỳ
vào con đường tự quyết định số phận theo gót đế quốc
La Mã trước Công Nguyên nếu không được kịp thời chận
đứng hay đảo ngược. Đó cũng là cái giá phải trả
không tránh khỏi của sự kiêu ngạo đế quốc, khiến các
cấp lãnh đạo tự cho mình là bất khả tổn thương cho
đến khi quá muộn.
Dựa vào kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Chalmers
Johnson nghĩ, Hoa Kỳ có thể còn cơ may lựa chọn.
Người Anh đã biết hy sinh mộng đế quốc để kịp giữ
lại thể chế dân chủ vì hiểu được rằng họ không thể
đồng thời có được cả hai. Trước đó, họ đã tự nguyện
đảm nhận "Gánh Nặng của Người Da Trắng"(White Man's
Burden) trong tinh thần "Tốt"(Goodness) - điều mà
ngày nay chúng ta gọi là"truyền bá dân
chủ"(spreading democracy), với niềm tin người
Anglo-Saxons xứng đáng để cai trị các xứ khác, đặc
biệt là dân da mầu mà họ nghi là thấp kém hơn.
Johnson giải thích một "chủ nghĩa đế quốc thành
công đòi hỏi một xứ Cộng Hòa phải tự chuyển biến
thành một xứ chuyên chế"[21].
Theo Johnson, La Mã và Anh quốc giúp cho người
Mỹ nhận chân được vị trí của mình và những gì họ
phải đối diện. La Mã chọn đế quốc , để rồi đánh mất
thể chế Cộng Hòa và tất cả. Người Anh, ngược lại, đã
lựa chọn dân chủ và từ bỏ đế quốc, mặc dù chính
quyền Tony Blair sau biến cố 11-9, đã hành động bất
cẩn, đáng trách, như một con chốt trong nước cờ
phiêu lưu đế quốc của Hoa Thịnh Đốn. Hiện nay, vào
một thời điểm muộn màng của cuộc phiêu lưu, người Mỹ
phải lựa chọn một trong hai hướng đi: hoặc giữ chặt
"chiếc bánh dân chủ" hoặc "ăn bánh" và hứng chịu hậu
quả. Ngưới Mỹ không thể cùng lúc có cả hai.
Geoge W. Bush không phải là vị Tổng Thống đầu tiên
lạm dụng quyền hạn của mình . Trước đây, nhiều Tổng
Thống lừng danh cũng đã từng hành động như thế.
Abraham Lincoln đã ngưng áp dụng quyền bảo vệ người
dân trước pháp luật (habeas rights) trong cuộc nội
chiến. Trong mặt trận đối nội, suốt chiều dài Đệ Nhị
Thế Chiến, T T Franklin Delano Roosevelt đã đối xử
với người Mỹ gốc Nhật, những công dân lương thiện
đáng kính, như một hạng người thấp hèn, một thứ công
dân bất xứng, không đáng được hưởng công lý, chỉ vì
một tội duy nhất - tổ tiên và mầu da của họ . Trong
thực tế, họ đã bị nhốt vào các trại tập trung trong
suốt thời gian của cuộc chiến mà họ không hề dính
dáng hay mong muốn, mặc dù những công dân Mỹ gốc
Nhật ở trong quân đội đã chiến đấu chống lại Đức
Quốc Xã một cách kiên cường xuất sắc.
Sự khác biệt giữa thời đó và ngày nay là sự hiện
diện của guồng máy kiểm soát và quân bình lẫn nhau
và cơ chế phân quyền, một cơ chế đã giúp kiềm chế
các vị Tổng Thống tránh nạn lạm quyền. Sự thể đã
hoàn toàn đổi khác khi năm vị thẩm phán Tối Cao Pháp
Viện tự kiêu quyết định hủy bỏ kết quả bầu cử phổ
thông, cho phép George Bush dành lấy ghế Tổng Thống
khỏi tay Al Gore, ứng viên thắng phiếu, kể cả ở Bang
Florida. Từ đó, tình hình tiếp tục xuống dốc giống
hệt trường hợp La Mã ngày xưa khi thể chế cộng hòa
đã nhường chỗ cho chủ nghia đế quốc mang tính áp
bức. Tự do, dân chủ như những quyền bình thường của
người Mỹ trước đây giờ đã trở thành một "chủng loại
lâm nguy"(an endangered species) cần kíp một phương
cách cứu cấp .
Trong tình huống hiện nay, Bush và Cheney đang ngự
trị một nhà nước ngoài vòng pháp luật, hợp tác với
một liên minh luỡng đảng mục rữa. Quốc Hội không
khác gì một câu lạc bộ dành riêng cho giới truởng
giả, cho phép chính quyền quản lý việc nước theo "lý
thuyết hành pháp đơn điệu của một Tổng Thống
Chế"(the unitary executive theory of the
presidency).
Trong cuốn Nemesis, Johnson "đã cố gắng đưa ra
những bằng chứng lịch sử, chính trị, kinh tế, và
triết lý nêu rõ lối ứng xử hiện nay sẽ đưa nước Mỹ
về đâu"[22]:
tác giả tin con đường hiện nay sẽ đưa đến suy
diệt, dưới hình thức vở nợ và độc tài chuyên chế,
quân sự hoặc dân sự.
Theo tác giả, đã đến lúc người Mỹ phải lựa chọn:
hoặc tiếp tục hướng đi hiện nay để cuối cùng phải
đánh mất thể chế dân chủ, hoặc theo gương Anh quốc
giữ thể chế dân chủ và hy sinh mộng đế quốc.
IV. CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA VÀ CUỘC CHIẾN
CHỐNG KHỦNG BỐ:
Xét cho cùng, Cuộc Chiến Chống Khủng Bố là trọng tâm
của mọi điều George Bush và nhóm cận thần hy vọng
cho một chính quyền quan niệm như một khối "hành
pháp nhất trí"(unitary executive) không vướng bận
bởi cơ chế kiểm soát và quân bình hổ tương với hai
ngành lập pháp và tư pháp.
Chỉ năm ngày sau biến cố 11-9, trong một cuộc họp
báo trên sân cỏ phía Nam Tòa Bạch Ốc, George Bush,
vị Tổng Thống với một sứ mạng mới, một mục tiêu và
cứu cánh mới, tuyên cáo với nhân dân Mỹ "mặc dầu
ngày mai họ phải trở lại với việc làm" , họ phải
hiểu ngay bây giờ họ đang đối mặt với một "thứ ác
quỷ mới" . Ông nói tiếp: "Và chúng ta hiểu.
Và nhân dân Mỹ bắt đầu hiểu. Cuộc thánh chiến nầy,
cuộc chiến chống khủng bố nầy, sẽ phải mất nhiều
thời gian"[23].
Trước đó hai ngày, tại Thánh Đường Quốc Gia ở Hoa
Thịnh Đốn, T T Bush đã loan báo cuộc chiến sắp tới,
khi ông nói với nhân dân Mỹ "trách nhiệm lịch sử
của chúng ta đã rất rõ ràng: đáp lại những cuộc tấn
công nầy và cứu thế giới khỏi bọn ác quỷ"[24].
Nếu không có "Cuộc Chiến Chống Khủng Bố"
do Tổng Thống tự tuyên cáo, dĩ nhiên, Bush đã không
thể viện cớ "chiến tranh", "không khí chiến
tranh", hoặc "Tổng Thống thời chiến", để
dồn ép Quốc Hội phải ủng hộ cuộc chiến tự chọn sau
đó ở Iraq. Không có "chiến tranh" và "thời
chiến", đâu có dễ thuyết phục dân Mỹ và dễ gì áp
đặt "luật thời chiến"(war rules) từ trại tù ở
Guantanamo (Cuba), đến căn cứ không quân Bagram Air
Base (Afghanistan), đến Abu Ghraib (Iraq). Không có
"chiến tranh" và "thời chiến", các
viên chức và tư lệnh Hoa Kỳ đâu có thể xếp tù nhân
của quân đội Mỹ ở Iraq vào loại "những người bị
câu lưu vì lý do an ninh" (security detainees),
một quyết đoán phi đạo đức và phổ thông trong cuộc
chiến chống khủng bố; hay mô tả tù binh dưới danh
hiệu "chiến binh bất hợp pháp" (illegal
combatants), để từ chối không áp dụng quy chế tù
binh theo Thỏa Ước Geneva, cũng như để giam giữ vô
thời hạn, cô lập, bí mật, không được luật pháp che
chở.
Mọi hy vọng về quyền lực tương lai của các quan chức
trong chính quyền Bush đều gắn liền với Cuộc Chiến
Chống Khủng Bố mở màn cho chiến tranh nhiều nơi
khác.
Thử nhìn lại bản đồ của những nơi mà Nhóm Tân Bảo
Thủ và phe ủng hộ chính quyền Bush, trong giai đoạn
vàng son, thường gọi là "vòng cung bất ổn"(the
arc of instability) - một vùng trải dài từ biên
giới Trung Quốc và các Cộng Hòa nguyên thành viên
của Liên Bang Xô Viết trước đây, xuyên qua Trung
Đông, Bắc Phi, xuống tận vùng Sừng Phi Châu (Horn of
Africa) - cũng là tâm điểm dầu khí của hành tinh. Cả
một vùng bao la từ Afghanistan đến Somalia ngày nay
đang hay có thể chìm ngập trong khói lửa.
Chính quyền Bush và các đồng minh trong khối NATO
đang bị cầm chân trong cuộc chiến Afghanistan ngày
một lan rộng và khốc liệt hơn. Quân đội Mỹ, được
trang bị đầy đủ, sẵn sàng xung đột với Iran, đang
lún ngày một sâu hơn trong vũng lầy
chiếntranh-nộichiến-chiếmđóng-Iraq cũng như đương
đầu với công luận ngày một gay gắt hơn, cả ở Hoa Kỳ
lẫn Iraq, đòi hỏi quân Mỹ phải rút khỏi Iraq.
Mùa hè năm 2006, chính quyền Mỹ, khi trang bị và hổ
trợ Do Thái trong cuộc tấn công vào Lebanon nhằm
loại bỏ phe Hizbollah nhưng bất thành, cũng đã tung
CIA vào giúp chính quyền Lebanon đang ngày một suy
yếu đối phó với lực lượng Hizbollah ngày một táo bạo
hơn. Bush cũng đề cao dân chủ ở Palestine cho đến
khi người Palestine bầu phe Hamas vào chính quyền,
từ đó tìm cách phá hoại và vô hiệu hóa kết quả bầu
cử. Người Mỹ cũng đứng đang sau cuộc xâm lăng nước
Hồi giáo Somalia của Ethiopia, một quốc gia với đa
số theo công giáo. Chính quyền Bush cũng ra sức lôi
kéo các xứ Hồi giáo dòng Sunni - Saudi Arabia,
Egypt, Jordan, và những quốc gia bé nhỏ vùng Vịnh -
vào một liên minh thực tế chống lại ảnh hưởng của
Iran, Syria thuộc dòng Shiite....
Bush không còn phí thì giờ nhắc nhủ dân Mỹ về giáo
lý hiếu hòa của Hồi giáo. Thay vào đó, ông thường
nói đến ý thức hệ Hồigiáo-phátxít
(Islamo-fascism), đến những phần tử "Hồi giáo
cực đoan"(Islamic extremists) quyết xây dựng một
Quốc Gia Hồi Giáo Caliphate, một "đế quốc Hồi
giáo cực đoan"(a radical Islamic empire) từ
Afghanistan đến Gibralta, vòng cung bất ổn - một bản
đồ thánh chiến.
Tóm lại, hình như không một động thái nào của chính
quyền Bush ở vùng Trung Đông nới rộng, từ
Afghanistan đến Somalia, mà không mang lại bất ổn,
loạn lạc, đổ máu, và làm suy giảm, lung lay quyền
lực của chính Hoa Kỳ trong vùng. Điều đáng buồn nhất
là người ta chẳng cần hiểu nhiều về Afghanistan,
Pakistan, Iran hay Iraq, cũng có thể biết được mỗi
một "thành công" trong chốc lát của phe Bush
cũng đều mang sẵn mầm thất bại tiếp theo.
Trái với tường trình cuả tướng tư lệnh quân Mỹ ở
Iraq, David Petreaus, vào đầu tháng 4-2008, một Iraq
- "ít bạo loạn hơn", tiếp theo sau sự
"thành công" của đợt tăng quân "surge" giữa năm
2007 - thực ra chỉ là tập hợp một số
"thànhphố-quốcgia"(city states) riêng rẽ, hổn
loạn, bạo động - một thùng thuốc nổ , với những nhóm
dân quân (militias) lan tràn, những khu vực đối
nghịch, những phe nhóm giáo phái ganh tị, hận thù,
chống đối lẫn nhau, tất cả đều được vỏ trang đến tận
răng (armed to the teeth). Tệ hại hơn nữa, dưới
quyền lãnh đạo của Tướng David Petraeus và đại sứ
Ryan Crocker, người Mỹ đã trở thành nguyên ủy của
nạn vũ khí lan tràn và bạo loạn. Họ đã trang bị, tài
trợ gần 100.000 dân quân Sunnis với quyết tâm một
ngày nào đó sẽ đập nát "người Iran"(hay chính
quyền Maliki). Họ cũng hổ trợ dân quân Shiite
(còn có tên "quân đội Iraq").
Trong những cuộc tấn công vào đầu tháng 4-2008 ở
Basra và Baghdad, người Mỹ còn chọn đứng về phía
Maliki nhằm quậy lên cuộc nội chiến ngay bên trong
nội bộ khối Shiite. Nhưng không may, theo phóng sự
"Liệu Lính Iraq Có Thể Chiến Đấu?[25]
của hai ký giã Stephen Farrell và James Glanz
trên báo The New York Times, ít nhất cũng hơn 1.000
binh si và cảnh sát phe chính phủ - hay hơn 4% lực
lượng gửi tới Basra - đã rời bỏ hàng ngũ (đào ngũ)
trong khi chiến trận đang tiếp diễn, trong đó có đến
hàng tá sĩ quan và ít nhất là hai tư lệnh chiến
trường cao cấp.
Sau nhiều năm được các cố vấn Mỹ huấn luyện gấp rút
với một phí tổn khổng lồ 22 tỉ mỹ kim, các phát
ngôn nhân quân đội Mỹ một lần nữa phải lúng túng tìm
cách biện minh cho một tai họa chiến lược khác, chỉ
được thoát hiểm nhờ ở kết quả thương thảo giữa
Muqtada al-Sadr và các cố vấn của Thủ Tướng Nouri
al-Maliki, qua trung gian của tướng Iran Qassem
Suleimani, một vị tướng có tên trong danh sách khủng
bố cần theo dỏi của Bộ Ngân Khố Mỹ. Ngưới Mỹ gượng
gạo giải thích:"Theo chỗ chúng tôi hiểu, phần lớn
số đào ngũ là từ những nhóm binh si mới được huấn
luyện căn bản xong và có lẽ đã được đẩy ra chiến
trường quá sớm"[26].
Như Nir Rosen gần đây đã tóm tắt tình hình trong tạp
chí The Nation Magazine, Baghdad ngày nay là
"tập hợp một số bộ lạc dưới quyền các sứ quân và
dân quân", điển hình cho toàn bộ xứ Iraq. Rosen
viết tiếp "chính quyền Bush và giới quân sự không
còn nhắc đến Iraq như một đề án xây dựng quốc gia
lớn lao, và các cơ quan truyền thông Mỹ cũng răm rắp
đi theo"[27].
Trong khi đó, theo Pepe Escobar của tờ Asia Times, ở
phía Bắc Iraq ít ai lưu ý, cuộc nội chiến - giữa hai
sắc dân Iraq gốc ARập và Kurdish tranh giành thành
phố Kirkuk, có thể cả Mosul, giàu dầu hỏa - đang
sôi sục và rất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Quân đội Mỹ không hề được ai mời mọc vào chiếm đóng
Iraq. Chính quyền Mỹ đã đơn phương xâm lăng Iraq với
những lý do ngụy tạo trước sự chống đối của toàn thế
giới. Trong hơn năm năm qua, sự can thiệp của người
Mỹ đã làm tan nát cấu trúc xã hội Iraq. Sự thật lịch
sử đó không ai có thể chối cãi dù chính quyền Mỹ
luôn ngoan cố bám víu lấy huyền thoại quân đội Hoa
Kỳ bao giờ cũng vẫn là lực lượng chiến đấu cho hòa
bình và ổn định trong một thế giới hổn loạn. Vì
quyền lợi của chính mình, Hoa Kỳ cần phải can đảm
chấp nhận sự thật phủ phàng đó càng sớm càng tốt.
Cuộc chiến càng kéo dài, hình ảnh đạo đức của Hoa Kỳ
trên toàn cầu càng tơi tả. Rút khỏi Iraq, người Mỹ
mới sớm có thể bắt đầu quá trình phục hồi khỏi thảm
họa đạo đức, chưa nói gì đến hiểm họa phá sản tài
chánh đang đe dọa hiện nay.
V. THAY LỜI KẾT LUẬN:
Một chính sách đối ngoại tưởng như mang tính thụ
động trong thập kỷ dẫn tới Đệ Nhất thế chiến ngày
nay đã lộ nguyên hình trong một chuổi can thiệp đầy
bạo lực: tiến chiếm vùng kênh đào Panama từ
Colombia, hải quân oanh tạc vào bờ biển Mexico, thủy
quân lục chiến được gửi tới hầu hết các xứ Trung Mỹ,
quân đội chiếm đóng Haiti và Cộng Hòa Dominicain.
Như vị tướng nhiều huy chương Smedley Butler, người
đã tham gia vào nhiều chiến dịch vừa kể, sau nầy đã
viết: "Tôi đã hành động như một người làm việc
vặt cho Wall Street"[28].
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã trở thành siêu cường
lãnh đạo thế giới - một đế quốc. Kiên quyết duy trì
và bành trướng độc quyền vũ khí nguyên tử, nước Mỹ
đã chiếm một số đảo xa xôi nhỏ bé trên Thái Bình
Dương, trục xuất tất cả thổ dân, và biến các đảo nầy
thành những nơi thử nghiệm nguyên tử. Cùng với các
cuộc thử nghiệm về sau trong các vùng sa mạc thuộc
hai bang Utah và Nevada, tổng số đã vượt quá con số
1.000 vụ thử nghiệm .
Trong cuộc chiến Triều Tiên, theo tuần san của
I.F.Stone, trái với lời biện minh chính thức,
Hoa Kỳ đã can thiệp, không phải vì Bắc Hàn xâm lăng
Nam Hàn, mà vì Hiệp Chủng Quốc đang cần một căn cứ
vững chắc trên lục địa Á châu, nhất là Trung Quốc
lúc đó đã lọt vào tay lãnh tụ cộng sản Mao Trạch
Đông.
Nhiều năm sau, khi sự can thiệp thầm lặng của Hoa Kỳ
vào Việt Nam đã chuyển biến thành một cuộc xâm lăng
bạo tàn và ồ ạt, bộ mặt đế quốc của Mỹ đã lộ rõ
nguyên hình. Theo tài liệu Ngũ Giác Đài do Daniel
Ellsberg phổ biến, các thông tư và biên bản ghi nhớ
tối mật của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia cho thấy, khi
giải thích quyền lợi của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, các
thành viên của Hội Đồng đã trắng trợn nói thẳng:
động lực của người Mỹ là tìm kiếm "kẻm, cao su, dầu
khí" (tin, rubber,oil).
Không có một phong trào phản chiến nào trong lịch sử
nước Mỹ - từ việc hàng loạt binh sĩ đào ngũ trong
cuộc chiến Mexican (Mexican War), các thanh niên
trong tuổi quân dịch nổi loạn trong cuộc Nội Chiến
(Civil War), những nhóm chống chính sách đế quốc vào
đầu thế kỷ 20, phong trào chống đối Đệ Nhất Thế
Chiến - đạt đến tầm cở của làn sóng chống chiến
tranh Việt Nam. Ít ra, một phần của sự chống đối nầy
cũng phát xuất từ ý thức : cuộc chiến tàn bạo ở xứ
sở nhỏ bé nầy là một phân bộ trong kế hoạch đế quốc
lớn lao của Hoa Kỳ.
Những vụ can thiệp tiếp theo sau sự thất bại của Hoa
Kỳ ở Việt Nam hình như phản ảnh một như cầu bức
thiết của một siêu cường đang ngự trị - ngay cả sau
sự sụp đổ của địch thủ hùng mạnh, Liên Bang Xô Viết
- để thiết lập quyền bá chủ rộng khắp (full
spectrum dominance). Trong bối cảnh đó, thế giới
đã chứng kiến cuộc xâm lăng Greneda năm 1982, oanh
tạc và tấn công Panama năm 1989, chiến tranh Vùng
Vịnh năm 1991.
Can thiệp vào Vùng Vịnh, George Bush Sr không mấy
quan tâm đến việc Saddam Hussein xâm lăng Kuwait;
điều ông quan tâm chính là lợi dụng cơ hội để thiết
lập một tiền đồn vững chắc ngay trong lòng Trung
Đông giàu năng lượng, một mục tiêu ám ảnh Franklin
Roosevelt từ năm 1945 khi ông thành công trong nổ
lực thành đạt thỏa ước "đổi dầu lấy sự bảo vệ" (oil
for protection agreement) với quốc vương Abdul Aziz
Ibn Saud của Saudi Arabia, cũng như CIA đã lật đổ
chính quyền dân cử Mohammad Mossadegh ở Iran năm
1953.
Các cuộc tấn công tàn bạo 11-9 - như Hội Đồng Chính
Thức 9-11[29],
đã xác nhận - bắt nguồn từ lòng căm hận sự bành
trướng thế lực của Hoa Kỳ ở Trung Đông và nhiều nơi
khác trên thế giới. Ngay từ trước biến cố nầy, theo
Chalmers Johnson trong tác phẩm "Những Nổi Buồn
của Đế Quốc" (The Sorrows of Empire), Bộ Quốc
Phòng Mỹ đã công nhận đang duy trì hơn 700 căn cứ
quân sự bên ngoài nước Mỹ.
Từ ngày đó, với sự phát động "cuộc chiến chống
khủng bố", nhiều căn cứ mới đã được thiết lập
hoặc bành trướng: ở Kurgyzstan, Afghanistan, vùng sa
mạc Qatar, Vịnh Oman, vùng Sừng Phi châu, và bất cứ
ở xứ nào chính quyền dễ bị mua chuộc hoặc cuởng ép.
Động lực bên sau chính sách quân sự vừa nói - như đã
được Henry Luce, một triệu phú sở hữu chủ các tạp
chí Time, Life, và Fortune, mô tả ngay từ năm 1941,
như là biểu hiện sự đón chào bình minh của "Thế
Kỷ của Hoa Kỳ". Luce nói: thời cơ đã đến "để
Hoa Kỳ hành xử đầy đủ ảnh huởng của mình trên thế
giới, thành đạt những mục tiêu và bằng các phương
tiện chúng ta thấy thích hợp"[30].
Chúng ta không thể chờ đợi một lời tuyên cáo ý đồ đế
quốc nào trắng trợn và rõ rệt hơn. Đó cũng là điều,
trong mấy năm gần đây, nhóm trí thức cố vấn chính
quyền Bush đã nhiều lần lặp lại, nhưng nhấn mạnh đây
là "thứ ảnh huởng nhân hậu"(benign influence),
những mục tiêu cao thượng (noble purposes), và đây
là một chủ nghĩa đế quốc chính đáng và sáng suốt.
Hay như chính George Bush đã nói trong diễn văn mở
đầu nhiệm kỳ hai: "Phổ biến tự do ra khắp thế
giới...là tiếng gọi của thời đại chúng ta"[31].
Như nhà sử học lừng danh Howard Zinn nhận định, Đế
Quốc Hoa Kỳ luôn là một đề án lưỡng đảng - Dân Chủ
và Cộng Hòa luôn thay phiên mở rộng đế quốc, ca tụng
và cổ súy cho nó . T T Woodrow Wilson đã nói với
các sĩ quan tốt nghiệp Hải Học Viện (Naval Academy),
năm 1914 (năm ông cho oanh tạc Mexico), Hoa Kỳ
"sử dụng hải quân và bộ binh của mình ...như những
khí cụ truyền bá văn minh, không phải như khí cụ gây
hấn"[32].
Và T T Bill Clinton, năm 1992, cũng đã nói với
các sĩ quan tốt nghiệp West Point:"Các giá trị
các bạn học được ở đây...sẽ có thể truyền bá khắp
đất nước và ra khắp thế giới"[33].
Đối với nhân dân Hoa Kỳ , và nhân dân toàn thế giới,
những lời xác quyết trên đây không sớm thì muộn sẽ
được chứng minh hoàn toàn sai lầm. Những chiêu bài
đó, thoạt nghe có vẻ thuyết phục, chẳng bao lâu sẽ
bị phơi bày qua những cảnh tượng hải hùng không còn
có thể che đậy: những xác người loang lỗ máu; những
lính Mỹ thân thể bị xé nát, mất tay mất chân ; hàng
triệu gia đinh mất nhà cửa, công ăn việc làm - ở
Trung Đông, ở Đồng Bằng Mississipi, và ở nhiều nơi
trên thế giới...
Theo Howard Zinn, những chiêu bài biện minh cho
chính sách đế quốc đã thẩm thấu vào văn hóa Mỹ, đã
tấn công đầu óc và sự hiểu biết của nhân dân Mỹ -
chiến tranh là cần thiết để bảo đảm an ninh cho Mỹ,
bành trướng thế lực là thiết yếu cho việc truyền bá
văn minh..., đã bắt đầu mất dần hiệu lực. Phải
chăng đã đến một thời điểm lịch sử, người Mỹ đã sẵn
sàng chấp nhận một lối sống mới hài hòa cùng thế
giới - bành trướng không phải thế lực quân sự mà
tình đồng loại, tình người.
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA,
USA
20-4-2008
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Ira Chernus, Professor of Religious Studies at
the University of Colorado, Monsters To Destroy:
The Neoconservative War on Terror and Sin.
2. Noam Chomsky, Hegemony or Survival, America's
Quest for Global Dominance, The American Empire
Project, Metropolitan Books.
3. Patrick Corkburn, Muqtada: Muqtada al-Sadr,
the Shia revival, and the Struggle for Iraq,
Scribner, 2008.
4. Mark Danner, Professor at Bard College and
Graduate School of Journalism, University of
California, Berkeley, Torture and Truth: America,
Abu Ghraib and the War on Terror, 2004; and The
Secret Way to War: The Downing Street Memo and the
Iraq War's Buried History, 2007, MarkDanner.com.
5. Chalmers Johnson, Professor Emeritus of the UC,
San Diego and UC, Berkeley, Blowback Trilogy:
Blowback (2000), The Sorrows of Empire (2004),
Nemesis: The Last Days of the American Republic
(2007) .
6. Howard Zinn, A People's History of the
United States - 1492-Present, Harper Collins
Publishers, New York,2005.
7. Magazines: The Economist, The Nation.
[1]
Hegemony or Survival, America's Quest for Global
Dominance, Noam Chomsky.
[2]There
is ample historical precedent for the
willingness of leaders to threaten or resort to
violence in the face of significant risk of
catastrophe. But the stakes are far higher
today. The choice between hegemony and survival
has rarely, if ever, been so starkly posed.
[3]
...sovereign right to use force to defend
ourselves.
[4]
The need for a substantial American force
presence in the Gulf transcends the issue of the
regime of Saddam Hussein.
[5]
...simply unbelievable how the war has revived
the appeal of a global jihadi Islam that was in
real decline after 9-11.
[6]
The world is safer today because, in Iraq, our
coalition ended a regime that cultivated ties to
terror while it built weapons of mass
destruction.
[7]
Every use of force is another small victory for
bin Laden.
[8]
...would be very alarming to the Pentagon.
[9]
...lack of systematic oversight of the
"insulated bureaucracies" that provide analyses
of "limited and winnable nuclear war".
[10]
..are approaching the edge of a huge waterfall
and are about to plunge over it.
[11]
Of all the enemies to liberty, war is, perhaps,
the most to be dreaded, because it comprises and
develops the germ of every other....
(Delegating) such powers (to the president)
would have struck, not only at the fabric of the
Constitution, but at the foundation of all well
organized and well checked governments.
[12]
We will never again know peace, nor in all
probability survive very long as a nation,
unless we abolish the CIA, restore intelligence
collecting to the State Department, and remove
all but purely military functions from the
Pentagon.
[13]
...may have been damaged beyond repair [and] it
will take a generation or more [at best] to
overcome the image of "America as Torturer".
[14]
...of the people, by the people, for the
people...
[15]
full-spectrum dominance.
[17]
...it's used for social control, vengeance and a
policy of degrading people regarded as sub-human
because they happen to be less-than-white Arab
or Afghan Muslims.
[18]
The first case of what today we call imperial
overstretch.
[19]
Authorization for Use of Military Force - AUMF.
[20]
...the use of United States Armed Forces against
those responsible for the recent attacks
launched against the United States [and] giving
the President ...authority under the
Constitution to take action to deter and prevent
acts of international terrorism against the
United States....
[21]
...successful imperialism requires that a
domestic republic change into a tyranny.
[22]Johnson
"tried to present historical, political,
economic, and philosophical evidence of where
our current behavior is likely to lead".
[23]
...go back to work tomorrow... . ...a new kind
of evil. And we understand. And the American
people are beginning to understand. This
crusade, this war on terrorism is going to take
a while.
[24]
Our responsibility to history is already clear:
to answer these attacks and rid the world of
evil.
[25]
Can Iraq's Soldiers Fight?
[26]
the bulk of these [deserters] were from fairly
fresh troops who had gotten out of just basic
training and were probably pushed into the fight
too soon.
[27]
...a set of fiefdoms run by warlords and
militiamen. ...The Bush administration and the
US military have stopped talking of Iraq as a
grand project of nation-building, and the U.S.
media have dutifully done the same.
[28]
I was an errand boy for Wall Street.
[29]
The official 9-11 Commission.
[30]
...to exert upon the world the full impact of
our influence, for such purposes as we see fit,
and by such means as we see fit.
[31]
Spreading liberty around the world ...is a
calling of our time.
[32]
The U.S. used "her navy and her army...as the
instruments of civilization, not as the
instruments of aggression.
[33]
The values you learned here...will be able to
spread throughout the country and throughout the
world.
|