Những bài cùng tác giả


Như Noam Chomsky đã nhận xét, Iran và Syria là
hai quốc gia Trung Đông không chịu tuân phục những
đòi hỏi căn bản của Hoa Thịnh Đốn. Vì vậy, cả hai đã
là kẻ thù của Mỹ, nhất là Iran.
Trong chuẩn mực thời chiến tranh lạnh, bạo lực luôn
được biện minh như một phản ứng chống lại ảnh hưởng
của kẻ thù chính, thường chỉ cần những duyên cớ vu
vơ. Vì vậy, không ai ngạc nhiên, sau khi Bush xua
quân xâm chiếm Iraq tháng 3-2003, người ta thường
nghe nói đến sự kiện Iran can thiệp vào nội tình
Iraq - một xứ trước đó không bao giờ bị nước ngoài
can thiệp, trên giả thuyết mặc nhiên Hoa Thịnh Đốn
ngự trị hoàn cầu.
Trong tinh thần chiến tranh lạnh thẩm thấu thủ đô
Hoa Thịnh Đốn, Tehran được mô tả như đỉnh cao của
vùng
Lưỡi Liềm Shiite, trải dài từ Iran đến
Hezbollah ở Lebanon xuyên qua miền Nam Iraq và
Syria. Và cũng chẳng ai ngạc nhiên, leo thang chiến
tranh ở Iraq và đe dọa cũng như lên án Iran thường
kèm theo cử chỉ tham dự, với ít nhiều ngượng
ngùng, hội nghị các cường quốc trong khu vực về
Iraq - nói rõ hơn, về mục tiêu người Mỹ theo đuổi ở
Iraq.
Đó là cử
chỉ ngoại giao tối thiểu nhằm xoa dịu những âu lo và
giận dữ ngày một gia tăng, do việc giàn trải lực
lượng vào các vị trí từ đó có thể tấn công Iran song
song với những hành động gây hấn và đe dọa.
THÁI ĐỘ
THÙ NGHỊCH CỦA Mỹ
Đối với
Hoa Kỳ, vấn đề quan trọng hàng đầu ở Trung Đông là
duy trì cơ chế kiểm soát hữu hiệu, chứ không chỉ
tiếp cận, tài nguyên năng lượng. Kiểm soát nguồn
cung cấp năng lượng là bửu bối khống chế toàn cầu
Ảnh
hưởng của Iran trong "khu vực lưỡi liềm" đang
thách thức quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Do tình cờ
địa lý, tài nguyên dầu khí quan trọng nhất thế giới
phần lớn tọa lạc trong vùng Shiite ở Trung Đông:
miền Nam Iraq, các vùng Saudi Arabia phụ cận, và
Iran (còn có một trữ lượng hơi đốt thiên nhiên khổng
lồ). Một liên minh Shiite lỏng lẻo, độc lập với Hoa
Kỳ, kiểm soát hầu hết trữ lượng dầu thế giới, sẽ là
một ác mộng đối với Hoa Thịnh Đốn.
Một liên minh như vậy, nếu thành hình, có thể tham
gia
Mạng An Ninh Năng Lượng Á Châu (Asian Energy
Security Grid) và Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải
(Shanghai Cooperation Organization - SCO), trụ
sở ở Trung Quốc (TQ).
Iran, với tư cách quan sát viên sẵn có, giờ
đây đã là thành viên chính thức của SCO. Trong tháng
6-2006, báo South China Morning Post ở Hong Kong
tường thuật: "Tổng Thống Iran Mahmoud Ahmadinejad
đã tỏa sáng tại phiên họp thường niên của SCO khi
kêu gọi tổ chức nầy đoàn kết chống lại các nước chỉ
trích chương trình hạt nhân của Iran ".
Trong khi đó, phong trào phi liên kết đã xác nhận
quyền bất khả chuyển dịch của Iran theo đuổi các
chương trình vừa nói, và SCO (gồm nhiều xứ Trung Á)
cũng kêu gọi Hoa Kỳ ấn định thời hạn chót rút các
căn cứ quân sự ra khỏi các xứ thành viên cuả tổ
chức.
Nếu các nhà hoạch định Mỹ phải chấp nhận, đã hẳn uy
thế của Hoa Kỳ trên thế giới sẽ bị suy giảm nghiêm
trọng.
Đối với
Hoa Thịnh Đốn, lỗi lầm chính yếu của Tehran là thái
độ thách thức, khởi đầu với việc lật đổ Shah Reza
Pahlavi và khủng hoảng con tin Tòa Đại Sứ Mỹ năm
1979. Việc làm đen tối và ghê tởm của Hoa Kỳ từ 1953
đến 1979 ở Iran bị xóa khỏi lịch sử. Để trừng phạt,
người Mỹ hậu thuẫn Saddam Hussein trong cuộc chiến
chống Iran, gây đổ nát và hàng trăm nghìn thương
vong. Tiếp theo là các biện pháp chế tài man rợ của
T T Clinton, và dưới thời Bush, liên tục bác bỏ mọi
vận động ngoại giao của Iran kèm theo những lời đe
dọa trực tiếp tấn công.
Tháng 7-2006, Do Thái xâm lăng Lebanon lần thứ
năm kể từ 1978. Cũng như những lần trước, sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ là yếu tố quyết định. Lý do viện dẫn đã
sụp đổ nhanh chóng sau khi thanh tra. Khỏi phải nói,
hậu quả cuộc chiến đối với người Lebanon vô cùng
nghiêm trọng. Một trong những lý do biện minh cho
hành động xâm lăng Mỹ-Do Thái là các hỏa tiễn của
Hezbollah có thể là loại vũ khí răn đe phòng ngừa
(deterrent) khả dĩ chống lại một cuộc tấn công vào
Iran (trong tương lai, nếu có) của liên minh Mỹ-Do
Thái.
Mặc dù với các động thái diễn võ dương oai cùng với
áp lực nặng nề của các tập đoàn quân sự-kỹ nghệ và
phe diều hâu chủ chiến, các chính quyền kế tiếp ở
Hoa Kỳ có lẽ khó thể trực tiếp tấn công Iran. Thế
giới sẽ kịch liệt chống đối. 75% dân Mỹ ủng hộ đường
lối ngoại giao thay vì quân sự; và đa số dân Mỹ và
dân Iran đều đồng ý về các vấn đề nguyên tử.
Các cuộc thăm dò của tổ chức Terror Free Tomorrow tiết
lộ: "mặc dù tình trạng thù nghịch sâu xa mang
tính lịch sử giữa dân Shiite gốc Ba Tư và các sắc
dân trong các quốc gia láng giềng đa số thuộc phái
Sunni gốc A Rập, Turkish và Pakistani, đa số dân
chúng trong các xứ nầy sẵn sàng chấp nhận một Iran
với vũ khí nguyên tử thay vì bất cứ hành động quân
sự nào của Hoa Kỳ".
Có lẽ các cộng đồng quân sự và tình báo Mỹ cũng có
lập trường tương tự - chống đối một sự tấn công.
Đã hẳn,
Iran khó lòng tự bảo vệ trước một cuộc tấn công của
Mỹ. Tuy nhiên, Iran vẫn có nhiều phương cách trả đũa
khác, chẳng hạn, gây thêm khó khăn cho Hoa Kỳ ở
Iraq. Corelli Barnett, một sử gia quân sự uy tín ở
Anh quốc, còn đưa ra một cảnh báo nghiêm khắc hơn
nhiều: "một cuộc tấn công vào Iran thực ra rất có
thể khởi động Thế Chiến III".
.
Vấn đề chủng tộc ở Iran rất phức tạp. Khá nhiều
người Iran không thuộc gốc Ba Tư (Persian); nhiều
khuynh hướng tự trị đã được người Mỹ từ lâu lợi dụng
để khuấy động - chẳng hạn, trong hạt Khuzestan vùng
Vịnh, nơi có rất nhiều trữ lượng dầu, cư dân phần
lớn gốc A Rập, không phải Ba Tư. Sự leo
thang đe dọa cũng được xem như biện pháp gây áp lực,
buộc các xứ khác, nhất là Âu châu, chung sức bao vây
kinh tế Iran. Một hậu quả tiên liệu khác là dồn giới
lãnh đạo Iran vào góc tường, buộc họ phải thắt chặt
kiểm soát, càng khắt khe càng tốt. Tình trạng nầy có
thể gây bất bình trong dân chúng, thậm chí chống đối
hoặc bạo loạn.
Người Mỹ cũng thấy cần bêu xấu cấp lãnh đạo Iran.
Trong các xứ Tây phương, bất cứ một lời tuyên bố bất
thường nào của Tổng Thống Mahmoud Ahmadinejad lập
tức được chuyển ngữ, không mấy chính xác, đôi khi
đáng nghi ngờ, và được phổ biến dưới những hàng tít
lớn. Nhưng như chúng ta đều biết, ở Iran, chính sách
ngoại giao thuộc thẩm quyền của Lãnh Tụ Tôn Giáo Tối
Cao Ayatollah Ali Khamenei, không phải Tổng Thống
Ahmadinejad.
Các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ có khuynh hướng tảng
lờ các lời tuyên bố của Khamenei, nhất là những lời
hòa hoản. Chẳng hạn, lời tuyên bố "Do Thái không nên
tồn tại" của Ahmadinejad luôn được đăng tải rộng
rãi, nhưng báo chí Mỹ lại im hơi lặng tiếng khi
Khamenei cho biết: Iran chia sẻ quan điểm chung
của các xứ A Rập về vấn đề Hồi Giáo-A Rập quan trọng
nhất, nói rõ hơn, vấn đề Palestine";
rõ rệt có nghĩa Iran chấp nhận lập trường của Liên
Minh A Rập: bình thường hóa đầy đủ quan hệ với Do
Thái trên căn bản đồng thuận quốc tế về giải pháp
hai nhà nước - một giải pháp Hoa Kỳ và Do Thái
luôn đơn phương đề kháng.
Việc Mỹ xâm chiếm Iraq gián tiếp buộc Iran phải
tìm cách khai triển vũ khí hạt nhân để tự vệ và
phòng ngừa. Nhà sử học quân sự Do Thái, Martin van Creveld
viết, sau việc Mỹ xâm chiếm Iraq, "nếu người Iran
không tìm cách chế tạo vũ khí nguyên tử, có lẽ họ là
điên".
Thông điệp của hành động xâm lăng rất rõ ràng:
Hoa Kỳ sẽ tấn công tùy tiện, chừng nào mục tiêu
không thể tự bảo vệ. Ngày nay, Iran đang bị quân
lực Hoa Kỳ vây quanh, ở Afghanistan, ở Iraq, ở Thổ
Nhĩ Kỳ, và Vịnh Ba Tư; bên cạnh còn có Pakistan và
Do Thái với vũ khí nguyên tử và sự hỗ trợ của Mỹ.
Cho đến nay, nỗ lực
của Iran muốn thương thảo mọi vấn đề tranh cãi đều
bị Hoa Kỳ từ chối; và thỏa ước EU-Iranian rõ ràng đã
bị phá hoại khi Hoa Thịnh Đốn từ chối rút lại các
lời đe dọa tấn công. Thiện chí ngăn ngừa Iran chế
tạo vũ khí nguyên tử - và tình trạng căng thẳng cân
não ngày một gia tăng trong
vùng - rất có thể sẽ khiến Hoa Thịnh Đốn chấp nhận
giải pháp thương nghị của EU: đồng ý thương thảo
nghiêm túc và cùng các quốc gia khác thúc đẩy Iran
hội nhâp vào hệ thống kinh tế quốc tế, phù hợp với
công luận ở Mỹ, ở Iran, ở các quốc gia lân cận , và
phần còn lại của thế giới.
IRAN
NGUYÊN TỬ VÀ GIẢI PHÁP
Hiện nay không gì
cấp thiết hơn là ngăn ngừa nạn phổ biến vũ khí
nguyên tử và tìm mọi cách loại bỏ thứ vũ khí nầy.
Đây là vấn đề sinh tử, tồn vong đối với toàn thể
nhân loại. Con đường ra khỏi khủng hoảng nguyên tử
không phải hoàn toàn không tưởng.
Cuộc tranh cãi về chương trình nguyên tử Iran, vì
vậy, cần được phân tích trong bối cảnh lịch sử hiện
nay.
Trước năm 1979, dưới thời Shah Reza Pahlavi, Hoa
Thịnh Đốn hậu thuẩn mạnh mẻ chương trình nầy.
Ngày nay, Hoa Thịnh Đốn lập luận, Iran không cần đến
năng lượng nguyên tử, vì vậy, Iran chắc chắn đang theo
đuổi một chương trình vũ khí bí mật. Năm 2005,
Henry Kissinger viết trên báo Washington
Post: "Đối với một xứ sản xuất dầu lữa quan
trọng như Iran, năng lượng nguyên tử là một hình
thức sử dụng tài nguyên phung phí".
Hơn 30 năm
trước, khi giữ chức ngoại trưởng dưới thời T T
Gerald R. Ford, Kissinger lại viết: "Du nhập điện
hạt nhân sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu ngày một gia tăng
của kinh tế Iran, đồng thời dành trữ lượng dầu còn
tồn tại để xuất khẩu hoặc chế biến thành các sản
phẩm hóa dầu".
Nam 2005, Dafna Linzer của tờ Washington Post
yêu cầu Kissinger giải thích về sự thay đổi ý
kiến vừa nói. Kissinger đã thẳng thắn trả
lời: "Hồi đó Iran là đồng minh"
- vì vậy, Iran thật sự có nhu cầu năng lượng
nguyên tử.
Linzer viết: Năm
1976, chính quyền Ford "phê chuẩn các
kế hoạch của Iran xây dựng một kỹ nghệ năng lượng
nguyên tử quy mô, đồng thời nỗ lực thành đạt một
thỏa ước nhiều tỉ mỹ kim cho phép Tehran kiểm soát
nhiều số lượng lớn plutonium và uranium đã chế biến
- hai phương cách chế tạo vũ khí nguyên tử".
Những nhà hoạch định hàng đầu của chính quyền Bush
II, ngày nay tố cáo những chương trình vừa nói, hồi
đó đang giữ những chức vụ an ninh quốc gia then
chốt: Dick Cheney, Donald Rumsfeld, và Paul
Wolfowitz.
| Người Iran, không như người Tây phương, chắc chắn
không muốn vứt bỏ lịch sử vào đống rác, kể cả chương
lịch sử nầy. Họ cũng biết rõ Hoa Kỳ và đồng minh đã
đối xử tàn nhẫn với dân Iran trong hơn 50 năm qua,
kể từ cuộc đảo chính do Hoa Kỳ-Anh quốc đạo diễn lật
đổ chính quyền dân cử Mohammad Mossadeq và tái lập
chế độ sắt máu Shah Reza Pahlavi cho đến khi nhân
dân Iran nổi dậy trong cuộc cách mạng 1979 trục xuất
Shah Reza Pahlavi. Đồng thời, Iran đã thu thập một
hồ sơ các vi phạm nhân quyền man rợ của Pahlavi
trước sự làm ngơ của giới truyền thông - chỉ tỏ ra
vô cùng căm phẩn sau khi chế độ độc tài được Hoa Kỳ
hậu thuẩn bị lật đổ.
Với viện trợ quân sự và kinh tế, chính quyền Reagan
đã ủng hộ Saddam Hussein trong cuộc chiến xâm lăng
Iran, tàn sát hàng trăm nghìn dân Iran (bên cạnh
người Iraq gốc Kurd). Rồi đến các biện pháp chế tài
tàn nhẫn của T T Clinton, tiếp theo đó là đe dọa tấn
công của Bush - tất cả đều vi phạm nghiêm trọng Hiến
Chương LHQ.
Tháng 5-2006, Chính quyền Bush đồng ý với các đồng
minh Âu châu nói chuyện trực tiếp có điều kiện với
Iran, nhưng vẫn từ chối rút lời đe dọa tấn công -
khiến các đề nghị thương thuyết dưới họng súng trở
nên hoàn toàn vô nghĩa. Lịch sử gần đây cũng cung
cấp thêm lý do để nghi ngờ lập trường và ý định của
Hoa Thịnh Đốn.
Tháng 5-2005, theo Flynt Leverett, một thành viên
cao cấp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thời George W.
Bush, chính quyền cải cách của Mohammad Khatami đã
đề nghị "một nghị trình cho một diễn tiến ngoại giao nhằm
giải quyết toàn bô các dị biệt song phương giữa Hoa
Kỳ và Iran".
Theo tường trình của báo Financial Times
trong tháng 5-2006, nghị trình bao gồm "vũ khí
tiêu diệt hàng loạt, giải pháp hai nhà nước cho xung
đột Israeli-Palestinian, tương lai của tổ chức
Hezbollah ở Lebanon, và hợp tác với cơ quan an toàn
nguyên tử của LHQ".
Chính quyền Bush từ chối , và còn khiển trách nhà
ngoại giao Thụy sĩ, người đã nhận trách nhiệm chuyển
đạt đề nghị của Khatami.
Một năm
sau, EU và Iran đã đạt được thỏa hiệp: Iran sẽ
ngưng làm giàu uranium, và đáp lại, Âu châu bảo đảm
Hoa Kỳ và Israel sẽ không tấn công Iran. Một lần
nữa, có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ, Âu châu sau đó bỏ
cuộc, và Iran tái tục chương trình làm giàu Uranium.
Đối với
đề nghị 2003 cũng như các đề nghị khác, cách duy
nhất để biết rõ Iran có thực sự nghiêm chỉnh khi đưa
ra các sáng kiến: đón nhận và trắc nghiệm các sáng
kiến của Iran. Dựa trên kinh nghiệm, người ta chỉ có
thể kết luận, Hoa Kỳ và đồng minh lo ngại người Iran
có thể nghiêm túc khi đưa ra sáng kiến.
Các chương trình nguyên tử của Iran, như đã biết,
nằm trong giới hạn ấn định ở điều IV của Thỏa Ước
Cấm Phổ Biến Nguyên Tử - NPT, cho phép các quốc gia
phi nguyên tử sản xuất nhiên liệu cần thiết cho năng
lượng nguyên tử. Chính quyền Bush đưa ra luận cứ -
không hẵn hoàn toàn vô lý: điều IV cần được tăng
cường.
Khi NPT bắt đầu có hiệu lực vào năm 1970, một hố sâu
chia cách nhiên liệu sản xuất để dùng trong năng
lượng với nhiên liệu dùng chế tạo vũ khí. Ngày nay,
tiến bộ kỷ thuật đã thu hẹp khoảng cách. Tuy nhiên,
bất cứ việc tái duyệt nào về điều IV cũng phải đảm
bảo quyền tự do tiếp cận nhiên liệu dùng vào các mục
tiêu phi quân sự đúng với thỏa hiệp NPT lúc khởi
thủy giữa các cường quốc nguyên tử và các quốc gia
phi nguyên tử.
Năm 2003, một đề nghị hợp tình hợp lý của Mohamed
ElBaradei, giám đốc Cơ Quan Năng Lượng Nguyên
Tử Quốc Tế - IAEA: tất cả mọi việc sản xuất
và biến chế các vật liệu dùng làm vũ khí phải được
đặt dưới sự kiểm soát quốc tế, với đảm bảo các xứ sử
dụng chính đáng được quyền tự do tiếp cận các nguồn
cung cấp. Đây là bước đầu hướng đến thực thi
quyết nghị 1993 của LHQ kêu gọi một Hiệp Ước Ấn
Định Mốc Giới Giữa Các Loại Vật Liệu Hạt Nhân
(Fissile Material Cutoff Treaty - FISSBAN). Trừ
phi đề nghị nầy được chấp hành nghiêm chỉnh, viễn
tượng thượng tồn của nhân loại trong trường kỳ sẽ
không mấy sáng sủa.
Ngày nay, đề
nghị của ElBaradei chỉ được một quốc gia duy nhất
chấp thuận: Iran, tháng 2-2006, trong cuộc
phỏng vấn với Ali Larijani, trưởng đoàn thương
thuyết nguyên tử của Iran.
Chính
quyền Bush bác bỏ FISSBAN. Tháng 11-2004, Uỷ Ban
Giải Trừ Vũ Khí LHQ (UN Committee on Disarmament) bỏ
phiếu chấp thuận FISSBAN, một hiệp ước có thể kiểm
chứng, với số phiếu 147-1(Mỹ). Anh và Israel bỏ
phiếu trắng. Trong khi thảo luận, đại sứ Anh cho
biết Anh quốc ủng hộ hiệp ước, nhưng không thể bỏ
phiếu thuận vì như thế sẽ gây chia rẽ trong cộng
đồng thế giới: 147-1. Ưu tiên của chính quyền
Blair đã tỏa sáng và rõ ràng.
Năm 2005, Đại Hội Đồng LHQ cũng bỏ phiếu chấp thuận
với tỉ số: 179-2 (Hoa Kỳ và Palau); Israel và Anh
quốc bỏ phiếu trắng.
Vẫn còn có nhiều cách để giảm thiểu và có lẽ chấm
dứt các khủng hoảng tương tự:
Bước đầu: tố cáo những đe dọa khả tín của Hoa Kỳ và
Israel - gián tiếp buộc Iran phải phát triển vũ khí
hạt nhân vì mục đích tự vệ - như một vi phạm trầm
trọng Hiến Chương LHQ.
Bước thứ hai: cùng với toàn thế giới, chấp thuận
hiệp ước FISSBAN, cũng như đề nghị của ElBaradei,
hay những đề nghị tương tự.
Bước thứ ba: triệt để thi hành Điều VI NPT, buộc các
quốc gia nguyên tử phải đem hết thiện chí thương
thuyết loại bỏ vũ khí nguyên tử, một nghĩa vụ pháp
lý mang tính ràng buộc, như Tòa Án Quốc Tế đã quy
định. Cho đến nay, không một quốc gia có vũ khí hạt
nhân nào làm tròn trọng trách, nhưng Hoa Kỳ là nước
vi phạm nhiều nhất, bỏ xa các xứ khác.
Những bước nêu trên sẽ giúp giảm thiểu tính nghiêm
trọng của các cuộc khủng hoảng sắp tới với Iran.
Nhưng trên hết, điều quan trọng hàng đầu là phải
lắng nghe lời cảnh báo của Mohamed ElBaradi:
"Không thể có
một giải pháp quân sự cho tình trạng hiện nay. Đó là
điều không thể quan niệm. Giải pháp lâu dài duy nhất
là một giải pháp thương nghị".
Và đây là giải pháp trong tầm tay.
THAY LỜI
KẾT LUẬN
Những biến động tiếp theo sau cuộc bầu cử tổng
thống ở Iran ngày 12-6-2009, nhắc nhở mọi người cần
nhớ lại chính sách các đế quốc Tây phương luôn theo
đuổi trong các thuộc địa: chia rẽ giữa các quốc gia
lân bang trong khu vực và ngay trong nội bộ mỗi nước
giữa các phe nhóm, các sắc dân...khác nhau.
Năm 2000 ở Mỹ, George W. Bush, Tổng-Thống-Được-Chọn
(President-Select) lên nắm quyền sau cuộc bầu cử
trong đó ứng viên Al Gore rõ ràng thắng phiếu, nhờ
ở quá trình kiểm phiếu "minh bạch" ở Bang
Florida với Thống Đốc Jeff Bush, và phán quyết
"hợp hiến" của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Không
thấy có nhiều bình luận hay phản ứng ồn ào từ
chính giới, từ giới truyền thông, từ Quốc Hội...nhờ
" truyền thống tự do, dân chủ, pháp trị" của siêu
cường duy nhất, cũng như "truyền thống ái quốc" luôn
được tập đoàn các đại công ty đa quốc gia, tập đoàn
quân-sự-kỹ-nghệ hậu thuẫn và phát huy.
Trở lại
với cuộc bầu cử tổng thống ở Iran: ứng viên Mahmoud
Ahmadinejad tái đắc cử với 63% số phiếu. Thật khó
lòng phủ nhận hậu thuẩn mạnh mẻ của đa số cử tri.
Các cơ quan truyền thông Tây phương cũng đã phải
công nhận Ahmadinejad vẫn được sự ủng hộ rộng rãi
của các cử tri nghèo, giới công tư chức, các người
được hưởng an sinh xã hội. Ahmadinejad cũng có cơ sở
hậu thuẩn mạnh mẽ trong phe xã hội bảo thủ, các cử
tri chống tham nhũng trong chính quyền và các phần
tử vọng ngoại luôn hướng về Tây phương. Ngoài ra,
Ahmadinejad còn được đội quân Phòng Vệ Cách Mạng,
dân quân Basij, và lực lượng cảnh sát hết lòng ủng
hộ.
Hội Đồng
Cấp Thẩm - Expediency Council,
dưới quyền lãnh đạo của nguyên Tổng Thống Ali
Akbar Hashemi Rafsanjani, cũng đã ra tuyên bố:
quyết định của Lãnh Tụ Tôn Giáo Tối Cao là chung
thẩm về kết quả bầu cử. Rafsanjani là một trong
những người chỉ trích Mahmoud Ahmadinejad nặng nề
nhất và cũng là một trong những người ủng hộ Mir
Hussein Moussavi, ứng viên đối lập chính yếu của
Ahmadinejad trong cuộc bầu cử.
Trong mọi tình huống, luật pháp và chủ quyền của
Iran cũng như của bất cứ quốc gia nào khác phải được
tôn trọng. Mọi can thiệp từ các "đại ca" bên ngoài
không thể chấp nhận và cần được lên án.
Tuy nhiên, các cường quốc Tây phương, nhất là Anh
quốc và Hoa Kỳ, vẫn không chịu bỏ qua cơ hội để cô
lập và làm suy yếu Iran, qua các hành động bí mật
tiếp tay cho các thành phần nhẹ dạ, các nhóm chống
đối, hoặc công khai yểm trợ và cổ súy các lực lượng
đứng sau các biến động hậu bầu cử hiện nay. Họ luôn
hoan hỉ lên án vi phạm nhân quyền, bầu cử gian lận,
chà đạp tự do dân chủ, bất công, độc tài...ở Iran -
ngây thơ tin tưởng các thành tích của chính họ trong
những phạm trù nầy ở Trung Đông thế tất rồi cũng đi
vào quên lãng.
Tóm lại, các cường quốc Tây phương luôn tin tưởng
sức mạnh sẽ tạo ra lẽ phải", hay như người Pháp
thường nói: "Lý lẽ của kẻ mạnh nhất luôn là lý lẽ
tốt nhất"
,
Ahmadinejad cho biết viễn ảnh một cuộc đối thoại
với Iran đã kém phần sáng sủa.
Ahmadinejad còn nói rõ: lập trường của Hoa Thịnh
Đốn có thể phương hại đến mục tiêu của Obama mong
muốn những quan hệ tốt đẹp hơn.
Ahmadinejad hỏi tiếp: Hình như ông ta đã nói muốn
thay đổi? Tại sao ông lại xen vào nội bộ của Iran?.
Phải chăng Obama đã chịu quá nhiều áp lực từ nhóm
Washington Consensus, phái Tân bảo thủ, các tài
phiệt Wall Street và phe hữu?
Cuộc đảo chính hôm qua (28-6-2009) ở Honduras là một
nhắc nhở khác cho người dân các xứ cựu thuộc địa
luôn sống trong cảnh thù trong giặc ngoài!
Hãy chờ xem phản ứng của người dân Honduras trong
những ngày tới, và của Tổ Chức Các Quốc Gia Châu
Mỹ - OAS - trong phiên họp khẩn cấp vào ngày
mai, 30-6-2009!
© GS
Nguyễn Trường
29-6-2009
|
| | |
©
http://vietsciences.org và
http://vietsciences.free.fr- Nguyễn Trường |