Những bài cùng tác giả
Hy vọng và thất vọng
Năm đầu
không thể là thời điểm tốt nhất để thẩm định một tổng thống. Sau một năm cầm
quyền, Abraham Lincoln vẫn nhấn mạnh chế độ nô lệ khó thể trở thành mục tiêu
nội chiến, Franklin D. Roosevelt cũng chưa mấy quan tâm đến nhu cầu bảo hiểm
xã hội tiếp theo sau đại khủng hoảng kinh tế, và John F. Kennedy xem phong
trào dân quyền chỉ như một rắc rối không đáng âu lo. Nếu ngày nay người Mỹ
thán phục các tổng thống vừa nói, đó chính là nhờ thành quả trong suốt nhiệm
kỳ tổng thống của họ. Tuy vậy,
nhìn những gì đã diễn ra trong năm đầu của T T Obama, nhiều người Mỹ cũng
khó lòng không cảm thấy thất vọng. Đó chính là vì phần lớn cử tri Mỹ đã có
quá nhiều kỳ vọng thiếu thực tế, mặc dù ứng viên Obama đã đánh thức những
chờ đợi quá đáng từ người Mỹ đang mong muốn một thay đổi thực sự sau gần 30
năm dưới chính sách Reagan (Reaganism). Những thất vọng nầy cũng không phải
do tiêu chí xét đoán quá khắt khe. Thực ra, tiêu chí phán đoán đã được đặt
quá thấp. Số đông cử tri Mỹ chỉ muốn so sánh Obama với người tiền nhiệm,
George W. Bush, một tổng thống họ tin là tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Vì vậy,
không có gì đáng ngạc nhiên, đối diện với khủng hoảng kinh tế, giới quan sát
đã nhiệt tình chào đón sự đắc cử của Obama, so sánh tổng thống mới với FDR.
Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Obama không phải là một tổng thống tự do
kiểu New Deal. Tầm nhìn của ông chỉ phản ảnh nghị trình của phe tự do đã
thay đổi dưới tác động của những biến đổi xã hội và chính trị kể từ thập kỷ
1930s. Obama đã
trưởng thành về chính trị vào thời điểm sự suy yếu của phong trào lao động
đã bào mòn một trong nhiều cơ sở xã hội của chủ nghĩa tự do, trong khi những
cơ sở mới đang trỗi dậy từ những xáo trộn của thập kỷ 1960s và cấu trúc
chủng tộc và sắc dân đã thay đổi trong tổng dân số Hoa Kỳ. Trên phương diện
cá nhân, Obama là hiện thân của sự trỗi dậy, bên trong đảng Dân Chủ, của
giới chuyên môn có học vấn cao, kể cả một tầng lớp thượng tầng trung lưu da
đen mới từ các cuộc đấu tranh trong thập kỷ 1960s và các chương trình nâng
đỡ các sắc dân thiểu số (affirmative action programs). Obama đã mang nhiều
nét tương đồng với cánh Wall Street có tầm nhìn xa, những thành phần đã đóng
góp nhiều vào cuộc vận động tranh cử và giữ vai trò nòng cốt trong chính
sách kinh tế ông đang theo đuổi. Obama hình
như không mấy quan tâm đến những vấn đề mang tính New Deal vẫn còn
thích hợp hiện nay - bất bình đẳng kinh tế, thất nghiệp hàng loạt, quyền lực
không hạn chế của tập đoàn các đại công ty, cuộc tranh đấu của công nhân qua
các nghiệp đoàn đòi hỏi hưởng thụ các quyền dân chủ kỹ nghệ (industrial
democracy). Ngược lại, Obama đã khá quen thuộc với các đề tài, thứ yếu trong
thập kỷ 1930s, nhưng đã trở thành thiết yếu của chủ nghĩa tự do sau đệ nhị
thế chiến - quyền quyết định kích cỡ gia đình của phụ nữ, các quyền tự do
dân sự và pháp trị, môi trường sinh thái, đa nguyên văn hóa, nhất là việc
làm trong guồng máy chính quyền. Obama cũng
đại diện một luồng tư tưởng xa lạ với New Deal, nhưng dính liền với
Khuynh Hướng Cấp Tiến (Progressivism) vào đầu thế kỷ 20, ước muốn giành
chính trị khỏi tay các chính trị gia. Cũng như những thành phần cấp tiến cũ,
Obama hình như tin chính quyền có thể vượt qua chính trị đảng phái và làm
việc với tinh thần khách quan, nhằm phát huy những gì tốt đẹp chung (mặc dù
có bằng chứng rõ ràng phe đối lập không hợp tác). Cũng như trong kỷ nguyên
cấp tiến, nhãn quan nầy đi đôi với sự tôn trọng mạnh mẽ giới chuyên môn khoa
học (hoàn tòan khác với cách tiếp cận của George W. Bush). Các đặc
điểm trong tư duy Obama liệt kê trên đây cho thấy Obama không giống FDR hay
Abraham Lincoln như nhiều người tưởng. Nhưng Obama có nhiều điểm tương đồng
với Jimmy Carter. Cũng như Carter, Obama hình như xem toàn cầu hóa kinh tế
và địa vị suy giảm của khu vực kỹ nghệ Hoa Kỳ như một diễn tiến không thể
tránh, và xem vai trò của chính quyền như tìm cách giảm thiểu tác động tàn
phá của cả hai. Giống như Carter, Obama đã tìm hết cách thành đạt một chính
quyền đa chủng. Cũng như Carter, Obama không có một chính sách kỹ nghệ hoặc
một chương trình tạo công ăn việc làm mạnh mẽ và hình như không mấy quan tâm
giải quyết những khó khăn và các mất thăng bằng cơ cấu do sự suy giảm trong
khu vực kỹ nghệ biến chế. Chương
trình kinh tế của Obama phản ảnh và tăng cường xu thế chuyển dịch về lâu về
dài từ kỹ nghệ biến chế qua khu vực tài chánh trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Và
chương trình cứu trợ vô điều kiện các đại ngân hàng, công ty bảo hiểm khổng
lồ AIG, đã khơi dậy những bức xúc cần được quan tâm, ngay cả thường khi được
diễn tả bằng những ngôn từ mang tính cực đoan và phân biệt chủng tộc. Người
ta có cảm tưởng các quy luật của trò chơi đã được ấn định có lợi cho giới
nhà giàu, và chính quyền dửng dưng trước những khổ đau của người Mỹ bình
thường. Thật trớ
trêu, mặc dù nhiều người da đen đã được bổ nhiệm vào những chức vụ quan
trọng ở Hoa Thịnh Đốn, điều kiện sinh sống của hầu hết người Mỹ da đen đã
trở nên tồi tệ hơn trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống của Obama. Người da đen
đã phải gánh chịu một cách bất cân xứng tác động của tình trạng thất thoát
công ăn việc làm trong khu vực kỹ nghệ biến chế và nạn mất nơi ăn chốn ở vì
khủng hoảng bong bóng bất động sản. Hình như không có dấu hiệu tổng thống
thời hậu phân biệt chủng tộc sẽ trực tiếp làm được gì để giúp giải quyết
tình cảnh khó khăn của họ. Trong phạm
vi chính sách đối ngoại, Obama càng gần gũi hơn với Carter, ngay cả đến
những quan tâm đối với Afghanistan. Cả Carter lẫn Obama đã tái định hướng
chính sách đối ngoại về vấn đề hợp tác quốc tế, tuy vây, vẫn chưa thể thực
hiện lý tưởng trong thực tế. Carter đã tiếp tục ủng hộ các lãnh đạo chuyên
quyền như Shah ở Iran, đã phát động chương trình tăng cường quân sự
dọn đường cho Reagan, và bành trướng chiến tranh lạnh tiếp theo sau sự chiếm
đóng Afghanistan của Xô Viết. Về phần Obama, giọng điệu hiếu chiến đáng ngạc
nhiên trong các bài diễn văn gần đây về Afghanistan cũng như khi nhận giải
thưởng Nobel hòa bình, biểu lộ ông đã đảm nhiệm vai trò tổng thống thời
chiến một cách thoải mái, ngay cả chấp nhận ngôn từ của Bush về sự đối đầu
toàn cầu giữa "phe ác quỷ" và "phe tự do". Thái độ nầy
đã nhen nhúm trở lại tinh thần võ biền của phe tự do thích can thiệp, phe đã
hoan hỉ xâm lăng Iraq, về sau ít nhiều đã xin lỗi và ngày nay khen ngợi tinh
thần thực tiễn công nhận chiến tranh đôi khi cũng cần thiết của Obama. Đã
hẳn, chỉ những "cuộc chiến công bình" (just wars)! Một bài học
rút tỉa từ năm đầu của Obama là nỗi khó khăn thể hiện thay đổi, ngay cả
trong thời gian khủng hoảng. Do thiếu tin tưởng ở dân chủ phổ thông, các nhà
lập quốc đã cho ra đời một hiến pháp tạo dựng một hệ thống chính quyền được
thiết kế nhằm dễ dàng ngăn ngừa thay đổi hơn là thể hiện đổi thay. Ngày nay,
quán tính cơ cấu nầy còn tăng gấp bội và phức tạp hơn nhiều bởi uy lực của
đồng tiền trong sinh hoạt chính trị và một guồng máy quân sự ngày một giữ
địa vị áp đảo. Obama đã không học được bài học của Kennedy từ biến cố Bay
of Pigs lúc mới bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống - không dễ dàng chấp nhận
lời khuyến cáo của các tướng lãnh - một quyết định đã giúp Kennedy và thế
giới suốt cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Tuy nhiên, khủng hoảng
cũng đem lại cơ hội. Để nắm bắt, điều kiện tiên quyết là phải vượt lên trên
cách ứng xử thông thường, như Lincoln đã nhắc nhủ người Mỹ năm 1862.
Lincoln nói "vì trường hợp của chúng ta mới mẻ, chúng ta phải
đổi mới tư duy và hành động".
Obama vẫn còn có nhiều thì giờ để làm việc ấy. Chỉ sau năm đầu, Lincoln
mới trở thành Anh Hùng Giải Phóng Vĩ Đại, FDR - kiến trúc
sư New Deal Thứ Hai, và Kennedy - nhà vô địch dân quyền.
Không một tổng thống nào trong ba vị đã tự mình hành động do quyết định
riêng. Cả ba đã hành động dưới áp lực phải thay đổi bởi các phong trào xã
hội dấn thân - bải bỏ chế độ nô lệ, phong trào lao động, tranh đấu đòi hỏi
công bằng chủng tộc. Trong bối
cảnh lich sử méo mó vì phân biệt chủng tộc của Hoa Kỳ, sự đắc cử của Obama
sẽ luôn đánh dấu một thay đổi, một bước ngoặt tượng trưng lớn lao. Để chuyển
biến nầy vượt cao hơn nữa, giới cấp tiến phải ngừng kiếm cớ hay dựa vào
những tình huống giảm khinh - những extenuating circumstances - để
đánh giá Obama. Không cần phải quên những dị biệt giữa Obama và phe đối lập
Cộng Hòa ngày một tụt hậu, người Mỹ phải bác bỏ những giả định lỗi thời
Obama đang bám víu trong chính sách kinh tế và đối ngoại và phải mạnh mẽ đòi
hỏi thay đổi thực sự, nói rõ sự thật với giới cầm quyền ngay cả khi quyền
hạn nằm trong tay những người do chính họ bầu lên. T T Obama
đã chào đón dự luật cải tổ y tế của Thượng Viện như pháp chế xã hội quan
trọng nhất kể từ khi Luật An Sinh Xã Hội được ban hành trong thập kỷ 1930s.
Nguyên chủ tịch Đảng Dân Chủ Howard Dean đã tố cáo dự luật như món quà cho
các công ty dược phẩm và bảo hiểm. Larry
Summers, cố vấn kinh tế hàng đầu của Obama, mô tả kế hoạch phục hồi kinh tế
780 tỉ như chương trình kích cầu lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Kinh tế gia
được giải thưởng Nobel về kinh tế, Joseph Stiglitz, cảnh cáo ngay từ đầu, kế
hoạch quá khiêm tốn khó có thể lôi kéo nước Mỹ ra khỏi Đại Suy Thoái. T T Obama
mô tả gói cải cách tài chánh của chính quyền như một "tái duyệt toàn bộ",
một sự đổi mới với tầm cỡ chưa từng thấy từ thời Đại Khủng Hoảng Kinh
Tế. Nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, Paul Volcker, cảnh cáo:
mạng lưới an toàn cho các đại ngân hàng có thể sẽ khuyến khích các định chế
tài chánh tham lam liều lĩnh hơn. Dân biểu
Ed Markey, chủ tịch Tiểu Ban Độc Lập Năng Lượng Hạ Viện (House Select
Committee on Energy Independence), ca tụng dự luật mức trần khí thải và mậu
dịch do Hạ Viện thông qua như dự luật năng lượng và môi trường quan trọng
nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo môi trường chẳng mấy ấn tượng;
một số thậm chí còn xem dự luật tệ hại hơn cả luật lệ hiện hành. Trong thực
tế hổn độn hiện nay, tất cả đều có phần đúng. Bill Clinton đã cảnh cáo các
bloggers về cải cách y tế tại Hội Nghị Netroots trong tháng
8-2009: phải nên sẵn sàng để chấp nhận một thành công phân bộ.
Clinton cũng đã có thể khuyến cáo như thế đối với nghị trình của Tổng Thống
Obama. Giới cấp tiến phải quyết định đối phó như thế nào khi sự đề kháng dữ
dội của phe đối lập đối với nghị trình thay đổi đã lộ rõ. Làn sóng
hưng phấn một năm trước đây giờ đang tan biến. Hồi đó, tiếp theo sau
một chính quyền bảo thủ tai họa và đã đánh mất mọi uy tín, người Mỹ đã bỏ
phiếu ủng hộ đổi thay, bầu lên một tân tổng thống thông minh và hùng biện,
và một đa số đủ lớn đại diện Dân Chủ trong lưỡng viện Quốc Hội. Một khối cử
tri năng động hưng phấn đã tỏ ra sẵn sàng tham chiến, và một liên minh đa số
đang trỗi dậy báo hiệu một tiềm năng tái định vị lâu dài. Ngày nay,
các cuộc đấu tranh trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống của Obama đã đưa đến
một làn sóng mất tin tưởng và bức xúc ngày một tăng. Thất vọng trước những
vận động cải cách - y tế, công ăn việc làm, thay đổi khí hậu - đã lan tràn
trong khối hậu thuẫn đầy nhiệt huyết. Chương trình phục hồi kinh tế , đã
giúp Wall Street thay vì các gia đình lao động hồi sinh, đang giúp phe hữu
bảo thủ thay vì phe cấp tiến. Thay thế cuộc chiến lựa chọn không thể
thắng ở Iraq bằng cuộc chiến cần thiết không thể thắng ở
Afghanistan, chỉ là phương thức đi đến thất bại. Chính sách ngoại giao của
chính quyền Obama - mặc dù lời hứa làm việc với thế giới Hồi Giáo ở Cairo và
thương thuyết tài giảm binh bị ở Prague - ngày một được phái Tân Bảo Thủ mô
tả như một sự tiếp sức, thay vì thay đổi, chính sách thời Bush. Phe Dân chủ
rất âu lo trước viễn ảnh bầu cử giữa kỳ vào mùa thu tới. Mặc dù tài hùng
biện và trí thông minh của Obama, nhiều người đang tự hỏi điều gì đang xẩy
ra cho nghị trình thay đổi của chính quyền mới. Trong thực
tế, Obama không phải một cứu tinh. Những ai nghĩ thế là luôn tự dối mình.
Những thất vọng trong năm đầu không phải là sản phẩm của thất bại mà chỉ là
kết quả của cán cân lực lượng Obama đang phải đối mặt ở Hoa Thịnh Đốn và Hoa
Kỳ nói chung. Nhiều người cấp tiến đã nghĩ, họ đã giành lại nước Mỹ với cuộc
bầu cử 2008; nhưng trong thực tế, mọi việc chỉ mới bắt đầu. Tuy nhiên,
Obama cũng đã tỏ ra can đảm hơn là mọi người chờ đợi, kêu gọi dân Mỹ phải
đương đầu với những thử thách lớn lao không còn có thể lẫn tránh. Mặc dù,
tham vọng và viễn kiến của Obama thường được kèm theo một sự thận trọng rõ
rệt trong quan niệm và chính sách thực thi. Obama rõ
ràng mơ ước trở thành một tổng thống lịch sử , một tổng thống định hình một
kỷ nguyên mới như FDR hay Reagan. Tuy nhiên, Obama không bao giờ là một lãnh
tụ cấp tiến của một phong trào, như Reagan đã là một lãnh tụ bảo thủ của
một kỷ nguyên. Obama đã tự bao vây mình với những cộng sự viên sáng giá và
thông minh trong đảng dân chủ, chắt lọc từ thời Clinton. Phần lớn những cố
vấn hàng đầu - từ Larry Summers và Timothy Geithner đến Robert Gates
- đều đã trực tiếp tham dự vào những quyết định đã đẩy dân Mỹ xuống vực
thẳm. Họ không phải là những người chủ trương thay đổi. Vì vậy,
những nghị trình cải cách của chính quyền thường bất cập so với ước vọng của
giới cấp tiến, cũng như những mục tiêu Obama theo đuổi và những đổi thay
nước Mỹ cần. Obama đã định hình một nền tảng mới cho nền kinh tế, nhưng các
đại ngân hàng được cứu nguy mà chẳng được tái cấu trúc, và cũng chẳng có một
chính sách kỹ nghệ đi kèm. Các lãnh đạo ngân hàng bị chỉ trích đã tự tưởng
thưởng những món tiền kếch sù, nhưng không một nỗ lực buộc họ phải có trách
nhiệm, và tăng cường quyền lực của công nhân - những biện pháp thiết yếu cho
một nền kinh tế phục vụ một giai cấp trung lưu rộng lớn. Obama đã gạt bỏ
thái độ "cao bồi" hiếu chiến đã phá sản của Bush, nhưng quyết định
leo thang ở Afghanistan cũng chẳng mấy khác sự điên rồ tuyên chiến với các
nhóm khủng bố thay vì tăng cường hệ thống cảnh sát và thượng tôn luật pháp.
Điều đáng
ngạc nhiên hơn cả là thái độ dè dặt, thay vì mạnh dạn tấn công trực diện,
phe hữu trong cuộc chiến tư tưởng. Reagan đã củng cố kỷ nguyên bảo thủ một
phần qua việc đấu tranh với phái tự do đang ngự trị với một chiến dịch chỉ
trích không mệt mỏi. Reagan có thể thay đổi hay rút lại chính sách khi cần,
nhưng sự tấn công ý thức hệ của ông không bao giờ lay chuyển. Obama có một
năng khiếu quý hiếm gói ghém những tương phản với phe hữu, chống lại chủ
nghĩa kinh điển về thị trường và các tổ chức khủng bố độc hại, với một tuyên
ngôn có sức thuyết phục về giá trị, và với chính quyền như phương tiện cần
thiết để đạt mục đích chung. Nhưng trong
suốt năm qua, phe Dân Chủ đã thảo luận nhiều về chính sách - sự lựa chọn
công, mức trần và mậu dịch, quy luật giám sát các bất trắc mang tính hệ
thống - trong khi phe Cộng Hòa và phe hữu đang trỗi dậy đã đưa ra những luận
cứ về giá trị và tư tưởng, về tự do và thị trường tự do, về tự do và vai trò
hạn chế của chính quyền. Mặc dù chính quyền Obama đã nhắc nhủ người Mỹ về di
sản tai họa các năm cầm quyền của Bush, phe Dân Chủ ít khi lên án những tư
tưởng bảo thủ nguồn cội của tai họa. Thay vào đó, Obama giới hạn chỉ trích
vào quá trình sinh hoạt chính trị - chính trị đảng phái ...chu kỳ thông tin
ngày một dồn dập... tranh cử không ngừng nhằm lấy điểm với cử tri thay vì
đối phó với các thử thách chung. Sự thiếu
sót nầy bổ túc chiến lược nội bộ của Quốc Hội - đánh giá cao thỏa hiệp hậu
trường hơn là vận động công khai. Tổng thống đưa ra các thành tố của các đề
xuất cải cách và để Quốc Hội và các phụ tá của mình thương lượng ở hậu
trường. Nhưng phương thức nầy đã tiếp sức cho số đông thành viên đảng đối
lập đã được huy động sẵn để chống đối mọi cải cách thực sự. Nhiều thành
phần chống đối đã lộ diện trong những tháng vừa qua- chiến lược tiêu cực của
đảng Cộng Hòa, những quy luật của Thượng Viện cho phép một thiểu số bảo thủ
của các tiểu bang bé nhỏ gây nhiều trở ngại. Chúng ta nên nhớ đảng Dân Chủ
đang chiếm đa số trong lưỡng viện Quốc Hội, do đó, lẽ ra đã có thể được huy
động để áp đặt một gói kích cầu lớn hơn và một dự luật cải cách y tế ý nghĩa
hơn. Đã hẳn,
thành lũy của phe đối lập là các tập đoàn đại công ty luôn chống lại mọi
biện pháp có lợi cho giới lao động trung lưu, và Quốc Hội đã bị các nhà vận
động hành lang mua chuộc. Với phán quyết gần đây của Tối Cao Pháp Viện cho
phép các đại công ty đóng góp không giới hạn vào chi phí vận động bầu cử,
nay là thời đại hoàng kim của các nhà vận động hành lang. Các ngân hàng
thương mãi đã có một đội ngũ 417 nhân viên vận động hành lang đã đăng ký.
Đội ngũ vận động hành lang của các kỹ nghệ dược phẩm và bảo hiểm chi tiêu
khoảng 1,4 triệu mỗi ngày, với 350 nguyên nghị sĩ dân biểu và nhân viên văn
phòng Quốc Hội luôn sẵn sàng tìm cách làm suy yếu mọi cải cách y tế. Một số
đông các nhà lập pháp lưỡng đảng đã bị thối rữa bởi chính trị dựa trên tiền
bạc. Kết quả là
ngay cả khi các cải cách lịch sử như y tế đang được đa số người Mỹ hoan
nghênh, các thỏa hiệp đã biến thái dự án cải cách đến độ các người ủng hộ
mất hết tin tưởng và tinh thần phấn đấu. Phe Dân Chủ đang đối diện cuộc bầu
cử giữa kỳ 2010 với 10% thất nghiệp, các lãnh đạo ngân hàng được cứu nguy tự
tưởng thưởng hàng triệu mỹ kim, số thương vong ngày một cao ở Afghanistan,
phe hữu được động viên, và các nhà hoạt động cấp tiến nản lòng. Nếu phe Cộng
Hòa ghi được vài chiến thắng quan trọng, mọi chuyện sẽ trở nên khó khăn hơn,
chính quyền Obama sẽ thận trọng e dè hơn nữa. Rõ ràng, nếu người Mỹ không
muốn mất cơ hội tốt nhất để đem lại những cải cách cấp tiến trong hơn 30 năm
qua, tình trạng nầy sẽ phải thay đổi. TƯ DUY VÀ
NGHỊ TRÌNH T T Obama
đã cảnh cáo thay đổi sẽ không đến một cách dễ dàng. Ngay từ đầu, chính quyền
đã dồn khả năng và tài nguyên vào việc tổ chức một cơ sở hậu thuẫn thống
nhất các nhà hoạt động. Đối với Obama, tổ chức có nghĩa sẽ sử dụng danh sách
đông đảo các nhà hoạt động và ủng hộ viên được chiêu mộ trong quá trình vận
động bầu cử tổng thống 2008. Những người ủng hộ tài chánh được huy động để
thành lập những thực thể mới - Dự Án Mục Tiêu Chung, Thống Nhất '09, v. v...
nhằm phối hợp các thông điệp, và các hoạt động tại các địa phương. Tài
nguyên được dành cho các liên minh giúp thúc đẩy vận động cải cách y tế ,
thay đổi khí hậu, và cải cách di trú. Đã đến lúc giới cấp tiến phải đoàn kết
để tích cực hổ trợ cấp lãnh đạo và giúp vận động cải cách. Mạng lưới
các nhà hoạt động cấp tiến và tổ chức quần chúng trong khắp nước đã đáp lời
kêu gọi. Nhiều liên minh rộng lớn đã thành hình, giúp đem lại cho các nhà
hoạt động khả năng phối hợp tốt hơn trong quá trình vận động hành lang các
nhà lập pháp. Những đơn vị cử tri mới - cộng đồng tôn giáo, thanh niên, các
tiểu thương - được tuyển chọn. Tài nguyên được cung cấp cho các khu vực, các
tiểu bang, để lôi cuốn các cử tri độc lập và giành phiếu. Các nỗ lực
vừa kể đã đẩy mạnh các cải cách then chốt của tổng thống. Khi cải cách y tế
bị đe dọa chìm xuồng, giới cấp tiến - do tổ chức Health Care For America
Now, các nghiệp đoàn, MoveOn - đã động viên cử tri đè bẹp phe đối kháng
trong các town hall meetings. Yếm thế
thường là thái độ của những ai chán ngấy chính trị. Bloggersphere tả phái
gần đây đầy dẫy những lời ta thán, thất vọng - tố cáo tính xảo trá của các
chính trị gia, chính quyền thối nát, và Obama quá mãi mê thỏa hiệp - đe dọa
bỏ cuộc và tìm cuộc sống ẩn dật. Đó đã hẳn là thái độ sai lầm. Người Mỹ đang
tranh luận gay gắt về tương lai. Liệu người Mỹ có thể nào huy động được ý
chí và đa số cần thiết để đáp ứng các thử thách quyết định đang phải đối
phó? Hay người Mỹ sẽ tiếp tục buông xuôi tuột dốc, nhường sân khấu cho tay
chân tập đoàn các đại công ty thủ lợi nhờ đường lối sai lầm của phe bảo thủ?Muốn giữ
phần thắng trong cuộc tranh luận, giới trí thức cấp tiến tả phái cần có tư
duy mới và phương cách tổ chức độc lập. Họ phải thoát ra ngoài Hoa Thịnh
Đốn để vận động và tổ chức các phong trào phản đối, đòi hỏi công bằng xã
hội, và nói lên nguyện vọng của những người mất việc làm, mất nhà cửa. Họ
phải giúp đem lại một hướng đi mới, đồng thời tố cáo những idols ngụy
tạo, những nhóm đặc quyền đặc lợi đang tìm đủ cách cản trở đổi thay.
Giới cấp
tiến phải trực diện tranh luận với phe hữu đang trỗi dậy. Một bài học cay
đắng cần được phổ biến rộng rãi: tai ương hổn độn hiện nay bắt nguồn không
phải từ quán tính xã hội, do thiếu hành động, hay chia rẽ đảng phái, mà từ
sự phá sản của các chính sách bảo thủ và tư tưởng bảo thủ. Chỉ còn cách tập
hợp, đoàn kết để đòi hỏi một chính quyền dân chủ, đầy đủ tinh thần trách
nhiệm, tách khỏi nanh vuốt của những nhóm đặc quyền đặc lợi, người Mỹ mới có
thể xây dựng một nước Mỹ công bằng và đầy sức sống.Một nỗ lực
mới tập trung vào việc tái xây dựng những phong trào phản đối của Main
Street có thể giúp tăng cường giới cấp tiến. Những cuộc tranh luận toàn quốc
về những cải cách căn bản sẽ đem lại đối tượng cụ thể cho nỗ lực tổ chức.
Trong năm 2010, giả thiết luật cải tổ y tế được chấp thuận, nghị trình lập
pháp sẽ chuyển qua tạo công ăn việc làm, quy luật giám sát, và trách nhiệm
của các định chế tài chánh, sẽ trở thành hai đối tượng nòng cốt để xây dựng
một nền kinh tế mới. Trên bình diện chính trị, cuộc bầu cử giữa kỳ vào mùa
thu sắp tới sẽ tùy thuộc các ứng viên đảng nào có thể thuyết phục được cử
tri đang hoài nghi là họ sẽ đứng về phía dân lao động và tìm cách giảm thiểu
các quá đáng của Wall Street. Giới cấp
tiến đã phác họa một nghị trình thiết yếu trong cuộc tranh luận toàn quốc.
Về việc làm, vấn đề căn bản là liệu có đủ kiên trì đối phó với khủng hoảng
nhân dụng sâu rộng hiện nay, và có tập trung đủ để tác động đến các địa hạt
bị tàn phá nhiều nhất. Phe Cộng Hòa và các thành viên Dân Chủ Blue Dogs đã
rõ ràng chống đối bất cứ chương trình mới nào. Chính quyền, đang âu lo về
ngân sách khiếm hụt, nhưng tin tưởng kinh tế đang trên đường hồi phục, có
khuynh hướng lo trẻ trung hóa, thay vì các cuộc giải phẩu chỉnh hình cần
thiết. Tầm quan
trọng của việc làm khó thể cao hơn. Nếu phe Dân Chủ không thành công, kinh
tế sẽ khó hồi phục, và bầu cử giữa kỳ 2010 sẽ bóp chết mọi cơ may cải cách.
Ít ra, phe Dân Chủ cũng phải chứng tỏ với người Mỹ là họ đang tranh đấu để
tạo công ăn việc làm. Các nỗ lực tổ chức độc lập nói lên tiếng nói của giới
thất nghiệp, đã được các nghiệp đoàn lao động và các tổ chức dân sự bắt đầu,
là rất thiết yếu. Song song
với cuộc tranh luận về công ăn việc làm, các tranh luận về cải cách tài
chánh cũng cần đem lại môi trường cho nỗ lực tổ chức của giới cấp tiến. Tòa
Bạch Ốc đã có kế hoạch tuyên chiến với các tổ chức vận động hành lang của
giới đại ngân hàng, với dự án thành lập Cơ Quan Bảo Vệ Giới Tiêu Thụ Tài
Chánh nhằm giám sát các ngân hàng và bảo vệ giới tiêu thụ chống lại các
lạm dụng và lừa đảo tài chánh. Ở Hạ Viện, các dân biểu Cộng Hòa đã bỏ phiếu
ủng hộ các ngân hàng chống lại cải cách. Ngược lại, phe cấp tiến cần mạnh mẽ
thúc đẩy các cải cách sâu rộng, tấn công vào trung tâm lạm dụng tài chánh
thái quá trong nhiều năm qua - kiểm toán Cục Dự Trử Liên Bang, phá vở các
liên minh và tổ hợp các đại công ty, thiết lập thuế đánh vào các lợi nhuận
thiếu chính đáng, tiền thưởng quá đáng, và đầu cơ, loại trừ các thủ thuật
tài chánh xảo trá, hạn chế lãi suất bóc lột. Các nỗ lực
tổ chức cấp tiến có thể dựa vào sức hậu thuẫn của cao trào giận dữ của quần
chúng. Phơi bày và quảng bá các chi tiết lường gạt và thối nát mang tính hệ
thống. Các cuộc biểu tình với óc sáng tạo có thể gây bối rối cho giới vận
động hành lang ngân hàng và các nhà lập pháp bị mua chuộc. Chỉ khi nào quần
chúng cử tri hiểu được tai họa ô nhiễm của đồng tiền các đại ngân
hàng, lúc đó các cải cách cắt giảm quyền lực của giới đại ngân hàng mới
có hy vọng thành công. Chính đây là địa hạt các nhà hoạt động ủng hộ Obama
có thể tìm được đất dụng võ. Các nhà phê
bình tiên đoán: những đề tài khác trong nghị trình của Obama - thay đổi khí
hậu, cải cách di trú, tự do lựa chọn của người làm - sẽ khó lòng được đem ra
tranh luận trước ngày bầu cử 2010. Giới cấp tiến sẽ phải thúc đẩy mạnh mẽ để
các cải cách trong những địa hạt nầy - những vấn đề sinh tử đối với cấu
trúc kinh tế mới cũng như giúp củng cố địa vị đa số của giới cấp tiến đang
lên - không bị đẩy ra ngoài lề. Vì vụ khủng
bố bất thành chuyến bay vào dịp Giáng Sinh, chính quyền đã bắt đầu năm mới
trong tư thế tự vệ về đề tài khủng bố. Ủng hộ lưỡng đảng dành cho một ngân
sách quân sự lớn hơn, và leo thang chiến tranh ở Afghanistan, Yemen và nhiều
nơi khác, vì vậy, có lẽ sẽ gia tăng. Obama sẽ có thái độ hiếu chiến hơn đối
với khủng bố. Phe chống đối leo thang chiến tranh ở Afghanistan, vẫn còn
được đa số phe Dân Chủ trong Hạ Viện ủng hộ, sẽ phải hoạt động tích cực hơn,
nhằm giáo dục người Mỹ về cái giá phải trả và phải đưa ra những chiến lược
thay thế khôn ngoan hơn để đối phó với đe dọa khủng bố. Viễn ảnh
của phe Dân Chủ trong cuộc bầu cử sắp tới không mấy sáng sủa. Trong những
cuộc bầu cử giữa kỳ thường thu hút được ít cử tri, sự hăng say của các cử
tri cơ sở sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng. Phe hữu rõ ràng đã được động
viên. Phe cấp tiến sẽ phải đánh tan tâm trạng phổ biến là phe tả sẽ không
thể cưởng nỗi sự hăng say của phe hữu. Cuộc bầu cử
sẽ trở thành một cuộc trưng cầu dân ý về hướng đi tương lai của Hoa Kỳ. Liệu
người Mỹ sẽ trừng phạt những người chủ trương cải tổ hay những kẻ cản đường?
Điểm trọng tâm phải nắm chắc là phe Cộng Hòa phải chịu trách nhiệm về chiến
lược cản đường vô trách nhiệm. Ở đây, việc phe Cộng Hòa chống đối luật tạo
việc làm và luật giám sát các xảo thuật đầy nguy hiểm của các đại ngân hàng
là hình ảnh của phe bảo thủ cần được phe cấp tiến quảng bá rộng rãi. Nhưng đây
không thể là một nỗ lực thuần túy đảng phái. Các nhà lập pháp phe Dân Chủ,
như nhóm Dân Chủ Blue Dogs, luôn chống đối và làm suy yếu các cải cách quan
trọng, cũng cần được thách thức và phải trả giá. TỔNG THỐNG
BARACK OBAMA VÀ THỰC TẾ CHÍNH TRỊ
Như
Frederick Douglas đã nói, "quyền lực không nhượng bộ bất cứ gì nếu không
có đòi hỏi. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ".
nỗ lực vượt qua vực thẳm do các chính sách sai lầm của phe bảo thủ không
thể thành công trong một sớm một chiều. Obama đã kêu gọi người dân phải trực
diện đối đầu với mọi thử thách. Mỗi bước cải cách sẽ gặp sự chống đối của
các nhóm quyền lợi hùng mạnh. Những chính sách tai họa như làm nhiệm vụ cảnh
sát toàn cầu, từ lâu, đã được sự ủng hộ lưỡng đảng. Tuy nhiên, chưa bao giờ,
kể từ thập kỷ 1960s, người Mỹ có được cơ may như hiện nay. Với tinh thần
tranh đấu kiên trì, người Mỹ có thể nói lên những yêu cầu thiết yếu cho mọi
thay đổi. Đây không phải lúc cho những ai ngây thơ hay yếm thế. Đây là thời
buổi đòi hỏi phải tranh đấu hăng say và kiên trì. Kỷ niệm năm
đầu làm tổng thống, Obama đã phải đối diện với sự tố cáo phản bội của một số
không nhỏ những người cánh tả. Đã hẳn, chúng ta phải công nhận có nhiều lý
do để thất vọng - thiếu lãnh đạo trong cuộc tranh luận về cải tổ y tế, quyết
định để nguyên bộ máy tra tấn của Bush, dẫm chân tại chỗ trong kế hoạch chấm
dứt cuộc chiến Iraq, trì hoản lời hứa tái thương thảo NAFTA và áp đặt biện
pháp tạm ngưng tịch biên nhà ở. Đã hẳn, một
vài lý do nêu trên có thể biện minh, nhưng không thể được tha thứ. Trong
thực tế, Obama đã thừa hưởng một nước Mỹ trên đà phá sản toàn diện. Tuy
nhiên, không có lý do để đòi được hưởng lợi điểm nghi ngờ (benefit of the
doubt) đối với các lời hứa khi tranh cử. Obama là tổng thống. Ông đã có
tất cả những lợi điểm ông cần. Với một trong mỗi tám người phải sống bằng
thực phẩm cứu trợ, một trong mỗi sáu người da đen thất nghiệp, và hàng nghìn
người tiếp tục bỏ mình ở Iraq và Afghanistan, đối với nhiều cử tri ủng hộ
Obama, thay đổi không chỉ là một khẩu hiệu tranh cử; đổi thay là một điều
khẩn thiết . Năm 2009 đã
đem lại một bài học nhức nhối trong sự phân biệt giữa bầu cử, chính trị, và
quyền lực. Bầu cử để thay đổi nhân sự. Chính trị để thay đổi nghị trình.
Quyền lực là các phương tiện giúp đưa các nghị trình vào hành động. Bầu
Obama vào tòa Bạch Ốc chỉ là điểm khởi đầu một diễn tiến, không phải là điểm
đến. Trong toàn cảnh cuộc vận động bầu cử, cán cân lực lượng trong chính trị
Hoa Kỳ và những đòi hỏi của cử tri bỏ phiếu cho ông, các bức xúc nói trên
không có gì là lạ. Tuy nhiên, bước nhảy vọt từ mất tin tưởng đến tố cáo phản
bội đã bắt nguồn từ một xung đột tâm lý và cảm tính hơn là phê bình chính
trị hay can thiệp chiến lược. Nói chung,
bức xúc đến từ hai nhóm với lập trường trái ngược - những người đặt quá
nhiều lòng tin vào những gì Obama có thể làm và những người thờ ơ, yếm thế. Với nhóm
thứ nhất, đây là nỗi chua xót của một người tình bị khinh rẻ. Tôi yêu anh,
tôi tin anh, và anh đã đáp lại tôi như thế . Cảm nghĩ nầy chỉ là một dự
phóng. Obama chưa bao giờ chủ trương một nghị trình cực đoan. Quả thật, ông
đã đem lại nhiều hy vọng và cảm hứng. Nhưng Obama chưa bao giờ nói, trong
vòng một năm, những nhóm đặc quyền với nhiều dây mơ rể mán trong sinh hoạt
chính trị ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, những nhóm vận động hành lang, các đại
công ty, các nhà bình luận thuộc thông tấn Fox, mass media, và phe
quân phiệt, sẽ đầu hàng trước một nụ cười cởi mở hay một lời nói văn hoa của
chính Obama. Quyết định leo thang chiến tranh ở Afghanistan, chẳng hạn, đã
hẳn là sai quấy. Nhưng đây không thể gọi là một bội phản, vì Obama không hề
hứa hẹn ngược lại. Sự thật đây là một cam kết khi vận động bầu cử ông đã giữ
trong khi phần lớn người Mỹ chỉ mong ông quên đi. Với nhóm
thứ hai, một nụ cười mai mỉa và tự mãn của các nhà phê bình không thể tự kìm
hảm: "Tôi đã bảo thế". Không có lấy một chiến lược tuyển cử hay chính
trị mạch lạc giúp mọi người đi từ khởi điểm đến nơi cần tới, họ đã giữ thái
độ yếm thế ngay từ đầu. Không tin ở tiềm năng có thể vận động số đông thanh
niên nam nữ, da đen, Latino, và công nhân các nghiệp đoàn, đã say sưa tham
dự vào quá trình vận động tuyển cử, họ nghĩ nỗ lực vận động và hăng say chỉ
là ảo vọng tức thời. Họ chỉ chờ lúc để có thể nói lên: "Tôi đã biết ngay
từ đầu". Theo lời Friedrich Engels, "thật là một thái độ ngây thơ trẻ
con khi trình bày sự thiếu kiên nhẫn của chính mình như một luận cứ mang
tính thuyết phục về lý thuyết".
Trong khi
cả hai nhóm đã hành động theo những động lực khác nhau, họ luôn có hai điểm
tương đồng. Thứ nhất,
họ chia sẻ một giả thiết của cánh hữu: lịch sử luôn do những vĩ nhân hơn
là do các tương tác phức tạp giữa quần chúng, thời gian, không gian và quyền
lực. Sự dỗi hờn của họ đều dồn vào một người và chỉ một người - không
phải một hệ thống, một định chế, hay một tập hợp nhiều mầu sắc các lực lượng
khác nhau, mà chỉ Obama. Nếu Obama cố gắng nhiều hơn, ông ta đã có thể thành
công. Lời buộc tội, phản ảnh sự tận tụy của chính họ với một người, và lòng
khâm phục đối với một chức vị, không phù hợp với sinh hoạt dân chủ và không
thích ứng với chính trị tả phái. Thứ hai, vĩ
nhân của họ hiện hữu như một cá thể trừu tượng, trong chân không, thiếu vắng
các lực tương tác, các hữu hạn và các thực thể vật lý. Bất cứ phong trào nào
ủng hộ hay chống đối vĩ nhân, và bất cứ biến cố nào có thể khiến vĩ nhân
mất tập trung, đối với họ, đều không có tác dụng. Họ thu gọn chính trị từ
một sinh họat trong thế giới thực tại xuống còn một hành động duy ý chí, xây
dựng một thế giới mới từ chân không. Một thế giới đòi hỏi 60 phiếu ở Thượng
Viện, và những tương nhượng thương thỏa đến từ thực tại đó, không có ý nghĩa
đối với họ. Những thất
vọng với năm đầu của Obama không hề khó tiên đoán. Người ta có thể thấy rõ
không những trong chính trị của chính Obama, mà cả trong bối cảnh các xu thế
chính trị của các lực lượng và các định chế vây quanh ông. Obama có thể đã
trỗi dậy như một ứng viên cấp tiến có nhiều cơ may nhất trong các cuộc bầu
cử, và cấp tiến nhất trong tòa Bạch Ốc, kể từ Lyndon Johnson. Nhưng điều đó
không đồng nghĩa với tính thực sự cấp tiến của chính ông. Thất vọng
là điều chắc chắn đối với những ai đứng về phía tả tự do của Hoa Kỳ. Lạc
quan là một thử thách thực sự. Một số người Mỹ đã tìm thấy hy vọng từ sự
hăng say, tính năng động, và bản chất đa dạng trong cơ sở hậu thuẫn Obama -
những yếu tố có thể trỗi dậy như một phong trào. Điều đó chưa trở thành
hiện thực. Nhưng nó đã bén rể trong niềm tin không phải Obama sẽ hướng dẫn
họ đi về phía tả, mà trong niềm tin họ có thể huy động một phong trào có đủ
số đông để thúc đẩy Obama đi về phía tả và ông sẽ phải đáp ứng áp lực của
họ. Một lần nữa như Frederick Douglas đã từng phát biểu, "Nếu không có
đấu tranh, sẽ không có tiến bộ. Quyền lực không nhượng bộ bất cứ gì mà không
có yêu cầu. Điều đó chưa bao giờ và sẽ không bao giờ xẩy ra".
DỰ PHÓNG
NGÂN SÁCH VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ TRONG THẬP KỶ TỚI
Trong khi
phân tích ngân sách liên bang đầy ắp thống kê, người ta có thể nhận diện hai
con số đặc biệt gây ấn tượng, vì tiềm năng làm thay đổi chính trị và uy lực
của Hoa Kỳ.Trước tiên,
đó là số khiếm hụt dự phóng cho năm tới, gần 11% GDP của Mỹ. Ngạch số khiếm
hụt tự nó không mang tính vô tiền khoáng hậu: Trong Cuộc Nội Chiến, Đệ Nhất
và Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa kỳ đã từng trải nghiệm những ngạch số khuy khiếm
tăng vọt, nhưng thường với ý thức các số khiếm hụt sẽ giảm thiểu và trở lại
mức có thể gánh chịu ngay sau khi hòa bình được tái lập và chiến tranh chấm
dứt. Nhưng con
số thứ hai, vùi sâu trong các dự báo ngân sách, mới chính là con số đáng
quan tâm: Ngay trong dự báo lạc quan của chính Tổng Thống Barack Obama,
ngạch số khuy khiếm của Hoa Kỳ cũng sẽ không thể trở lại mức chờ đợi trong
10 năm tới. Trong thực tế, kể từ 2019 và 2020 - khi Obama đã rời sân khấu
chính trị, ngay cả khi phục vụ đủ hai nhiệm kỳ - khiếm hụt ngân sách sẽ gia
tăng trở lại một cách nhanh chóng, lên trên 5% GDP. Ngân sách của Obama đưa
ra hình ảnh một quốc gia tương tự chủ các căn hộ Mỹ đang không thể ngoi đầu
lên khỏi mực nước. Đối với
Obama và các tổng thống kế nhiệm, hậu quả của các dự báo nói trên rất rõ
ràng: Trừ phi một tăng trưởng thần kỳ, hay một thỏa hiệp chính trị mầu nhiệm
nào đó tạo ra những đổi thay không được tiên đoán trong thập kỷ tới, hầu như
Obama và các vị kế nhiệm khó thể đưa ra bất cứ sáng kiến đối nội mới mẻ nào.
Hoa Kỳ rất có thể sẽ phải trải nghiệm một thập kỷ suy thoái tương tự như
Nhật Bản trong thập kỷ vừa qua. Trong khi nợ nần tăng nhanh hơn lợi tức, uy
lực của Mỹ trên thế giới sẽ bị xói mòn. Hay như
kinh tế trưởng và cố vấn của Obama, Lawrence H. Summers, đã nhiều lần hỏi
trước khi tham gia chính quyền cách đây một năm, " Xứ vay nợ nhiều nhất
thế giới sẽ duy trì địa vị cường quốc lớn nhất thế giới được bao lâu?". Các lãnh
đạo TQ, quốc gia tài trợ các chi tiêu của chính quyền Mỹ, trong dịp thăm
viếng Hoa Thịnh Đốn vào mùa hè năm ngoái để tìm hiểu về ngân sách của T T
Obama, đã thẳng thắn cho biết: họ nghĩ câu trả lời trong trường kỳ cho
câu hỏi của Summers là quá hiển nhiên. Người Âu châu cũng đã đồng ý đây
là mối âu lo lớn trong thập kỷ tới. Chính
Obama, vào đầu tháng 12-2009, cũng đã ám chỉ quan tâm của chính ông khi loan
báo kế hoạch tăng viện 30.000 quân vào cuộc chiến Afghanistan, đồng thời
cảnh cáo, Hoa Kỳ không thể ở lại Afghanistan lâu dài. Obama nói
với các sinh viên sĩ quan ở West Point: "Sự phú cường của chúng ta là nền
tảng quyền lực của chúng ta. Sự phú cường giúp trang trải các chi phí quân
sự của chúng ta, bảo đảm hoạt động ngoại giao của chúng ta, vận dụng tiềm
năng của dân tộc chúng ta, và cho phép đầu tư vào kỹ nghệ mới". T T Obama
giải thích tiếp, ngay cả cuộc chiến cần thiết - như ông thường gọi
cuộc chiến Afghanistan - cũng không thể tiếp diễn dài lâu. Ông nói:
"Chính vì vậy, cam kết của quân đội chúng ta ở Afghanistan không thể vô
thời hạn, bởi lẽ quốc gia tôi muốn xây dựng nhất là chính quốc gia của chúng
ta". Điều đáng
khen trong ngân sách của Tổng Thống là đã nói lên sự thật, hay ít ra đã
không bọc đường một cách thái quá tầm vóc tiềm tàng của vấn đề. Cho đến gần
phút cuối của hai nhiệm kỳ, T T George W. Bush luôn quả quyết:
ông sẽ rời nhiệm sở để lại một ngân sách thăng bằng. Ông chẳng bao giờ tiến
đến gần. Trong thực tế, ngạch số khuy khiếm đã tăng vọt vào những năm cuối
của Bush ở Tòa Bạch Ốc. Obama đã
công bố các con số cho 10 năm sắp tới, một phần hình như để chứng minh tình
trạng bế tắc chính trị ở Hoa Thịnh Đốn trong những năm qua không thể kéo dài
- trong khi phe Cộng Hòa luôn từ chối thảo luận tăng thuế, và phe Dân Chủ
cũng chẳng chịu thương thảo cắt giảm một số chương trình. Obama chủ trương
phải tăng chi để giải quyết thất nghiệp, trước khi có thể tìm giải pháp giảm
thiểu khiếm hụt ngân sách. Lawrence H.
Summers, trong cuộc phỏng vấn chiều 01-2-2010, đã nói, "ngân sách công
nhận nhu cầu khẩn thiết tạo thêm việc làm và tăng trưởng trong đoản kỳ, và
cần có những biện pháp quan trọng nhằm tăng lòng tin trong trung hạn".
Summers đã
nhắc đến khả năng đóng băng các chi tiêu quốc nội không liên hệ đến an ninh
quốc gia, các nỗ lực cắt giảm các chi phí về dịch vụ y tế, và quyết định
không tái tục các biện pháp giảm thuế cho các đại công ty và gia đình có lợi
tức trên 250.000 USD mỗi năm.
Tuy nhiên,
Summers đã nói thêm: "Qua ủy ban ngân sách và tài chánh, Tổng Thống đã
tìm cách dành quyền tối đa để lâm thời áp đặt các biện pháp điều chỉnh cần
thiết trước khi có bất cứ khủng hoảng nào xẩy ra".
Đã hẳn, từ
tư tưởng đến hành động, quá trình chưa bao giờ dễ dàng trong chính trị Hoa
Thịnh Đốn. Phe Cộng Hòa luôn giữ im lặng về tình trạng nợ nần dưới thời
George W. Bush. Phe Dân Chủ đã mô tả tăng công trái như "một điều xấu
nhưng cần thiết" (necessary evil) trong thời gian khủng hoảng, như trong
năm đầu của Obama. Vấn đề là phải nghĩ đến giải pháp lâu dài. Hay như Isabel
V. Sawhill, thuộc Brookings Institution, đã nói với hãng thông tấn MSNBC
hôm 01-02-2010, "vấn đề ở đây không phải là lương thiện, mà là ý chí
chính trị".
© GS Nguyễn
Trường
Irvine, CA
92606, U.S.A.
20-02-2010
|