Những bài cùng tác giả
Tổng luận
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chiến lược dài hạn của Việt Nam với mục
tiêu là đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, con đường công nghiệp hoá của Việt
Nam đang mở ra trong một bối cảnh khu vực và quốc tế như thế nào? Để thành
công trên con đường này Việt Nam cần một chiến lược như thế nào? Những biện
pháp, chính sách để thực hiện chiến lược đó là gì?
Thách thức và cơ hội ở Đông Á
Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả bề sâu và bề
rộng tại Đông Á và các nước trong vùng này nối đuôi nhau trong quá trình
phát triển. Vì điều kiện lịch sử, Việt Nam đã mất phần lớn của nửa sau thế
kỷ này về phương diện phát triển kinh tế. Công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam
hội nhập vào làn sóng công nghiệp trong khu vực từ đầu thập niên 1990 nhưng
vào đầu thế kỷ XXI, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một khoảng cách
lớn về trình độ phát triển. Mặt khác, hiện nay vẫn còn hơn 60% lực lượng lao
động còn trong nông nghiệp, công nghiệp mới thu hút chỉ hơn 10% số lao động
có việc làm trên toàn quốc. Ngoài ra còn có hơn 400.000 lao động đang làm
việc ở nước ngoài, trong đó nhiều người làm việc trong những điều kiện khó
khăn nên nếu trong nước có nhiều cơ hội làm việc, đa số họ sẽ không chọn con
đường lao động ở xứ người. Như vậy, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hoá
để phát triển nhanh hơn, để thu hút lao động nhiều hơn, tạo tiền đề rút ngắn
khoảng cách với các nước. Công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên tạo ra công ăn
việc làm còn góp phần lớn vào việc thực hiện công bằng xã hội.
Nhưng công nghiệp hoá Việt Nam sẽ trực diện những thách thức nào và cơ hội
nếu có sẽ đến từ đâu? Thương trường của Việt Nam đang mở rộng ra khắp thế
giới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, khuynh hướng này sẽ càng mạnh hơn. Tuy
nhiên, có thể nói trong giai đoạn trước mắt, thách thức trực tiếp và cũng là
cơ hội đối với công nghiệp Việt Nam là ở vùng Đông Á. Tại đây, hai trào lưu
đang nổi cộm và sẽ tác động đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam, đó
là sự biến động trong làn sóng công nghiệp Đông Á và khuynh hướng tự do
thương mại trong vùng. Hiểu đúng tính chất và tác động của hai trào lưu này
để xác định được phương hướng chiến lược cho công nghiệp hoá trong giai đoạn
tới là vấn đề tối quan trọng của kinh tế Việt Nam hiện nay.
Phân tích bản đồ kinh tế Đông Á cho thấy Việt Nam đang đi sau khá xa các
nước chung quanh về trình độ phát triển công nghiệp, thể hiện trong sự cách
biệt về tỷ lệ hàng công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ sản phẩm máy móc các loại
trong tổng xuất khẩu, thể hiện trong chỉ số cạnh tranh của những ngành công
nghiệp chủ yếu và trong cơ cấu phân công lao động giữa Việt Nam với các nước
này.
Ngoài ra, Việt Nam phải nhập siêu nhiều với hầu hết các nước đó. Không kể
một số nước mới gia nhập ASEAN, Việt Nam là nước đi sau cùng trong quá trình
công nghiệp hoá ở vùng Đông Á. Nhưng chiến lược đuổi bắt của Việt Nam trong
quá trình đó đang trực diện hai thách thức lớn: Thứ nhất là ảnh hưởng của
kinh tế Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc vừa lớn về quy mô vừa nhanh về tốc độ
tăng trưởng, giai đoạn phát triển và cơ cấu tài nguyên, cơ cấu kinh tế lại
tương đối gần với Việt Nam. Trung Quốc ngày càng cạnh tranh mạnh trong hầu
hết các loại hàng công nghiệp. Thách thức thứ hai là mặc dù cơ cấu và sức
cạnh tranh của công nghiệp còn yếu, Việt Nam phải sớm thực hiện tự do hoá
thương mại với các nước trong khu vực.
Đến nửa sau của năm 2006 về căn bản phải hoàn thành chương trình cắt giảm
thuế trong khuôn khổ thực hiện Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và chậm
lắm là năm 2015 phải hoàn thành chương trình tự do thương mại với Trung Quốc
trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa nước này với khối
ASEAN. Đối với Việt Nam, sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc đang trở thành
một thách thức lớn và FTA Trung Quốc-ASEAN sẽ làm cho thách thức đó càng
mạnh hơn.
Mặt khác, AFTA và sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc không phải chỉ là thách
thức mà còn là cơ hội cho thị trường của hàng xuất khẩu Việt Nam (năm 2004,
ASEAN nhập khẩu hơn 450 tỷ và Trung Quốc nhập khẩu 561 tỷ USD), nhất là
trong thể chế tự do thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, Nhật Bản, Hàn Quốc và
các nước ASEAN đã phát triển là những nước chủ yếu tận dụng được cơ hội của
thị trường Trung Quốc. ASEAN là nơi tranh giành thị phần giữa Nhật, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Đài Loan… Việt Nam mới chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc
và ASEAN hàng nguyên liệu và nông phẩm; hàng công nghiệp thì rất ít.
Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại,
Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có
khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên
thị trường khu vực và thế giới. Muốn vậy, phải xác định được những ngành có
lợi thế so sánh, chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình mới và
tận dụng ngoại lực để vừa làm tăng nội lực vừa nhanh chóng tăng năng lực
cạnh tranh.
Tìm lợi thế so sánh động và chuyển hướng chiến lược
Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế có ngay bây giờ, có ngành đã được phát huy,
cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhưng cũng có ngành chưa được
phát huy do môi trường hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Lợi thế
so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa,
khi các điều kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích luỹ tư
bản cho phép. Nếu có chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều
kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện
thực.
Để dễ phân tích, ta có thể chia các ngành công nghiệp thành năm nhóm: Nhóm A
là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn, như
vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v..
Nhóm B là những ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa sử dụng nhiều nguyên
liệu nông lâm thuỷ sản như thực phẩm gia công các loại, đồ uống, v.v.. Nhóm
C là những ngành có hàm lượng tư bản cao và dựa vào nguồn tài nguyên khoáng
sản như thép, hoá dầu, luyện nhôm...
Nhóm D là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động lành
nghề, lao động có kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau, như đồ điện,
điện tử gia dụng, xe máy, máy bơm nước và các loại máy móc khác, các loại bộ
phận, linh kiện điện tử, v.v.. Nhóm E là những ngành công nghiệp có hàm
lượng công nghệ cao như máy tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện, bộ
phận điện tử cao cấp, v.v..
Mỗi ngành lại có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn (up-stream)
gồm các công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận
linh kiện chính; trung nguồn (mid-stream) là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ
nguồn (down-stream) là tiếp thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và
tiếp cận thị trường. Ba giai đoạn này kết hợp thành một chuỗi giá trị
(value-chain) của một sản phẩm.
Trên thị trường thế giới, Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trong nhóm A và
các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Thái Lan và các nước ASEAN đã phát triển
có lợi thế trong nhóm B và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Cả Trung Quốc
và các nước ASEAN phát triển đang tiến lên khá cao ở thượng nguồn của chuỗi
giá trị trong các ngành thuộc nhóm D. Nhật và các nền kinh tế công nghiệp
hoá mới (NIEs) như Hàn Quốc, Đài Loan… còn duy trì lợi thế so sánh trong
nhóm E nhưng tăng cường mạng lưới sản xuất khắp cả vùng Đông Á, do đó Trung
Quốc và các nước ASEAN cũng tham gia ngày càng sâu vào các ngành trong nhóm
này. Nói chung, các nhóm D và E gồm những ngành liên quan đến các loại máy
móc, và đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong sự phân công ở khu vực
Đông Á.
Nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh. Nhưng
trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hiện nay Việt Nam mới tập
trung ở trung nguồn của chuỗi giá trị và chủ yếu dựa vào lao động giản đơn.
Các giai đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị phần lớn phụ thuộc nước ngoài.
Việt Nam cần nỗ lực tiến về thượng và hạ nguồn mà việc liên kết chiến lược
với các công ty nước ngoài như sẽ nói dưới đây là một trong những biện pháp
hữu hiệu. Nhưng dù sao các ngành này vẫn là nhóm thuộc các ngành Việt Nam có
lợi thế so sánh tĩnh.
Vấn đề quan trọng hơn là Việt Nam phải xác định được những lĩnh vực mà nhu
cầu thế giới đang tăng đồng thời xét ra Việt Nam có lợi thế so sánh động.
Phát triển các ngành này sẽ làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất và xuất
khẩu trong tương lai không xa. Vấn đề khẩn cấp đối với Việt Nam hiện nay là
xác định được những ngành hội đủ hai điều kiện đó và từ đó đưa ra các chính
sách tạo ra các tiền đề, các điều kiện để tiềm năng biến thành hiện thực.
Phân tích nhu cầu thế giới và tham khảo sự đánh giá của các công ty đa quốc
gia về tiềm năng của Việt Nam, tôi cho rằng các ngành thuộc nhóm D và một
phần trong nhóm E, đặc biệt là đồ điện, điện tử gia dụng và các loại máy móc
liên quan công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện thoại di động là
những ngành có đủ hai điều kiện nêu trên.
Nhưng để đẩy mạnh phát triển các ngành này, Việt Nam phải giải quyết vấn đề
cơ bản hiện nay là sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ. Phải xem
đây là mũi đột phá chiến lược và dồn tất cả các năng lực về chính sách cho
mũi đột phá này. Chẳng hạn, rà soát lại các doanh nghiệp nhà nước để tìm ra
các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp các bộ phận, linh kiện, phụ kiện
với chất lượng và giá thành cạnh tranh, từ đó tăng cường hỗ trợ về vốn, công
nghệ, v.v., để tiềm năng trở thành hiện thực; xây dựng chế độ tưởng thưởng
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp
có vốn nước ngoài, thành công trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công
nghiệp phụ trợ, v.v..
Nhưng quan trọng hơn cả là phải chuyển hướng chiến lược liên quan đến các
ngành nhóm D và E. Chính sách hiện nay của Việt Nam là bảo hộ các sản phẩm
nguyên chiếc (tivi, tủ lạnh, xe máy, xe hơi, v.v. ) với thuế quan cao và
buộc các công ty lắp ráp tăng dần tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm
công nghiệp phụ trợ. Nói chung, đây là chiến lược thay thế nhập khẩu mà biện
pháp là thiết lập hàng rào quan thuế khá cao ở cả sản phẩm nguyên chiếc và
bộ phận, linh kiện. Nhưng với việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
AFTA, Việt Nam sẽ phải thực hiện tự do hoá thương mại với ASEAN từ nửa sau
năm 2006.
Tại các nước ASEAN đã phát triển, đặc biệt là Thái Lan và Malaixia, quy mô
sản xuất của các loại hàng công nghiệp đó rất lớn nên giá thành rẻ hơn Việt
Nam nhiều. Một khi được tự do nhập khẩu vào Việt Nam, sản phẩm cùng loại của
ta sẽ bị đẩy lùi. Bộ phận, linh kiện nhập từ ASEAN cũng sẽ rẻ vì được miễn
thuế nhưng những linh kiện, bộ phận nhập từ các nước khác vẫn chịu phí tổn
cao nếu chính sách của Việt Nam không thay đổi. Tình hình này có thể đưa đến
khả năng các công ty đa quốc gia di chuyển những cơ sở lắp ráp tại Việt Nam
sang các nước ASEAN khác. Để tránh trường hợp này, Việt Nam cần chuyển ngay
chiến lược từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu những sản phẩm
nguyên chiếc mà biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng
cách bãi bỏ thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận. Nói cách khác, nên dùng cơ
chế thị trường thay cho chính sách cưỡng chế nội địa hoá để xây dựng ngành
công nghiệp phụ trợ. Tại sao như vậy?
Để xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, trong quá khứ cũng có nhiều nước
đã áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nhập khẩu, nhưng chính
sách này phải đồng thời đi liền với chính sách bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc.
Việt Nam ngày nay không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì phải theo một
chiến lược khác. Chính sách tối ưu hiện nay là phải nhanh chóng tăng năng
lực cạnh tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô sản
xuất trong nước tăng nhanh, tạo điều kiện để các công ty cung cấp sản phẩm
công nghiệp phụ trợ đầu tư lớn. Đồ điện, điện tử gia dụng là những loại máy
móc gồm nhiều công đoạn nên có sự phân công hàng ngang giữa các nước trong
việc sản xuất và cung cấp cho nhau các linh kiện, bộ phận.
Tuy nhiên, phần đông công nghệ sản xuất đã tiêu chuẩn hoá và ít sai biệt về
độ sâu lao động hay tư bản. Do đó, các doanh nghiệp có khuynh hướng tích cực
nội địa hoá linh kiện, bộ phận khi lượng sản xuất đạt quy mô kinh tế. Thêm
vào đó, khi sản phẩm nguyên chiếc sản xuất cả cho thị trường thế giới thì
các công ty lắp ráp phải thường xuyên thay đổi cơ năng, mẫu mã, kiểu dáng
của sản phẩm. Điều này buộc họ phải luôn bảo đảm một sự cơ động, mềm dẻo
trong việc quản lý dây chuyền cung cấp các sản phẩm phụ trợ và do đó phải
tăng tỷ lệ nội địa hoá, chủ động tham gia xây dựng các cụm công nghiệp.
Tóm lại, ngay từ bây giờ Việt Nam phải chủ động chuyển sang chiến lược hướng
ngoại, cho tự do nhập khẩu linh kiện, bộ phận và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm
nguyên chiếc. Sau khi hoàn thành chương trình thực hiện AFTA, chính sách
thay thế nhập khẩu hiện nay sẽ phải thay đổi nhưng đó là thay đổi thụ động
và chỉ áp dụng với các nước ASEAN. Gia nhập WTO cũng không bắt buộc Việt Nam
thay đổi chính sách bảo hộ bằng thuế. Và như đã phân tích, chính sách bảo hộ
hiện nay sẽ không đối phó được với thách thức AFTA. Chỉ có con đường là chủ
động thay đổi chính sách từ bây giờ. Trong thời đại toàn cầu hoá và khu vực
hoá, phải có chiến lược mới và chính sách, biện pháp thích hợp.
Đồng thời với việc chuyển hướng chiến lược, chính sách khôn ngoan trong việc
tận dụng ngoại lực sẽ củng cố nội lực và tăng cường khả năng cạnh tranh của
công nghiệp Việt Nam.
Nội lực, ngoại lực và chiến lược liên kết doanh nghiệp
Để phân tích vấn đề tận dụng ngoại lực và kết hợp có hiệu quả giữa nội lực
và ngoại lực, ta có thể dùng các khái niệm vốn, công nghệ và tri thức quản
lý, kinh doanh. Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là
nguồn lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital resources),
công nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể của từ lực trong
nội lực và ngoại lực. Các nguồn lực này được sử dụng qua hoạt động của các
doanh nghiệp. Do đó, nội lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình
diện vĩ mô (vị trí của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể
được đánh giá qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài (doanh nghiệp FDI). Nhưng hai loại
doanh nghiệp này không phải lúc nào cũng hoạt động độc lập mà bổ sung nhau
trong nhiều trường hợp, đặc biệt là nếu có chính sách, chiến lược đúng đắn
thì sẽ có tác động tích cực từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp vốn trong
nước.
Trên phương diện phân tích kinh tế, đất đai, lao động và tư bản là những yếu
tố sản xuất chính, nhưng những nguồn lực (resources) khác như công nghệ, tri
thức quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức, v.v., còn quan trọng
hơn. Để phân tích được, ở đây ta cần giới hạn vào những nguồn lực mà nội lực
và ngoại lực có quan hệ mật thiết với nhau, hoặc bổ sung hoặc thay thế.
Những nguồn lực như vậy có thể gồm tư bản, công nghệ, năng lực quản lý, kinh
doanh. Cùng với vốn và công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là
những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp và được gọi chung là
nguồn lực kinh doanh. Như vậy, vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh là ba
yếu tố quan trọng để kinh tế phát triển và cũng là những yếu tố nhìn được cả
hai mặt nội lực và ngoại lực.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là kênh quan trọng nhất tổng hợp được hết
các nguồn ngoại lực. Chính sách khôn ngoan là tận dụng tối đa FDI để nhanh
chóng tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, đồng thời đẩy mạnh liên
kết (linkage) giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, một hình
thức dùng ngoại lực để tăng nội lực. Hình thái liên kết phổ biến nhất với
công ty FDI là liên kết hàng dọc, trong đó công ty trong nước tạo quan hệ ổn
định để cung cấp các sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho doanh nghiệp FDI, qua
đó được các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý.
Việc liên kết này càng được mở rộng sẽ làm cho nền công nghiệp cả nước càng
tiến về thượng nguồn trong chuỗi giá trị. Trên thực tế, đánh giá FDI tại
Việt Nam trên bình diện vĩ mô và phân tích cụ thể hai ngành may mặc và lắp
ráp xe máy, ta thấy Việt Nam còn có khuynh hướng cảnh giác ngoại lực, chưa
tận dụng ngoại lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá và chưa tạo sự liên kết hiệu
quả giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.
Hàm ý về chính sách ở đây là cần tạo môi trường thuận lợi để có thể tận dụng
tối đa FDI mà không sợ kinh tế bị các công ty đa quốc gia chi phối, và việc
lành mạnh hoá doanh nghiệp nhà nước và tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân
phát triển là những tiền đề cần thiết để dùng ngoại lực tăng cường nội lực.
Các chính sách hạn chế hoạt động của doanh nghiệp FDI đều làm giảm hiệu quả
của ngoại lực trong quá trình tăng cường nội lực.
Ngoài liên kết hàng dọc, các công ty trong nước có thể đẩy mạnh liên kết
hàng ngang với các công ty đa quốc gia, nhất là những công ty chưa đến đầu
tư ở Việt Nam. Liên kết hàng ngang là tiến hành hợp tác với các công ty đa
quốc gia về nhiều mặt để sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới; lúc
đầu có thể sản xuất và cung cấp dưới thương hiệu của công ty nước ngoài,
xuất khẩu theo mạng lưới của công ty nước ngoài (gọi chung là OEM: Original
Equipment Manufacturing), nhưng dần dần tự mình thiết kế sản phẩm (sản xuất
theo hình thức ODM: Own Design Manufacturing), tạo ra những sản phẩm độc đáo
để chào hàng với công ty đa quốc gia, sản phẩm càng độc đáo càng có ưu thế
trong việc thương lượng với họ, và cuối cùng tiến đến giai đoạn xây dựng
thương hiệu, làm chủ hoàn toàn sản phẩm công nghiệp (gọi là OBM: Own Brand
Manufacturing), không còn tuỳ thuộc vào công ty đa quốc gia. Quá trình
chuyển từ OEM sang ODM rồi đến OBM là quá trình tự lập của các công ty trong
nước, lúc đầu dựa vào ngoại lực để dần dần củng cố nội lực để cuối cùng tự
lập hoàn toàn.
Thông tin, tổ chức, khám phá và tiếp cận thị trường
Một vấn đề quan trọng chưa bàn đến là làm sao tìm được thị trường và chuyển
đến thị trường đó những hàng công nghiệp sản xuất tại Việt Nam. Giá thành và
chất lượng dĩ nhiên là những yếu tố quan trọng nhưng chưa đủ để làm cho sản
phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Yếu tố cơ chế và nghệ thuật
tổ chức trong việc khám phá và tiếp cận thị trường cũng quan trọng không
kém.
Để thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp, ngoài các chính
sách, biện pháp phân tích ở trên, cần một số biện pháp để tăng khả năng tổng
hợp về khám phá và tiếp cận thị trường thế giới. Khả năng này bao gồm năng
lực thu thập và phân tích thông tin thị trường, năng lực khám phá và tiếp
cận thị trường, năng lực tiếp thị và giao hàng với hiệu quả nhanh và phí tổn
thấp.
Để có khả năng tổng hợp này cần ba điều kiện: Một là cơ sở hậu cần trong
nước về thông tin thị trường thế giới phải có quy mô lớn và nhất là thông
tin phải được đưa nhanh đến những nơi cần đến nó. Hai là phải có những công
ty thương mại tổng hợp lớn, hoạt động có hiệu quả, có sức chịu đựng rủi ro
lớn, và nhất là biết tận dụng, điều động các cơ hội về thị trường, về bảo
hiểm, về tín dụng quốc tế để đưa hàng công nghiệp Việt Nam đến các thị
trường với phí tổn thấp mà bảo đảm các yêu cầu về giao hàng và duy trì chất
lượng. Ba là phải có mạng lưới thông tin giăng bủa khắp nơi, chí ít là trên
các thị trường lớn. So với Nhật Bản vào thời điểm 50 năm trước đây hoặc so
với Hàn Quốc 30 năm trước, khả năng của ta hiện nay về ba điều kiện này hầu
như không đáng kể. Nói khác đi, Việt Nam còn quá yếu về cả hai yếu tố tổ
chức và cơ chế. Phải có chính sách xây dựng, củng cố các yếu tố này mới thực
hiện thành công được chiến lược công nghiệp hoá trong giai đoạn tới.
Tại Việt Nam hiện nay, thông tin về thị trường thế giới có quá ít và doanh
nghiệp khó tiếp cận với các thông tin đó. Chính phủ có lập Cục xúc tiến
thương mại trong Bộ Thương mại, nhưng cơ cấu còn rất yếu, quy mô hoạt động
rất nhỏ, hầu như chưa có một cơ sở nào ở nước ngoài.
Cho đến nay, Cục này mới hỗ trợ một số hoạt động xuất khẩu hàng thủ công, mỹ
nghệ hoặc nông phẩm. So với nhu cầu đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp hiện
nay và so với kinh nghiệm phát triển của Nhật hay Hàn Quốc, quy mô và chức
năng của Cục xúc tiến thương mại rõ ràng chưa đáp ứng nhu cầu. Việt Nam cần
nhanh chóng thành lập một trung tâm thu thập, phân tích và phổ biến thông
tin về thị trường và công nghệ thế giới để giúp doanh nghiệp triển khai
chiến lược tiếp thị, đẩy mạnh xuất khẩu và chọn lựa, du nhập công nghệ nước
ngoài.
Hiện nay, thông tin về thị trường thế giới ở nước ta quá rời rạc, phân tán
và chưa phong phú, sự hợp tác giữa các cơ quan, các xí nghiệp trong việc
trao đổi thông tin cũng chưa được chú trọng. Nên nghiên cứu việc thành lập
một tổ chức như JETRO của Nhật vừa đảm nhận vai trò tổ chức các mạng lưới về
thị trường và công nghệ tại nhiều nước, vừa là trung tâm phân tích và phổ
biến thông tin về thị trường và công nghệ thế giới.
Về mặt tổ chức, Việt Nam chưa có công ty chủ lực chuyên môn xuất khẩu. Các
công ty có thành tích xuất khẩu cao đều là các xí nghiệp sản xuất tự mình
khám phá và tiếp cận thị trường. Hiện nay ít có công ty có cơ sở ở nước
ngoài để tiếp cận các thông tin về thị trường và công nghệ, đồng thời hỗ trợ
hoạt động xuất khẩu. Việt Nam chỉ dựa vào bộ phận thương mại ở các đại sứ
quán mà ta đã biết là chức năng và nhân lực rất hạn chế. Cần nghiên cứu đưa
ra chính sách khuyến khích thành lập một số tổng công ty ngoại thương có
những cơ năng như các công ty thương mại tổng hợp của Nhật. Ta đã có nhiều
tổng công ty nhưng hầu hết là đơn ngành (Tổng công ty thép, Tổng công ty may
mặc chẳng hạn) nên bộ phận phụ trách ngoại thương của mỗi tổng công ty không
thể có khả năng tổng hợp lớn trong việc điều tra và tiếp thị trên thương
trường quốc tế. Hơn lúc nào hết, ngay bây giờ Việt Nam phải củng cố các yếu
tố cơ chế và tổ chức để tạo nên một lực lượng tổng hợp mới thành công trong
việc khám phá và tiếp cận thị trường thế giới.
Ngoài ra, để giảm chi phí tiếp cận thị trường thế giới, cần phải giảm phí
tổn hành chính và dịch vụ liên quan đến lưu thông, phân phối. Nói khác đi,
để tăng năng lực cạnh tranh phải làm cho Việt Nam trở thành những cứ điểm
sản xuất và lưu thông có hiệu suất. Cứ điểm sản xuất và lưu thông có hiệu
suất là nơi bảo đảm sản xuất một sản phẩm với giá thành (cost) rẻ (nhờ chi
phí lao động, chi phí đầu vào thấp), chất lượng (quality) cao và giao hàng
(delivery) đúng thời hạn.
Phân tích ở các phần trên liên quan đến giá thành và chất lượng, ở đây còn
lại vấn đề giao hàng. Giao hàng là công việc của nhà sản xuất, của công ty
thương mại, nhưng yếu tố quy định giao hàng là môi trường lưu thông trong đó
hạ tầng phần cứng (hệ thống giao thông, bến cảng, thông tin, v.v.) và phần
mềm (thủ tục hành chính, thủ tục thuế quan, luật lệ, quy định, v.v.) có vai
trò quyết định. Thủ tục hành chính, thuế quan tại Việt Nam rất chậm được cải
thiện và đang làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam. Về
hạ tầng phần cứng, Việt Nam cần đặc biệt tập trung đầu tư nâng cấp một số
bến cảng quan trọng. Tình hình hiện nay là đầu tư quá dàn trải, tỉnh nào ở
ven biển cũng đều có bến cảng nên công suất sử dụng thấp và không có các bến
cảng có quy mô ngang hàng với các nước trong khu vực.
Tinh thần doanh nghiệp
Để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, vai trò của doanh nghiệp
cần được phát huy. Nhưng doanh nghiệp hay doanh nhân cần một tố chất quan
trọng, đó là tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship).
Trên đây ta đã có dịp nói về khái niệm nguồn lực kinh doanh (managerial
resource). Nguồn lực kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm công nghệ đã
tích luỹ, thương hiệu đã xác lập, nguồn nhân lực xây dựng trong nội bộ doanh
nghiệp, năng lực nghiên cứu hoặc hấp thu công nghệ mới, năng lực quản lý,
năng lực khám phá thị trường, năng lực tiếp thị, v.v.. Nói chung, đây là
nguồn lực mà càng tích luỹ được nhiều thì doanh nghiệp càng phát triển mạnh.
Hay nói khác đi, doanh nghiệp muốn phát triển phải không ngừng tích luỹ
nguồn lực kinh doanh.
Tuỳ theo giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà phương pháp, chiến lược
tích luỹ nguồn lực kinh doanh cũng khác. Khi doanh nghiệp còn non trẻ, bản
lĩnh và năng lực của cá nhân người lãnh đạo công ty rất quan trọng vì cá
nhân đó ở giai đoạn này là tài sản (asset) quan trọng nhất của doanh nghiệp.
Bản lĩnh và năng lực của cá nhân đó sẽ quy tụ được nhân tài và tạo uy tín xã
hội của doanh nghiệp, những yếu tố cần thiết làm cơ sở cho các nguồn lực
kinh doanh. Sau khi doanh nghiệp phát triển một bước lớn sẽ có nhiều cơ hội
đẩy nhanh quá trình tích luỹ các nguồn lực kinh doanh. Ngoài việc đầu tư cho
nguồn nhân lực, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, chẳng hạn, doanh nghiệp
có thể chọn các hình thái liên kết (linkage) hàng dọc hoặc hàng ngang với
các công ty đa quốc gia để có thể làm cho quá trình tích luỹ tiến nhanh. Nói
chung, để liên tục tăng cường năng lực kinh doanh và sử dụng có hiệu quả
năng lực đó, nhà kinh doanh, người lãnh đạo công ty phải có tinh thần doanh
nghiệp.
Một lãnh đạo công ty được xem là người có tinh thần doanh nghiệp nếu người
đó có các đặc tính sau: trước hết, đó là nỗ lực tìm kiếm và áp dụng cái mới,
tinh thần luôn đổi mới để khám phá và sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản
phẩm mới, sản xuất bằng phương pháp mới, tìm kiếm thị trường mới. Các hoạt
động này được gọi chung là cách tân công nghệ (innovation). Thứ hai là thái
độ tích cực đầu tư, tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng chịu đựng rủi ro. Thương
trường vốn nhiều rủi ro, bất trắc, nếu không mạo hiểm thì không thể thành
công. Tất nhiên, mạo hiểm không có nghĩa là làm liều, không tính toán. Phải
có trí tuệ, có óc nhìn xa trông rộng về tương lai và dựa trên những phân
tích có căn cứ mới tránh hoặc giảm rủi ro. Thứ ba, ý thức mưu tìm lợi nhuận
(profit seeking), chứ không phải mưu tìm đặc lợi (rent seeking) cũng là yếu
tố quan trọng tạo nên tinh thần doanh nghiệp.
Mưu tìm đặc lợi là lợi dụng cơ chế xin cho để mua chuộc những người có chức
có quyền, qua đó kiếm được những cái lợi lớn mà không mất nhiều công sức
trong kinh doanh. Người có tinh thần doanh nghiệp chỉ mưu tìm lợi nhuận chân
chính và do đó hàm chứa tính chất cao thượng trong hoạt động kinh doanh. Lợi
nhuận chân chính là thành quả của nỗ lực khám phá công nghệ, khám phá thị
trường cho những sản phẩm mới, hoặc cải tiến quản lý, khám phá phương pháp
sản xuất mới để giảm giá thành sản phẩm, mở rộng thị phần. Người có tinh
thần doanh nghiệp không màng đến cái lợi trước mắt, có hoài bão, lý tưởng,
quyết đem tài năng của mình góp phần biến cải xã hội, thay đổi được cuộc
sống của mọi người.
Do đó, trong một đất nước còn nghèo khó, người có tinh thần doanh nghiệp còn
là người yêu nước. Kinh nghiệm của Nhật cũng cho thấy điều đó. Thứ tư, một
khi kinh doanh mang đủ các yếu tố trên, nhất là yếu tố thứ ba, thì đồng thời
nó thể hiện rõ tính chất đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể
nói, đạo đức kinh doanh là kết quả tổng hợp của ba yếu tố kể trên. Người có
tinh thần doanh nghiệp do vậy được xã hội kính nể, công ty của họ được xã
hội ngưỡng mộ, tin cậy và nhiều khi được xem là tài sản chung của cả xã hội.
Để khởi động và thành công trong quá trình công nghiệp hoá, Việt Nam đang
rất cần những nhà doanh nhân có tinh thần doanh nghiệp. Nhà nước cần có
chính sách, cơ chế nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bãi bỏ các
cơ chế xin cho, có hình thức biểu dương những doanh nghiệp thành công. Sau
khi Luật doanh nghiệp mới đi vào hiệu lực (ngày 1-1-2000), số doanh nghiệp
thành lập tăng nhanh, chứng tỏ Việt Nam có nhiều nhà doanh nghiệp tiềm năng,
sẳn sàng hưởng ứng tích cực khi nhà nước cởi trói các cơ chế ràng buộc họ
trước đây.
Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân hiện nay còn gặp khó khăn trong việc triển
khai kinh doanh, nhất là khó khăn trong việc tiếp cận với vốn đầu tư dài hạn
và việc thuê đất. Nhà nước cần có chính sách thích đáng để các khó khăn này
được giải quyết nhanh, tránh sự đối xử phân biệt giữa công ty nhà nước và
công ty tư nhân. Ngoài ra, cần hình thành loại vốn mạo hiểm (venture
capital) để cung cấp, đầu tư cho những dự án quá mới, có độ rủi ro cao. Xã
hội Việt Nam đang chờ đợi sự xuất hiện những doanh nhân có tầm vóc quốc tế,
đem lại vinh dự cho người Việt Nam và góp phần thúc đẩy vị trí của Việt Nam
trên bản đồ kinh tế thế giới.
Thông tin, tri thức, và công nghiệp hoá nông thôn
Gần đây, ở Việt Nam nói nhiều về thời đại công nghệ thông tin, thời đại kinh
tế tri thức. Các vấn đề này gợi ý gì cho chiến lược công nghiệp hoá của một
nước đông dân, lao động dư thừa, và phần lớn lao động làm trong nông nghiệp?
Từ góc độ phát triển trong công bằng mà nội dung cốt lõi là có chiến lược
phát triển tạo nhiều cơ hội làm việc và tạo điều kiện để mọi người dân tiếp
cận bình đẳng các cơ hội đó, hay nói khác đi là tạo điều kiện để mọi người
tham gia vào quá trình phát triển, ta cần nhìn vấn đề công nghệ thông tin và
kinh tế tri thức trên một bình diện rộng.
Ta có thể hình dung một mô hình phát triển ba khu vực: Khu vực nông nghiệp
(A) dựa trên hai yếu tố sản xuất là đất đai và lao động giản đơn, khu vực
công nghiệp (I) dựa trên lao động và tư bản, và khu vực có hàm lượng thông
tin, tri thức cao (K). Phát triển kinh tế trong khung phân tích này là quá
trình di chuyển lao động từ A sang I (như trong mô hình hai khu vực thường
thấy trong sách giáo khoa của kinh tế phát triển), và quá trình thu hút lao
động tri thức vào khu vực K. Khu vực K thu hút một phần lao động từ khu vực
I nhưng chủ yếu tiếp nhận lực lượng lao động mới từ thị trường. Điều cần
nhấn mạnh là sự quan trọng của giáo dục cơ bản, của việc phổ cập thông tin,
tri thức để lao động từ A có thể di chuyển sang I. Ngoài ra, cần phát triển
cả công nghệ thông tin phần cứng, song song với việc đẩy mạnh phát triển khu
vực có hàm lượng cao về tri thức, về công nghệ thông tin phần mềm.
Để phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá của cả nước
nói chung, kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nông nghiệp thường phát triển
(tăng năng suất lao động và năng suất đất, đa dạng hoá sản phẩm theo hướng
tăng giá trị gia tăng, v.v.) trước một bước để có tích luỹ đầu tư cho công
nghiệp, để tăng sức mua ở nông thôn cho hàng công nghiệp và có thể liên tục
cung cấp lao động cho công nghiệp mà không giảm sản lượng nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời đại thông tin và toàn cầu hoá ngày nay, nếu xây dựng
tốt cơ sở hạ tầng phần cứng và phần mềm, có thể tiến hành đồng thời công
nghiệp hoá và phát triển nông nghiệp vì sẽ có nhiều tác nhân (agent) xuất
hiện, đưa vốn và công nghệ từ các vùng đô thị trong nước hoặc từ nước ngoài
tới, và đưa hàng công nghiệp nông thôn đến các thị trường trong nước và nước
ngoài.
Về cơ sở hạ tầng phần cứng, cần đầu tư nâng cấp các thị trấn, thị tứ ven
biển và đặc biệt tăng cường xây dựng hệ thống giao thông nối với các huyện,
xã trong các tỉnh. Chiến lược ở đây là kết hợp công nghiệp hoá nông thôn với
việc phát triển các đô thị lân cận. Song song với nỗ lực xây dựng cơ sở hạ
tầng phần cứng, cần quan tâm xây dựng cở sở hạ tầng phần mềm tại các thị
trấn, thị tứ ven biển.
Cụ thể, cần xây dựng các trung tâm thông tin kinh tế tại các thị trấn. Các
trung tâm này sẽ thu thập, lưu trữ, phổ biến thông tin về sản phẩm, về hoạt
động của doanh nghiệp địa phương, đồng thời cũng là nơi lưu trữ, phổ biến
thông tin về thị trường trong nước và thế giới liên quan đến vốn, công nghệ,
hàng hoá mà doanh nghiệp và chính quyền địa phương quan tâm. Ngoài ra các
trung tâm tư vấn kinh tế cũng rất cần được phát triển để làm đầu mối cho
những tác nhân đem thông tin, công nghệ và tri thức quản lý kinh doanh từ
các thành phố lớn trong nước và nước ngoài. Mặt khác, các công ty tư vấn về
kế toán, thuế vụ, v.v.. cũng phải được hình thành tại các trị trấn, thị tứ
địa phương để hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài các cơ sở xí nghiệp nhà nước và tập thể đã có, nên đặc biệt khuyến
khích tư nhân đầu tư vào các lãnh vực tận dụng lao động (nhóm A) hoặc nguyên
liệu và các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp địa phương (nhóm B). Đồng thời tạo
điều kiện để các công ty lớn thuộc nhóm B ở các thành phố lớn lập các công
ty vệ tinh ở nông thôn hoặc ở các thị trấn lân cận. Thật ra, khi các cơ cở
hậu cần phần cứng và phần mềm được thiết lập và các chính sách ưu đãi phát
triển công nghiệp được ban hành thì các tác nhân trong nước và thế giới sẽ
đến kết hợp các cơ hội ở nông thôn với thị trường thế giới, kể cả hình thái
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Để xây dựng chiến lược công nghiệp hoá nông thôn cần có một cách tiếp cận
mới. Hai yếu tố thông tin và tổ chức cần được nhấn mạnh. Có hai yếu tố này
sẽ giải quyết được các vấn đề vốn, công nghệ và thị trường cho công nghiệp
hoá nông thôn. Thấy được sự quan trọng của hai yếu tố thông tin và tổ chức
mới đề ra được chiến lược thích hợp.
Tóm lại, để đối phó hữu hiệu với các thách thức tại vùng Đông Á và phát huy
các cơ hội phát triển của vùng này, nhà nước cần thấy rõ vị trí của công
nghiệp Việt Nam ở vùng này và đề ra các chiến lược thích hợp.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trần Văn Thọ
|