Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa VIỆT NAM

Vietsciences-Trần Văn Thọ     11/2006
 

Những bài cùng tác giả

Tổng luận
 

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chiến lược dài hạn của Việt Nam với mục tiêu là đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, con đường công nghiệp hoá của Việt Nam đang mở ra trong một bối cảnh khu vực và quốc tế như thế nào? Để thành công trên con đường này Việt Nam cần một chiến lược như thế nào? Những biện pháp, chính sách để thực hiện chiến lược đó là gì?

Thách thức và cơ hội ở Đông Á

Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả bề sâu và bề rộng tại Đông Á và các nước trong vùng này nối đuôi nhau trong quá trình phát triển. Vì điều kiện lịch sử, Việt Nam đã mất phần lớn của nửa sau thế kỷ này về phương diện phát triển kinh tế. Công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp trong khu vực từ đầu thập niên 1990 nhưng vào đầu thế kỷ XXI, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một khoảng cách lớn về trình độ phát triển. Mặt khác, hiện nay vẫn còn hơn 60% lực lượng lao động còn trong nông nghiệp, công nghiệp mới thu hút chỉ hơn 10% số lao động có việc làm trên toàn quốc. Ngoài ra còn có hơn 400.000 lao động đang làm việc ở nước ngoài, trong đó nhiều người làm việc trong những điều kiện khó khăn nên nếu trong nước có nhiều cơ hội làm việc, đa số họ sẽ không chọn con đường lao động ở xứ người. Như vậy, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hoá để phát triển nhanh hơn, để thu hút lao động nhiều hơn, tạo tiền đề rút ngắn khoảng cách với các nước. Công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên tạo ra công ăn việc làm còn góp phần lớn vào việc thực hiện công bằng xã hội.

Nhưng công nghiệp hoá Việt Nam sẽ trực diện những thách thức nào và cơ hội nếu có sẽ đến từ đâu? Thương trường của Việt Nam đang mở rộng ra khắp thế giới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, khuynh hướng này sẽ càng mạnh hơn. Tuy nhiên, có thể nói trong giai đoạn trước mắt, thách thức trực tiếp và cũng là cơ hội đối với công nghiệp Việt Nam là ở vùng Đông Á. Tại đây, hai trào lưu đang nổi cộm và sẽ tác động đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam, đó là sự biến động trong làn sóng công nghiệp Đông Á và khuynh hướng tự do thương mại trong vùng. Hiểu đúng tính chất và tác động của hai trào lưu này để xác định được phương hướng chiến lược cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới là vấn đề tối quan trọng của kinh tế Việt Nam hiện nay.

Phân tích bản đồ kinh tế Đông Á cho thấy Việt Nam đang đi sau khá xa các nước chung quanh về trình độ phát triển công nghiệp, thể hiện trong sự cách biệt về tỷ lệ hàng công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ sản phẩm máy móc các loại trong tổng xuất khẩu, thể hiện trong chỉ số cạnh tranh của những ngành công nghiệp chủ yếu và trong cơ cấu phân công lao động giữa Việt Nam với các nước này.

Ngoài ra, Việt Nam phải nhập siêu nhiều với hầu hết các nước đó. Không kể một số nước mới gia nhập ASEAN, Việt Nam là nước đi sau cùng trong quá trình công nghiệp hoá ở vùng Đông Á. Nhưng chiến lược đuổi bắt của Việt Nam trong quá trình đó đang trực diện hai thách thức lớn: Thứ nhất là ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc vừa lớn về quy mô vừa nhanh về tốc độ tăng trưởng, giai đoạn phát triển và cơ cấu tài nguyên, cơ cấu kinh tế lại tương đối gần với Việt Nam. Trung Quốc ngày càng cạnh tranh mạnh trong hầu hết các loại hàng công nghiệp. Thách thức thứ hai là mặc dù cơ cấu và sức cạnh tranh của công nghiệp còn yếu, Việt Nam phải sớm thực hiện tự do hoá thương mại với các nước trong khu vực.

Đến nửa sau của năm 2006 về căn bản phải hoàn thành chương trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ thực hiện Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và chậm lắm là năm 2015 phải hoàn thành chương trình tự do thương mại với Trung Quốc trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa nước này với khối ASEAN. Đối với Việt Nam, sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc đang trở thành một thách thức lớn và FTA Trung Quốc-ASEAN sẽ làm cho thách thức đó càng mạnh hơn.

Mặt khác, AFTA và sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc không phải chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho thị trường của hàng xuất khẩu Việt Nam (năm 2004, ASEAN nhập khẩu hơn 450 tỷ và Trung Quốc nhập khẩu 561 tỷ USD), nhất là trong thể chế tự do thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN đã phát triển là những nước chủ yếu tận dụng được cơ hội của thị trường Trung Quốc. ASEAN là nơi tranh giành thị phần giữa Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan… Việt Nam mới chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc và ASEAN hàng nguyên liệu và nông phẩm; hàng công nghiệp thì rất ít.

Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại, Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới. Muốn vậy, phải xác định được những ngành có lợi thế so sánh, chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình mới và tận dụng ngoại lực để vừa làm tăng nội lực vừa nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh.

Tìm lợi thế so sánh động và chuyển hướng chiến lược

Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế có ngay bây giờ, có ngành đã được phát huy, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhưng cũng có ngành chưa được phát huy do môi trường hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Lợi thế so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa, khi các điều kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích luỹ tư bản cho phép. Nếu có chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực.

Để dễ phân tích, ta có thể chia các ngành công nghiệp thành năm nhóm: Nhóm A là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn, như vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v..

Nhóm B là những ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa sử dụng nhiều nguyên liệu nông lâm thuỷ sản như thực phẩm gia công các loại, đồ uống, v.v.. Nhóm C là những ngành có hàm lượng tư bản cao và dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản như thép, hoá dầu, luyện nhôm...

Nhóm D là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động lành nghề, lao động có kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau, như đồ điện, điện tử gia dụng, xe máy, máy bơm nước và các loại máy móc khác, các loại bộ phận, linh kiện điện tử, v.v.. Nhóm E là những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao như máy tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện, bộ phận điện tử cao cấp, v.v..

Mỗi ngành lại có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn (up-stream) gồm các công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính; trung nguồn (mid-stream) là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ nguồn (down-stream) là tiếp thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường. Ba giai đoạn này kết hợp thành một chuỗi giá trị (value-chain) của một sản phẩm.

Trên thị trường thế giới, Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trong nhóm A và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Thái Lan và các nước ASEAN đã phát triển có lợi thế trong nhóm B và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Cả Trung Quốc và các nước ASEAN phát triển đang tiến lên khá cao ở thượng nguồn của chuỗi giá trị trong các ngành thuộc nhóm D. Nhật và các nền kinh tế công nghiệp hoá mới (NIEs) như Hàn Quốc, Đài Loan… còn duy trì lợi thế so sánh trong nhóm E nhưng tăng cường mạng lưới sản xuất khắp cả vùng Đông Á, do đó Trung Quốc và các nước ASEAN cũng tham gia ngày càng sâu vào các ngành trong nhóm này. Nói chung, các nhóm D và E gồm những ngành liên quan đến các loại máy móc, và đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong sự phân công ở khu vực Đông Á.

Nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh. Nhưng trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hiện nay Việt Nam mới tập trung ở trung nguồn của chuỗi giá trị và chủ yếu dựa vào lao động giản đơn. Các giai đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị phần lớn phụ thuộc nước ngoài. Việt Nam cần nỗ lực tiến về thượng và hạ nguồn mà việc liên kết chiến lược với các công ty nước ngoài như sẽ nói dưới đây là một trong những biện pháp hữu hiệu. Nhưng dù sao các ngành này vẫn là nhóm thuộc các ngành Việt Nam có lợi thế so sánh tĩnh.

Vấn đề quan trọng hơn là Việt Nam phải xác định được những lĩnh vực mà nhu cầu thế giới đang tăng đồng thời xét ra Việt Nam có lợi thế so sánh động. Phát triển các ngành này sẽ làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất và xuất khẩu trong tương lai không xa. Vấn đề khẩn cấp đối với Việt Nam hiện nay là xác định được những ngành hội đủ hai điều kiện đó và từ đó đưa ra các chính sách tạo ra các tiền đề, các điều kiện để tiềm năng biến thành hiện thực. Phân tích nhu cầu thế giới và tham khảo sự đánh giá của các công ty đa quốc gia về tiềm năng của Việt Nam, tôi cho rằng các ngành thuộc nhóm D và một phần trong nhóm E, đặc biệt là đồ điện, điện tử gia dụng và các loại máy móc liên quan công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện thoại di động là những ngành có đủ hai điều kiện nêu trên.

Nhưng để đẩy mạnh phát triển các ngành này, Việt Nam phải giải quyết vấn đề cơ bản hiện nay là sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ. Phải xem đây là mũi đột phá chiến lược và dồn tất cả các năng lực về chính sách cho mũi đột phá này. Chẳng hạn, rà soát lại các doanh nghiệp nhà nước để tìm ra các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp các bộ phận, linh kiện, phụ kiện với chất lượng và giá thành cạnh tranh, từ đó tăng cường hỗ trợ về vốn, công nghệ, v.v., để tiềm năng trở thành hiện thực; xây dựng chế độ tưởng thưởng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn nước ngoài, thành công trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ, v.v..

Nhưng quan trọng hơn cả là phải chuyển hướng chiến lược liên quan đến các ngành nhóm D và E. Chính sách hiện nay của Việt Nam là bảo hộ các sản phẩm nguyên chiếc (tivi, tủ lạnh, xe máy, xe hơi, v.v. ) với thuế quan cao và buộc các công ty lắp ráp tăng dần tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm công nghiệp phụ trợ. Nói chung, đây là chiến lược thay thế nhập khẩu mà biện pháp là thiết lập hàng rào quan thuế khá cao ở cả sản phẩm nguyên chiếc và bộ phận, linh kiện. Nhưng với việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA, Việt Nam sẽ phải thực hiện tự do hoá thương mại với ASEAN từ nửa sau năm 2006.

Tại các nước ASEAN đã phát triển, đặc biệt là Thái Lan và Malaixia, quy mô sản xuất của các loại hàng công nghiệp đó rất lớn nên giá thành rẻ hơn Việt Nam nhiều. Một khi được tự do nhập khẩu vào Việt Nam, sản phẩm cùng loại của ta sẽ bị đẩy lùi. Bộ phận, linh kiện nhập từ ASEAN cũng sẽ rẻ vì được miễn thuế nhưng những linh kiện, bộ phận nhập từ các nước khác vẫn chịu phí tổn cao nếu chính sách của Việt Nam không thay đổi. Tình hình này có thể đưa đến khả năng các công ty đa quốc gia di chuyển những cơ sở lắp ráp tại Việt Nam sang các nước ASEAN khác. Để tránh trường hợp này, Việt Nam cần chuyển ngay chiến lược từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu những sản phẩm nguyên chiếc mà biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng cách bãi bỏ thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận. Nói cách khác, nên dùng cơ chế thị trường thay cho chính sách cưỡng chế nội địa hoá để xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ. Tại sao như vậy?

Để xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, trong quá khứ cũng có nhiều nước đã áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nhập khẩu, nhưng chính sách này phải đồng thời đi liền với chính sách bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc. Việt Nam ngày nay không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì phải theo một chiến lược khác. Chính sách tối ưu hiện nay là phải nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô sản xuất trong nước tăng nhanh, tạo điều kiện để các công ty cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đầu tư lớn. Đồ điện, điện tử gia dụng là những loại máy móc gồm nhiều công đoạn nên có sự phân công hàng ngang giữa các nước trong việc sản xuất và cung cấp cho nhau các linh kiện, bộ phận.

Tuy nhiên, phần đông công nghệ sản xuất đã tiêu chuẩn hoá và ít sai biệt về độ sâu lao động hay tư bản. Do đó, các doanh nghiệp có khuynh hướng tích cực nội địa hoá linh kiện, bộ phận khi lượng sản xuất đạt quy mô kinh tế. Thêm vào đó, khi sản phẩm nguyên chiếc sản xuất cả cho thị trường thế giới thì các công ty lắp ráp phải thường xuyên thay đổi cơ năng, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm. Điều này buộc họ phải luôn bảo đảm một sự cơ động, mềm dẻo trong việc quản lý dây chuyền cung cấp các sản phẩm phụ trợ và do đó phải tăng tỷ lệ nội địa hoá, chủ động tham gia xây dựng các cụm công nghiệp.

Tóm lại, ngay từ bây giờ Việt Nam phải chủ động chuyển sang chiến lược hướng ngoại, cho tự do nhập khẩu linh kiện, bộ phận và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nguyên chiếc. Sau khi hoàn thành chương trình thực hiện AFTA, chính sách thay thế nhập khẩu hiện nay sẽ phải thay đổi nhưng đó là thay đổi thụ động và chỉ áp dụng với các nước ASEAN. Gia nhập WTO cũng không bắt buộc Việt Nam thay đổi chính sách bảo hộ bằng thuế. Và như đã phân tích, chính sách bảo hộ hiện nay sẽ không đối phó được với thách thức AFTA. Chỉ có con đường là chủ động thay đổi chính sách từ bây giờ. Trong thời đại toàn cầu hoá và khu vực hoá, phải có chiến lược mới và chính sách, biện pháp thích hợp.

Đồng thời với việc chuyển hướng chiến lược, chính sách khôn ngoan trong việc tận dụng ngoại lực sẽ củng cố nội lực và tăng cường khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.

Nội lực, ngoại lực và chiến lược liên kết doanh nghiệp

Để phân tích vấn đề tận dụng ngoại lực và kết hợp có hiệu quả giữa nội lực và ngoại lực, ta có thể dùng các khái niệm vốn, công nghệ và tri thức quản lý, kinh doanh. Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là nguồn lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital resources), công nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể của từ lực trong nội lực và ngoại lực. Các nguồn lực này được sử dụng qua hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó, nội lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình diện vĩ mô (vị trí của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể được đánh giá qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài (doanh nghiệp FDI). Nhưng hai loại doanh nghiệp này không phải lúc nào cũng hoạt động độc lập mà bổ sung nhau trong nhiều trường hợp, đặc biệt là nếu có chính sách, chiến lược đúng đắn thì sẽ có tác động tích cực từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp vốn trong nước.

Trên phương diện phân tích kinh tế, đất đai, lao động và tư bản là những yếu tố sản xuất chính, nhưng những nguồn lực (resources) khác như công nghệ, tri thức quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức, v.v., còn quan trọng hơn. Để phân tích được, ở đây ta cần giới hạn vào những nguồn lực mà nội lực và ngoại lực có quan hệ mật thiết với nhau, hoặc bổ sung hoặc thay thế. Những nguồn lực như vậy có thể gồm tư bản, công nghệ, năng lực quản lý, kinh doanh. Cùng với vốn và công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp và được gọi chung là nguồn lực kinh doanh. Như vậy, vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh là ba yếu tố quan trọng để kinh tế phát triển và cũng là những yếu tố nhìn được cả hai mặt nội lực và ngoại lực.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là kênh quan trọng nhất tổng hợp được hết các nguồn ngoại lực. Chính sách khôn ngoan là tận dụng tối đa FDI để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, đồng thời đẩy mạnh liên kết (linkage) giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, một hình thức dùng ngoại lực để tăng nội lực. Hình thái liên kết phổ biến nhất với công ty FDI là liên kết hàng dọc, trong đó công ty trong nước tạo quan hệ ổn định để cung cấp các sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho doanh nghiệp FDI, qua đó được các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý.

Việc liên kết này càng được mở rộng sẽ làm cho nền công nghiệp cả nước càng tiến về thượng nguồn trong chuỗi giá trị. Trên thực tế, đánh giá FDI tại Việt Nam trên bình diện vĩ mô và phân tích cụ thể hai ngành may mặc và lắp ráp xe máy, ta thấy Việt Nam còn có khuynh hướng cảnh giác ngoại lực, chưa tận dụng ngoại lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá và chưa tạo sự liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Hàm ý về chính sách ở đây là cần tạo môi trường thuận lợi để có thể tận dụng tối đa FDI mà không sợ kinh tế bị các công ty đa quốc gia chi phối, và việc lành mạnh hoá doanh nghiệp nhà nước và tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân phát triển là những tiền đề cần thiết để dùng ngoại lực tăng cường nội lực. Các chính sách hạn chế hoạt động của doanh nghiệp FDI đều làm giảm hiệu quả của ngoại lực trong quá trình tăng cường nội lực.

Ngoài liên kết hàng dọc, các công ty trong nước có thể đẩy mạnh liên kết hàng ngang với các công ty đa quốc gia, nhất là những công ty chưa đến đầu tư ở Việt Nam. Liên kết hàng ngang là tiến hành hợp tác với các công ty đa quốc gia về nhiều mặt để sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới; lúc đầu có thể sản xuất và cung cấp dưới thương hiệu của công ty nước ngoài, xuất khẩu theo mạng lưới của công ty nước ngoài (gọi chung là OEM: Original Equipment Manufacturing), nhưng dần dần tự mình thiết kế sản phẩm (sản xuất theo hình thức ODM: Own Design Manufacturing), tạo ra những sản phẩm độc đáo để chào hàng với công ty đa quốc gia, sản phẩm càng độc đáo càng có ưu thế trong việc thương lượng với họ, và cuối cùng tiến đến giai đoạn xây dựng thương hiệu, làm chủ hoàn toàn sản phẩm công nghiệp (gọi là OBM: Own Brand Manufacturing), không còn tuỳ thuộc vào công ty đa quốc gia. Quá trình chuyển từ OEM sang ODM rồi đến OBM là quá trình tự lập của các công ty trong nước, lúc đầu dựa vào ngoại lực để dần dần củng cố nội lực để cuối cùng tự lập hoàn toàn.

Thông tin, tổ chức, khám phá và tiếp cận thị trường

Một vấn đề quan trọng chưa bàn đến là làm sao tìm được thị trường và chuyển đến thị trường đó những hàng công nghiệp sản xuất tại Việt Nam. Giá thành và chất lượng dĩ nhiên là những yếu tố quan trọng nhưng chưa đủ để làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Yếu tố cơ chế và nghệ thuật tổ chức trong việc khám phá và tiếp cận thị trường cũng quan trọng không kém.

Để thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp, ngoài các chính sách, biện pháp phân tích ở trên, cần một số biện pháp để tăng khả năng tổng hợp về khám phá và tiếp cận thị trường thế giới. Khả năng này bao gồm năng lực thu thập và phân tích thông tin thị trường, năng lực khám phá và tiếp cận thị trường, năng lực tiếp thị và giao hàng với hiệu quả nhanh và phí tổn thấp.

Để có khả năng tổng hợp này cần ba điều kiện: Một là cơ sở hậu cần trong nước về thông tin thị trường thế giới phải có quy mô lớn và nhất là thông tin phải được đưa nhanh đến những nơi cần đến nó. Hai là phải có những công ty thương mại tổng hợp lớn, hoạt động có hiệu quả, có sức chịu đựng rủi ro lớn, và nhất là biết tận dụng, điều động các cơ hội về thị trường, về bảo hiểm, về tín dụng quốc tế để đưa hàng công nghiệp Việt Nam đến các thị trường với phí tổn thấp mà bảo đảm các yêu cầu về giao hàng và duy trì chất lượng. Ba là phải có mạng lưới thông tin giăng bủa khắp nơi, chí ít là trên các thị trường lớn. So với Nhật Bản vào thời điểm 50 năm trước đây hoặc so với Hàn Quốc 30 năm trước, khả năng của ta hiện nay về ba điều kiện này hầu như không đáng kể. Nói khác đi, Việt Nam còn quá yếu về cả hai yếu tố tổ chức và cơ chế. Phải có chính sách xây dựng, củng cố các yếu tố này mới thực hiện thành công được chiến lược công nghiệp hoá trong giai đoạn tới.

Tại Việt Nam hiện nay, thông tin về thị trường thế giới có quá ít và doanh nghiệp khó tiếp cận với các thông tin đó. Chính phủ có lập Cục xúc tiến thương mại trong Bộ Thương mại, nhưng cơ cấu còn rất yếu, quy mô hoạt động rất nhỏ, hầu như chưa có một cơ sở nào ở nước ngoài.

Cho đến nay, Cục này mới hỗ trợ một số hoạt động xuất khẩu hàng thủ công, mỹ nghệ hoặc nông phẩm. So với nhu cầu đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp hiện nay và so với kinh nghiệm phát triển của Nhật hay Hàn Quốc, quy mô và chức năng của Cục xúc tiến thương mại rõ ràng chưa đáp ứng nhu cầu. Việt Nam cần nhanh chóng thành lập một trung tâm thu thập, phân tích và phổ biến thông tin về thị trường và công nghệ thế giới để giúp doanh nghiệp triển khai chiến lược tiếp thị, đẩy mạnh xuất khẩu và chọn lựa, du nhập công nghệ nước ngoài.

Hiện nay, thông tin về thị trường thế giới ở nước ta quá rời rạc, phân tán và chưa phong phú, sự hợp tác giữa các cơ quan, các xí nghiệp trong việc trao đổi thông tin cũng chưa được chú trọng. Nên nghiên cứu việc thành lập một tổ chức như JETRO của Nhật vừa đảm nhận vai trò tổ chức các mạng lưới về thị trường và công nghệ tại nhiều nước, vừa là trung tâm phân tích và phổ biến thông tin về thị trường và công nghệ thế giới.

Về mặt tổ chức, Việt Nam chưa có công ty chủ lực chuyên môn xuất khẩu. Các công ty có thành tích xuất khẩu cao đều là các xí nghiệp sản xuất tự mình khám phá và tiếp cận thị trường. Hiện nay ít có công ty có cơ sở ở nước ngoài để tiếp cận các thông tin về thị trường và công nghệ, đồng thời hỗ trợ hoạt động xuất khẩu. Việt Nam chỉ dựa vào bộ phận thương mại ở các đại sứ quán mà ta đã biết là chức năng và nhân lực rất hạn chế. Cần nghiên cứu đưa ra chính sách khuyến khích thành lập một số tổng công ty ngoại thương có những cơ năng như các công ty thương mại tổng hợp của Nhật. Ta đã có nhiều tổng công ty nhưng hầu hết là đơn ngành (Tổng công ty thép, Tổng công ty may mặc chẳng hạn) nên bộ phận phụ trách ngoại thương của mỗi tổng công ty không thể có khả năng tổng hợp lớn trong việc điều tra và tiếp thị trên thương trường quốc tế. Hơn lúc nào hết, ngay bây giờ Việt Nam phải củng cố các yếu tố cơ chế và tổ chức để tạo nên một lực lượng tổng hợp mới thành công trong việc khám phá và tiếp cận thị trường thế giới.

Ngoài ra, để giảm chi phí tiếp cận thị trường thế giới, cần phải giảm phí tổn hành chính và dịch vụ liên quan đến lưu thông, phân phối. Nói khác đi, để tăng năng lực cạnh tranh phải làm cho Việt Nam trở thành những cứ điểm sản xuất và lưu thông có hiệu suất. Cứ điểm sản xuất và lưu thông có hiệu suất là nơi bảo đảm sản xuất một sản phẩm với giá thành (cost) rẻ (nhờ chi phí lao động, chi phí đầu vào thấp), chất lượng (quality) cao và giao hàng (delivery) đúng thời hạn.

Phân tích ở các phần trên liên quan đến giá thành và chất lượng, ở đây còn lại vấn đề giao hàng. Giao hàng là công việc của nhà sản xuất, của công ty thương mại, nhưng yếu tố quy định giao hàng là môi trường lưu thông trong đó hạ tầng phần cứng (hệ thống giao thông, bến cảng, thông tin, v.v.) và phần mềm (thủ tục hành chính, thủ tục thuế quan, luật lệ, quy định, v.v.) có vai trò quyết định. Thủ tục hành chính, thuế quan tại Việt Nam rất chậm được cải thiện và đang làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam. Về hạ tầng phần cứng, Việt Nam cần đặc biệt tập trung đầu tư nâng cấp một số bến cảng quan trọng. Tình hình hiện nay là đầu tư quá dàn trải, tỉnh nào ở ven biển cũng đều có bến cảng nên công suất sử dụng thấp và không có các bến cảng có quy mô ngang hàng với các nước trong khu vực.

Tinh thần doanh nghiệp

Để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, vai trò của doanh nghiệp cần được phát huy. Nhưng doanh nghiệp hay doanh nhân cần một tố chất quan trọng, đó là tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship).

Trên đây ta đã có dịp nói về khái niệm nguồn lực kinh doanh (managerial resource). Nguồn lực kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm công nghệ đã tích luỹ, thương hiệu đã xác lập, nguồn nhân lực xây dựng trong nội bộ doanh nghiệp, năng lực nghiên cứu hoặc hấp thu công nghệ mới, năng lực quản lý, năng lực khám phá thị trường, năng lực tiếp thị, v.v.. Nói chung, đây là nguồn lực mà càng tích luỹ được nhiều thì doanh nghiệp càng phát triển mạnh. Hay nói khác đi, doanh nghiệp muốn phát triển phải không ngừng tích luỹ nguồn lực kinh doanh.

Tuỳ theo giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà phương pháp, chiến lược tích luỹ nguồn lực kinh doanh cũng khác. Khi doanh nghiệp còn non trẻ, bản lĩnh và năng lực của cá nhân người lãnh đạo công ty rất quan trọng vì cá nhân đó ở giai đoạn này là tài sản (asset) quan trọng nhất của doanh nghiệp. Bản lĩnh và năng lực của cá nhân đó sẽ quy tụ được nhân tài và tạo uy tín xã hội của doanh nghiệp, những yếu tố cần thiết làm cơ sở cho các nguồn lực kinh doanh. Sau khi doanh nghiệp phát triển một bước lớn sẽ có nhiều cơ hội đẩy nhanh quá trình tích luỹ các nguồn lực kinh doanh. Ngoài việc đầu tư cho nguồn nhân lực, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể chọn các hình thái liên kết (linkage) hàng dọc hoặc hàng ngang với các công ty đa quốc gia để có thể làm cho quá trình tích luỹ tiến nhanh. Nói chung, để liên tục tăng cường năng lực kinh doanh và sử dụng có hiệu quả năng lực đó, nhà kinh doanh, người lãnh đạo công ty phải có tinh thần doanh nghiệp.

Một lãnh đạo công ty được xem là người có tinh thần doanh nghiệp nếu người đó có các đặc tính sau: trước hết, đó là nỗ lực tìm kiếm và áp dụng cái mới, tinh thần luôn đổi mới để khám phá và sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, sản xuất bằng phương pháp mới, tìm kiếm thị trường mới. Các hoạt động này được gọi chung là cách tân công nghệ (innovation). Thứ hai là thái độ tích cực đầu tư, tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng chịu đựng rủi ro. Thương trường vốn nhiều rủi ro, bất trắc, nếu không mạo hiểm thì không thể thành công. Tất nhiên, mạo hiểm không có nghĩa là làm liều, không tính toán. Phải có trí tuệ, có óc nhìn xa trông rộng về tương lai và dựa trên những phân tích có căn cứ mới tránh hoặc giảm rủi ro. Thứ ba, ý thức mưu tìm lợi nhuận (profit seeking), chứ không phải mưu tìm đặc lợi (rent seeking) cũng là yếu tố quan trọng tạo nên tinh thần doanh nghiệp.

Mưu tìm đặc lợi là lợi dụng cơ chế xin cho để mua chuộc những người có chức có quyền, qua đó kiếm được những cái lợi lớn mà không mất nhiều công sức trong kinh doanh. Người có tinh thần doanh nghiệp chỉ mưu tìm lợi nhuận chân chính và do đó hàm chứa tính chất cao thượng trong hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận chân chính là thành quả của nỗ lực khám phá công nghệ, khám phá thị trường cho những sản phẩm mới, hoặc cải tiến quản lý, khám phá phương pháp sản xuất mới để giảm giá thành sản phẩm, mở rộng thị phần. Người có tinh thần doanh nghiệp không màng đến cái lợi trước mắt, có hoài bão, lý tưởng, quyết đem tài năng của mình góp phần biến cải xã hội, thay đổi được cuộc sống của mọi người.

Do đó, trong một đất nước còn nghèo khó, người có tinh thần doanh nghiệp còn là người yêu nước. Kinh nghiệm của Nhật cũng cho thấy điều đó. Thứ tư, một khi kinh doanh mang đủ các yếu tố trên, nhất là yếu tố thứ ba, thì đồng thời nó thể hiện rõ tính chất đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, đạo đức kinh doanh là kết quả tổng hợp của ba yếu tố kể trên. Người có tinh thần doanh nghiệp do vậy được xã hội kính nể, công ty của họ được xã hội ngưỡng mộ, tin cậy và nhiều khi được xem là tài sản chung của cả xã hội.

Để khởi động và thành công trong quá trình công nghiệp hoá, Việt Nam đang rất cần những nhà doanh nhân có tinh thần doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách, cơ chế nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bãi bỏ các cơ chế xin cho, có hình thức biểu dương những doanh nghiệp thành công. Sau khi Luật doanh nghiệp mới đi vào hiệu lực (ngày 1-1-2000), số doanh nghiệp thành lập tăng nhanh, chứng tỏ Việt Nam có nhiều nhà doanh nghiệp tiềm năng, sẳn sàng hưởng ứng tích cực khi nhà nước cởi trói các cơ chế ràng buộc họ trước đây.

Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân hiện nay còn gặp khó khăn trong việc triển khai kinh doanh, nhất là khó khăn trong việc tiếp cận với vốn đầu tư dài hạn và việc thuê đất. Nhà nước cần có chính sách thích đáng để các khó khăn này được giải quyết nhanh, tránh sự đối xử phân biệt giữa công ty nhà nước và công ty tư nhân. Ngoài ra, cần hình thành loại vốn mạo hiểm (venture capital) để cung cấp, đầu tư cho những dự án quá mới, có độ rủi ro cao. Xã hội Việt Nam đang chờ đợi sự xuất hiện những doanh nhân có tầm vóc quốc tế, đem lại vinh dự cho người Việt Nam và góp phần thúc đẩy vị trí của Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Thông tin, tri thức, và công nghiệp hoá nông thôn

Gần đây, ở Việt Nam nói nhiều về thời đại công nghệ thông tin, thời đại kinh tế tri thức. Các vấn đề này gợi ý gì cho chiến lược công nghiệp hoá của một nước đông dân, lao động dư thừa, và phần lớn lao động làm trong nông nghiệp? Từ góc độ phát triển trong công bằng mà nội dung cốt lõi là có chiến lược phát triển tạo nhiều cơ hội làm việc và tạo điều kiện để mọi người dân tiếp cận bình đẳng các cơ hội đó, hay nói khác đi là tạo điều kiện để mọi người tham gia vào quá trình phát triển, ta cần nhìn vấn đề công nghệ thông tin và kinh tế tri thức trên một bình diện rộng.

Ta có thể hình dung một mô hình phát triển ba khu vực: Khu vực nông nghiệp (A) dựa trên hai yếu tố sản xuất là đất đai và lao động giản đơn, khu vực công nghiệp (I) dựa trên lao động và tư bản, và khu vực có hàm lượng thông tin, tri thức cao (K). Phát triển kinh tế trong khung phân tích này là quá trình di chuyển lao động từ A sang I (như trong mô hình hai khu vực thường thấy trong sách giáo khoa của kinh tế phát triển), và quá trình thu hút lao động tri thức vào khu vực K. Khu vực K thu hút một phần lao động từ khu vực I nhưng chủ yếu tiếp nhận lực lượng lao động mới từ thị trường. Điều cần nhấn mạnh là sự quan trọng của giáo dục cơ bản, của việc phổ cập thông tin, tri thức để lao động từ A có thể di chuyển sang I. Ngoài ra, cần phát triển cả công nghệ thông tin phần cứng, song song với việc đẩy mạnh phát triển khu vực có hàm lượng cao về tri thức, về công nghệ thông tin phần mềm.

Để phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá của cả nước nói chung, kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nông nghiệp thường phát triển (tăng năng suất lao động và năng suất đất, đa dạng hoá sản phẩm theo hướng tăng giá trị gia tăng, v.v.) trước một bước để có tích luỹ đầu tư cho công nghiệp, để tăng sức mua ở nông thôn cho hàng công nghiệp và có thể liên tục cung cấp lao động cho công nghiệp mà không giảm sản lượng nông nghiệp.

Tuy nhiên, trong thời đại thông tin và toàn cầu hoá ngày nay, nếu xây dựng tốt cơ sở hạ tầng phần cứng và phần mềm, có thể tiến hành đồng thời công nghiệp hoá và phát triển nông nghiệp vì sẽ có nhiều tác nhân (agent) xuất hiện, đưa vốn và công nghệ từ các vùng đô thị trong nước hoặc từ nước ngoài tới, và đưa hàng công nghiệp nông thôn đến các thị trường trong nước và nước ngoài.

Về cơ sở hạ tầng phần cứng, cần đầu tư nâng cấp các thị trấn, thị tứ ven biển và đặc biệt tăng cường xây dựng hệ thống giao thông nối với các huyện, xã trong các tỉnh. Chiến lược ở đây là kết hợp công nghiệp hoá nông thôn với việc phát triển các đô thị lân cận. Song song với nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng phần cứng, cần quan tâm xây dựng cở sở hạ tầng phần mềm tại các thị trấn, thị tứ ven biển.

Cụ thể, cần xây dựng các trung tâm thông tin kinh tế tại các thị trấn. Các trung tâm này sẽ thu thập, lưu trữ, phổ biến thông tin về sản phẩm, về hoạt động của doanh nghiệp địa phương, đồng thời cũng là nơi lưu trữ, phổ biến thông tin về thị trường trong nước và thế giới liên quan đến vốn, công nghệ, hàng hoá mà doanh nghiệp và chính quyền địa phương quan tâm. Ngoài ra các trung tâm tư vấn kinh tế cũng rất cần được phát triển để làm đầu mối cho những tác nhân đem thông tin, công nghệ và tri thức quản lý kinh doanh từ các thành phố lớn trong nước và nước ngoài. Mặt khác, các công ty tư vấn về kế toán, thuế vụ, v.v.. cũng phải được hình thành tại các trị trấn, thị tứ địa phương để hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.

Ngoài các cơ sở xí nghiệp nhà nước và tập thể đã có, nên đặc biệt khuyến khích tư nhân đầu tư vào các lãnh vực tận dụng lao động (nhóm A) hoặc nguyên liệu và các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp địa phương (nhóm B). Đồng thời tạo điều kiện để các công ty lớn thuộc nhóm B ở các thành phố lớn lập các công ty vệ tinh ở nông thôn hoặc ở các thị trấn lân cận. Thật ra, khi các cơ cở hậu cần phần cứng và phần mềm được thiết lập và các chính sách ưu đãi phát triển công nghiệp được ban hành thì các tác nhân trong nước và thế giới sẽ đến kết hợp các cơ hội ở nông thôn với thị trường thế giới, kể cả hình thái đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Để xây dựng chiến lược công nghiệp hoá nông thôn cần có một cách tiếp cận mới. Hai yếu tố thông tin và tổ chức cần được nhấn mạnh. Có hai yếu tố này sẽ giải quyết được các vấn đề vốn, công nghệ và thị trường cho công nghiệp hoá nông thôn. Thấy được sự quan trọng của hai yếu tố thông tin và tổ chức mới đề ra được chiến lược thích hợp.

Tóm lại, để đối phó hữu hiệu với các thách thức tại vùng Đông Á và phát huy các cơ hội phát triển của vùng này, nhà nước cần thấy rõ vị trí của công nghiệp Việt Nam ở vùng này và đề ra các chiến lược thích hợp.

 

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Trần Văn Thọ