QUAN HỆ KINH TẾ ĐAN XEN
Một trong những nguyên nhân
đưa đến tình trạng căng thẳng trong các quan hệ quốc tế gần đây, đặc biệt
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc (TQ) là hối suất đồng nhân dân tệ (renminbi -
RMB). Được duy trì ở một mức thấp và cố định đối với đồng USD, hối suất
đồng RMB đã gây trở ngại không ít cho quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Lãnh đạo một số quốc gia trên
thế giới đã lên tiếng chỉ trích TQ nhào nặn hối suất đồng RMB. Từ năm
2003, TQ luôn bán đồng RMB và mua các ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD, với
mục đích hạ thấp giá trị đồng RMB nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu. Vào thời điểm đó, TQ đã gặt hái được 10 tỉ USD thặng dư
mỗi tháng, và cân thương mãi hữu hình đã tích lũy một số thặng dư 46 tỉ.
Ngày nay, số thặng dư hàng
tháng đã lên đến 30 tỉ và tổng số ngoại tệ dự trữ cũng đã trên dưới 2,400
tỉ USD. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), chương mục vãng lai của TQ sẽ
thặng dư trên 450 tỉ riêng trong năm 2010 - gấp 10 lần con số năm 2003.
Đây là chính sách hối suất bất cân xứng nhất một siêu cường đã và đang
theo đuổi.
Đã hẳn, chính sách kinh tế
vừa nói của TQ đã gây tai hại nghiêm trọng cho phần còn lại của thế giới.
Hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới hiện đang kẹt trong tình trạng
thiếu thanh khoản và suy thoái trầm trọng, nhưng không thể hồi phục qua
biện pháp cắt giảm lãi suất vì lãi suất hiện cũng đã xuống gần số không.
Qua việc theo đuổi một chính sách ngoại thương nhằm thành đạt một ngạch số
thặng dư không mấy chính đáng, TQ, trong thực tế, đã áp đặt một phương
cách chống kích cầu lên phần còn lại của thế giới, một lỗ hổng lãnh đạo
các đại cường khó thể bù đắp.
Trước thực trạng nầy, cấp
lãnh đạo nhiều nước đang chờ phản ứng của Mỹ.
Theo luật, Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ
phải phúc trình hai lần mỗi năm nêu danh tính những nước "đã nhào nặn
hối suất đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD với mục đích ngăn trở
các điều chỉnh hữu hiệu trong cân chi phí hay giành lợi thế để cạnh tranh
bất chính trong mậu dịch quốc tế".
Chủ đích của đạo
luật rất rõ ràng: phúc trình là một văn kiện xác định tình hình thực tế,
không phải chỉ là một xác định chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, Bộ
Ngân Khố vừa không muốn có hành động cụ thể đối với đồng RMB cũng như
không muốn làm những gì luật pháp đòi hỏi: giải thích trước Quốc Hội lý do
tại sao không hành đông. Thay vào đó, Bộ Ngân Khố, trong 6, 7 năm qua, đã
giữ thái độ làm ngơ như chẳng thấy gì.
Lý do không nói ra: Bộ Ngân
Khố muốn tránh phản ứng của TQ, nói một cách khác, không dám khiêu khích,
e ngại TQ có thể sẽ tung ra thị trường phần lớn khối lượng tích sản USD dự
trữ.
Câu hỏi cần được đặt ra: Điều
gì sẽ xẩy đến nếu TQ tung ra bán phần lớn tích sản USD của họ? Lãi suất sẽ
tăng vọt? Chắc là không. Lãi suất ngắn hạn của Mỹ sẽ không thay đổi vì Cục
Dự Trữ đang duy trì lãi suât ngắn hạn ở mức gần số không, và sẽ không nâng
cao cho đến lúc nào tỉ lệ thất nghiệp sụt giảm. Lãi suất dài hạn có thể
tăng lên đôi chút, nhưng phần lớn còn tùy thuộc ở sự chờ đợi của thị
trường về lãi suất ngắn hạn trong tương lai. Và Cục dự trữ luôn có thể bù
đắp bất cứ tác động nào trên lãi suất bằng cách mua vào các trái phiếu dài
hạn.
Đã hẳn, nếu TQ bán ra các
tích sản USD, đồng Mỹ kim sẽ mất giá đối với các ngoại tệ mạnh khác, như
đồng euro chẳng hạn. Nhưng điều nầy sẽ có lợi cho Hoa Kỳ, bởi lẽ hàng Mỹ
sẽ hạ giá và tăng tính cạnh tranh, nhờ đó, sẽ giúp giảm thiểu khuy khiếm
trong cân thương mãi. Mặt khác, điều nầy sẽ bất lợi cho TQ, vì TQ sẽ thua
thiệt khi số mỹ kim dự trữ kếch sù mất giá.
Vì vậy, Hoa Kỳ không có lý do
phải sợ TQ.
Một câu hỏi khác cần được
trả lời: Hoa Kỳ nên làm gì ?
Nhiều nhà phân tích nghĩ, Hoa
Kỳ nên thương thảo với TQ thay vì đối đầu.
Nhưng điều đó Hoa Kỳ đã từng
làm trong nhiều năm và chẳng đi đến đâu, trong khi số thặng dư trong cân
thương mãi TQ ngày một tăng vọt. Vào đầu tháng 3-2010, Thủ Tướng Ôn Gia
Bảo đã tuyên bố một cách sống sượng: đồng RMB không hề bị định giá thấp,
trong khi Viện Kinh Tế Quốc Tế Peterson ước tính đồng RMB đã được định giá
thấp khoảng từ 20 đến 40%. Và họ Ôn đã tố cáo các quốc gia khác đang làm
những gì TQ thực sự đang làm: tìm cách làm suy yếu đơn vị tiền tệ của
chính mình "chỉ để tăng xuất khẩu".
Dù sao, nếu thương thảo dịu
ngọt không thành công, liệu Hoa Kỳ có thể làm gì khác?
Năm 1971, Hoa Kỳ đã phải đối
diện một sự kiện tương tự, nhưng ít nghiêm trọng hơn, liên quan đến việc
đánh giá thấp đơn vị tiền tệ của một số quốc gia, và đã áp đặt một thuế
quan phụ thu tạm thời 10% lên hàng nhập khẩu trong vài tháng, cho đến khi
Đức, Nhật, và một số các quốc gia khác, chịu nâng giá đơn vị tiền tệ của
mình đối với đồng USD. Cho đến nay, người ta thấy khó lòng thuyết phục TQ
thay đổi chính sách trừ phi phải đối diện với một đe dọa tương tự - nhưng
lần nầy thuế suất phụ thu có lẽ phải cao hơn nhiều, 25% chẳng hạn.
LẬP TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC VÀ
HOA KỲ
Chiều ngày 19-6-2010, TQ loan
báo sẽ cho phép hối suất đồng RMB tự do lên xuống, một động thái nhằm giảm
thiểu sự chỉ trích các chính sách kinh tế TQ ở trên thế giới và tháo ngòi
một trong những nguyên nhân gây căng thẳng lớn lao nhất giữa Bắc Kinh và
Hoa Thịnh Đốn.
Bản tuyên bố của ngân hàng
trung ương TQ là dấu hiệu rõ ràng Bắc Kinh sẽ cho phép đơn vị tiền tệ của
mình dần dà tăng giá đối với đồng USD. Lãnh đạo thế giới sẽ họp mặt một
tuần sau đó để thảo luận các vấn đề kinh tế, và chính sách tiền tệ của TQ
sẽ có thể là nguyên nhân đưa đến xung đột.
Hoa Kỳ cùng với một số quốc
gia thúc đẩy TQ chấp nhận thả nổi đồng RMB. Nhiều dân biểu nghị sĩ trong
Quốc Hội Mỹ tin: chính sách hối suất của TQ đã đem lại cho Bắc Kinh lợi
thế không chính đáng trong mậu dịch quốc tế, và hiện đang có một phong
trào ngày một lớn mạnh đòi hỏi phải hành động trả đũa nếu TQ không chịu
điều chỉnh.
Tuy nhiên, T T Obama và bộ
trưởng ngân khố, Timothy F. Geithner, đã nhanh nhẩu khen ngợi hành động
của TQ. Obama tuyên bố: "Quyết định tăng tính uyển chuyển của hối suất
là một bước xây dựng có thể giúp bảo đảm tiến trình phục hồi và đóng góp
vào một nền kinh tế toàn cầu quân bình hơn".
Ủy Hội Âu Châu cũng đồng tình ủng hộ động thái vừa nói.
Dù sao, người ta cũng phải
đợi xem: liệu động thái đó sẽ giúp tái lập quân bình mậu dịch quốc tế đến
mức nào. Ngân Hàng Nhân Dân TQ, thận trọng trong chừng mức đồng RMB có thể
dao động, đã minh thị cảnh báo: "hiện không có cơ sở cho một sự tăng
giá quan trọng trong hối suất đồng RMB".
Các quan chức TQ nói rõ, đồng RMB sẽ thay đổi tương đối với một giỏ ngoại
tệ không được liệt kê, chứ không chỉ với đồng USD.Theo nhiều chuyên gia,
tùy theo hệ thống được thiết kế như thế nào, TQ có thể tránh các điều
chỉnh chóng vánh. Bộ trưởng Ngân Khố Geithner cũng ám chỉ như vậy khi nói:
"Đây là một bước tiến quan trọng, nhưng sự thử thách sẽ ở biên độ và
nhịp độ cho phép đơn vị tiền tệ lên giá".
Dấu hiệu đầu tiên - đồng RMB
lên giá bao nhiêu - sẽ diễn ra vào sáng thứ hai kế tiếp, khi chính quyền
TQ ấn định biên độ điều chỉnh hối suất lần đầu của đồng RMB trong phiên
giao dịch trên thị trường ngoại hối Thượng Hải.
Từ giữa năm 2008, TQ luôn giữ
giá trị đồng RMB ở mức thấp, gắn liền với giá trị đồng USD, và không cho
dao động. Vì vậy, giá trị đồng RMB lẽ ra đã phải cao hơn nhiều nếu được
thả nổi, và hàng hóa của TQ cũng đã đắt hơn đối với giới tiêu thụ nước
ngoài, và rất có thể đã làm chậm tỉ suất tăng trưởng của nền kinh tế cơ sở
trên xuất khẩu của TQ.
Trong tuyên bố ngày 19-6 vừa
qua, ngân hàng trung ương nói rõ kinh tế TQ đã được tăng cường sau cuộc
khủng hoảng và hiện nên xúc tiến cải cách chính sách tiền tệ. Điều nên lưu
ý là bản công bố lần nầy đã đồng thời bằng tiếng Hoa và Anh ngữ, một điều
hiếm khi xảy ra, và theo một viên chức Mỹ, các quan chức TQ đã thông báo
trước cho các chính phủ nước ngoài là họ sắp đưa ra lập trường mới trong
chính sách tiền tệ.
Mặc dù TQ cho biết hành động
nầy cơ sở trên quyền lợi kinh tế của chính TQ, trong thực tế, TQ đang bị
sức ép từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu châu, Brazil và Ấn Độ. Riêng T T Obama,
trong suốt một năm qua, cũng đã nhiều lần nêu vấn đề với Chủ Tịch Hồ Cẩm
Đào, lần mới nhất vào đầu tháng 6-2010; và bộ trưởng Ngân Khố Geithner
cũng đã qua TQ thương thảo trong tháng 5-2010.
TQ đã tiến hành chính sách
mới một cách rất dè dặt, âu lo người dân TQ có thể xem đây là động thái
nhượng bộ trước sức ép của nước ngoài, không phù hợp với quyền lợi quốc
gia.
Riêng đối với T T Obama, hối
suất đơn vị tiền tệ TQ từ lâu đã là một vấn đề khó xử lý. Obama cũng rất
cần Bắc Kinh giúp chế ngự các chương trình nguyên tử của Iran và Bắc Hàn,
hành động như một trong những đầu tàu trong kinh tế thế giới, cũng như
kiềm chế trong nổ lực độc quyền tiếp cận các tài nguyên và nguyên liệu
trên khắp thế giới cần thiết cho tốc độ và tầm vóc tăng trưởng của TQ.
Tuy nhiên, thế đòn bẫy của
Obama không đáng kể; và rút cuộc, hình như chỉ có sự đe dọa qua các biện
pháp bảo hộ mậu dịch trong dự luật đã đệ trình trước Quốc Hội, bất lợi đối
với hàng xuất khẩu của TQ, mới mong có thể thuyết phục được Bắc Kinh thả
nổi đồng RMB.
Biện pháp đe dọa lần nầy được
nhiều dân biểu, nghị sĩ trong Quốc Hội hậu thuẫn. Các nhà lập pháp tin, TQ
đang duy trì đơn vị tiền tệ của họ ở một mức thấp giả tạo, phương hại cho
kinh tế Hoa Kỳ. Max Baucus, nghị sĩ Dân chủ bang Montana và chủ tịch Ủy
Ban Tài Chánh Thượng Viện, đã phát biểu: "Sự loan báo ngày hôm nay
[19-6] là một bước đầu đáng hoan nghênh, giúp các doanh nghiệp Mỹ tăng
tính cạnh tranh và tạo thêm công ăn việc làm cho dân Mỹ".
Trong khi đó, Charles E.
Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, lại cảnh cáo: trừ phi TQ nói rõ
thêm chi tiết của kế hoạch,
"chúng tôi sẽ không có lựa chọn nào khác
hơn là xúc tiến dự luật của chúng tôi".
Nếu đồng RMB tăng giá đáng
kể, hàng hóa từ Hoa Kỳ và nhiều xứ khác cuối cùng cũng có thể bắt đầu thay
thế hàng xuất khẩu của TQ. Điều nầy có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế trong nhiều nước đối tác của TQ, cùng lúc kiềm hãm tốc độ tăng trưởng
của TQ cho đến nay đã bành trướng nhanh đến độ lạm phát giờ đây đã lúc một
gia tăng.
Công xá ngày một tăng cao sau
những bất ổn lao động gần đây, cùng với một đồng RMB mạnh, cũng có thể
biến TQ thành một thị trường tiêu thụ hấp dẫn hơn đối với các công ty trên
thế giới. Điều nầy sẽ có thể có lợi cho Âu châu nhiều hơn là Mỹ. Xuất khẩu
từ Mỹ đến TQ lâu nay rất yếu ớt và chỉ tập trung vào một vài loại hàng hóa
như phi cơ, các máy turbines, và đậu nành, trong khi các công ty Âu châu
đã rất thành công với các tiêu thụ phẩm xuất khẩu cao cấp.
Đối với TQ, một đồng RMB mạnh
sẽ gia tăng mãi lực của giới tiêu thụ, và giá năng lượng và các sản phẩm
nhập khẩu có thể rẻ và ít tốn kém hơn. Đối diện với các bất ổn lao động
ngày một lan tràn, nhất là trong kỹ nghệ xe hơi, nhà cầm quyền TQ đã bắt
đầu các nổ lực nhằm cải thiện đời sống của công nhân viên trong các ngành
công kỹ nghệ.
Nhiều kinh tế gia bên trong
và bên ngoài TQ đã lập luận: sự lên giá của đồng RMB trước hết là nằm
trong quyền lợi của TQ. TQ đã chi tiêu gần 10% GDP để mua trái phiếu ngân
khố, chứng khoán, và các loại trái khoán có bảo đảm của nước ngoài trong
khi in và bán ra đồng RMB, trong nỗ lực nhằm ngăn ngừa đồng RMB lên giá
đối với đồng USD.
Đồng RMB, đồng thời với đồng
USD, đã tăng giá khoảng 15%, đối với đồng euro trong hơn hai tháng qua.
Điều đó đã khiến các viên chức TQ âu lo về tính cạnh tranh của hàng xuất
khẩu qua Âu châu, thị trường lớn nhất cho hàng xuất khẩu TQ.
Cui Tiankai, thứ trưởng ngoại
giao, ngày thứ sáu 18-6-2010, cho biết: giá trị đồng RMB không phải là đề
tài thảo luận toàn cầu, phát biểu mới nhất trong chuổi nhiều lần phát
biểu bởi các quan chức TQ, phản ảnh sự nhạy cảm mang tính "quốc gia chủ
nghĩa" đối với chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, những người quen
thuộc với quá trình làm chính sách ở TQ, trong hai tháng qua, luôn cho
biết: giới lãnh đạo TQ, ngay từ đầu tháng 4-2010, đã nhất trí thay đổi
chiều hướng chính sách tiền tệ. Nhưng trận động đất tàn phá miền Tây TQ
vào giữa tháng 4-2010 cùng với những âu lo về tác động của suy thoái kinh
tế Âu châu, đã đưa đến việc trì hoãn các hành động thể hiện quyết định vừa
nói.
THAY ĐỔI HỐI SUẤT ĐỒNG NHÂN
DÂN TỆ
Trong những năm tháng gần
đây, các nhà làm chính sách trong thế giới giàu đã gây sức ép buộc TQ từ
bỏ việc gắn chặt hối suất đồng nhân dân tệ với đồng USD. Ngày 19-6-2010,
một tuần trước ngày nguyên thủ các quốc gia quy tụ về Toronto, Canada,
tham dự hội nghị thượng đỉnh G20, TQ cuối cùng cũng đã nhượng bộ. Ngân
Hàng Trung Ương TQ cho biết sẽ cho phép đồng nhân dân tệ tự do lên xuống
đối với một gói các ngoại tệ mạnh, mặc dù loại bỏ khả năng tái định giá
dứt khoát một lần. Sự loan báo đã được bộ trưởng ngân khố Hoa Kỳ Tim
Geithner đón nhận một cách dè dặt. Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư, ông đã
tỏ ra nhẹ nhõm vì đã tránh được khả năng va chạm về đồng nhân dân tệ.
Động thái nầy cũng đã đến rất
đúng lúc, giúp giảm thiểu nổi e ngại: TQ có thể không còn mặn nồng với
việc tìm cách giúp tái lập quân bình kinh tế thế giới. Ngạch số thặng dư
lớn lao trong cân thương mãi hữu hình của TQ đã sụt giảm tương đương
khoảng 1/3 GDP trong năm 2009, và có thể sẽ sụt giảm nhiều hơn. Nhưng số
xuất khẩu gia tăng trong tháng 5-2010 đã gây lo ngại: TQ có thể một lần
nữa trông cậy vào các thị trường hải ngoại để duy trì tăng trưởng một khi
thế giới giàu ra khỏi đại suy thoái.
Qua việc thả nổi đồng RMB, TQ
có thể xoa dịu phe chỉ trích trong Quốc Hội Mỹ, nay không còn nhiều lý do
để tin TQ đã trợ giúp giới xuất khẩu qua duy trì đơn vị tiền tệ ở một hối
suất thấp. Đồng thời nó cũng giúp TQ có thêm dụng cụ để làm nguội bớt nền
kinh tế đang nóng và kiềm chế lạm phát. Một RMB mạnh hơn sẽ làm giảm giá
hàng nhập khẩu. Một điều lợi khác là việc từ bỏ buộc chặt hối suất đồng
RMB vào đồng USD cũng giúp giải phóng chính sách lãi suất của TQ.
Sự thay đổi chiều hướng được
hoan hỉ đón nhận nhưng sẽ khó lòng đem lại hiệu quả nhanh chóng. Một vấn
đề khác là chính sách hối đoái của TQ sẽ được một số quan chức ở Hoa Thịnh
Đốn xét đoán tùy theo tầm cỡ lên giá của đồng nhân dân tệ đối với đồng
USD, không với các đơn vị tiền tệ khác. Nếu đồng euro mất giá hơn nữa, sự
lên giá của đồng RMB đối với đồng USD sẽ chậm hơn, và điều nầy sẽ khiến
Quốc Hội Hoa Kỳ thêm phần chống đối khi ngày bầu cử giữa kỳ vào tháng 11
đến gần hơn.
Đã hẳn, phần lớn cũng còn tùy
thuộc tốc độ lên giá của đồng nhân dân tệ. Một số nhà quan sát mong đợi sự
lên giá của đồng RMB sẽ cùng tốc độ với lần tách rời khỏi đồng USD năm
2005 và tiếp diễn trong 3 năm. Sự mong đợi nầy có lẽ quá lạc quan. Sự lo
ngại của TQ đối với viễn ảnh kinh tế của thế giới giàu có thể có nghĩa sự
lên giá của đồng nhân dân tệ lần nầy sẽ phải chậm hơn. TQ muốn chận đứng
dòng chảy "tư bản nóng" vào TQ (để đầu cơ) khiến các loại chứng khoán và
giá bất động sản và nhà ở bất thần tăng vọt. Bên cạnh các biện pháp bảo vệ
qua các biện pháp kiểm soát tư bản, TQ chắc sẽ dè dặt trong ý tưởng cho
phép đồng RMB lên giá với một nhịp ổn định và nhanh chóng. Do đó, sự tăng
giá 0,4% đối với đồng USD trong ngày đầu ngay sau khi loan báo đã sụt giảm
một phần trong ngày kế tiếp.
Trong mọi trường hợp, điều
chỉnh những mất quân bình trong mậu dịch không phải chỉ là vấn đề điều
chỉnh hối suất đơn vị tiền tệ đơn thuần. Trên nguyên tắc, một đồng RMB
mạnh hơn sẽ khiến lợi nhuận từ hàng xuất khẩu thấp hơn, và giới tiêu thụ
quốc nội sẽ có nhiều mãi lực hơn. Tuy nhiên, số nhân công mất việc từ các
kỹ nghệ xuất khẩu của TQ sẽ phải đi tìm việc mới ở các ngành khác. Và
nhiều xáo trộn và cọ xát sẽ làm quá trình nầy thêm phần khó khăn. Cho đến
khi các trở ngại được san bằng, một sự lên giá nhanh chóng của đồng RMB có
thể đưa đến một sự gia tăng trong số nhân công bị mất việc, chứ không phải
một sự bùng nổ tăng chi ở TQ.
Những cải cách cần thiết để
giải quyết tận gốc các nguyên nhân của số tiết kiệm thái quá ở TQ, vì vậy,
phải là một phần thiết yếu trong giải pháp dài lâu đối với các mất quân
bình toàn cầu. Điều nầy có nghĩa nới lỏng tín dụng nhiều hơn để làm dễ
dàng cho các xí nghiệp nhỏ trong các ngành dịch vụ cần nhiều nhân công dễ
cạnh tranh với các xí nghiệp được nhà nước nuông chiều và yểm trợ; cũng có
nghĩa cần quản lý các công ty tốt hơn nhằm giúp giải tỏa số thanh khoản,
tồn trữ hay bất động hóa bởi các xí nghiệp quốc doanh, vào nền kinh tế;
cũng còn cần một mạng lưới an sinh xã hội rộng lớn hơn để thuyết phục các
hộ gia đình họ không còn cần phải bảo hiểm phòng ngừa mọi tai ương. Một
đơn vị tiền tệ mạnh là một trợ lực cho các thay đổi. Tuy vậy, nó không thể
đủ để chuyển hóa nền kinh tế TQ.
TIẾN TRÌNH ĐIỀU CHỈNH ĐỒNG
NHÂN DÂN TỆ VÀ GIỚI HẠN
Hàng hóa từ TQ, dù với giá
rẻ, vẫn có thể làm vẩn đục quan hệ với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, vào đầu tháng
6-2010, các viên chức Hoa Kỳ đã tịch thu một số mật ong nhập khẩu từ TQ
với lý do vi phạm các chuẩn mực an toàn thực phẩm. Mật ong TQ chứa thuốc
trụ sinh dùng để ngừa "foulbrood", loại bệnh thường tấn công các
nhộng ong mật. Charles Schumer, nghị sĩ Dân Chủ bang New york, đã lên án
những công ty xuất khẩu mật ong TQ như "những người rửa mật ong"
(honey launderers).
Tuy nhiên, mật ong không phải
là vấn đề rắc rối duy nhất chia rẽ hai quốc gia. Schumer và nhiều dân biểu
nghị sĩ trong Quốc Hội còn chỉ trích chính sách tiền tệ của TQ. Họ luôn
thúc đẩy T T Barack Obama phải có lập trường cứng rắn đối với TQ. Ngày
16-6-2010, Schumer đã gửi thư cho lãnh đạo nhóm G20, nhấn mạnh "hối
suất thị trường, do cung cầu ấn định, là thiết yếu đối với sinh hoạt kinh
tế toàn cầu".
Nhiều người e ngại một bầu không khí căng thẳng khi các nhà lãnh đạo quy
tụ về Toronto, Canada, trong hai ngày 26-27 tháng sáu.
Nhưng như đã đề cập ở các
phần trên, vào ngày 19-6-2010, TQ đã công bố biện pháp định giá đồng RMB
uyển chuyển hơn. Động thái nầy có khả năng giảm thiểu sự chỉ trích quốc
tế, nhất là Hoa Kỳ. Ngân Hàng Nhân Dân Trung Ương TQ (People's Bank of
China - PBOC) sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng nhân dân tệ và đồng USD
mỗi buổi sáng. PBOC loan báo sẽ gia tăng tính mềm dẻo của hối suất đồng
nhân dân tệ, đã được ấn định bằng 6,83 USD kể từ tháng 7-2008. Từ nay, để
ấn định hối suất, PBOC sẽ quan tâm đến tỉ trọng mậu dịch trong một giỏ các
ngoại tệ, cũng như luật cung cầu của thị trường.
Trên thị trường ngoại tệ non
trẻ của TQ, Ngân Hàng Trung Ương sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng RMB
và đồng USD. Trong hai năm qua, ngân hàng trung ương đã cho phép đơn vị
tiền tệ lên xuống không đáng kể đối với mức tương đồng 6,83 USD. Nay PBOC
hình như sẵn sàng cho phép hối suất tăng tới 0,5% mỗi ngày. Vào ngày thứ
hai tiếp theo sau ngày công bố chính sách mới, PBOC đã để đơn vị tiền tệ
tăng giá trên 0,4%, đưa đến phản ứng khá sôi nổi trên thị trường. Với nhịp
nầy, giá trị đồng nhân dân tệ sẽ tăng gấp đôi sau 174 ngày. Buổi sáng hôm
sau, PBOC lại ấn định hối suất mới phản ảnh tình hình cung cầu vào cuối
ngày hôm trước. Tuy nhiên, sau ngày thứ ba, PBOC quyết định cung cầu trên
thị trường cần được thúc đẩy chút ít. Các ngân hàng lớn của nhà nước đã
mua rất nhiều USD, có lẽ theo sự thúc đẩy của Ngân Hàng Trung Ương, do đó,
PBOC đã có thể ấn định hối suất vào sáng thứ tư ở mức thấp - 6,81 USD.
Lần cuối cùng sau ba năm, hối
suất đồng nhân dân tệ chỉ gia tăng 21% so với đồng USD. Nhưng rất có thể,
lần nầy giá trị đơn vị tiền tệ của TQ không tăng ngay cả lên mức đó. TQ
không muốn đơn vị tiền tệ của mình tăng giá nhiều hơn đối với đơn vị tiền
tệ mạnh của các nước khác (đôi khi còn sụt giảm đối với đồng USD). Theo
Ngân Hàng Trung Ương, hiện nay TQ có một danh sách dài các đối tác thương
mãi. Đối với giỏ các ngoại tệ căn bản, hối suất đồng nhân dân tệ trong năm
nay đã tăng nhiều: 17% riêng đối với đồng euro.
Vào một ngày bất kỳ nào đó,
đồng nhân dân tệ rất có thể sẽ sụt hay tăng giá đối với đồng USD. Ngân
Hàng Trung Ương luôn quan tâm tránh "tiền nóng" (hot money) có thể
len lỏi qua mạng lưới kiểm soát tư bản của nhà nước, để đầu cơ thủ lợi từ
một ngoại tệ mạnh hơn. Theo Mark Williams thuộc Capital Economics, một tổ
chức nghiên cứu, TQ đã thành công. Thị trường tiền tệ tương lai chờ đợi
đồng nhân dân tệ chỉ tăng giá khoảng 2,2% trong 12 tháng tới, một bách
phân nhỏ nhoi, nhất là trước các khó khăn rắc rối chuyển tiền ra vào TQ.
Ngay cả khi không có sự can
thiệp của Ngân Hàng Trung Ương, theo Zhao Qingming, nguyên kinh tế gia
PBOC, và David Li, một cố vấn ngân hàng trung ương, áp lực tăng giá đồng
nhân dân tệ có thể cũng chẳng bao nhiêu lần nầy.Trong một cuộc phỏng vấn
dành cho HSBC, họ cho biết ngạch số thặng dư trong mậu dịch sẽ giảm sụt
quan trọng. Sáu tháng trước đó, William Cline và John Williamson, thuộc
Viện Kinh Tế Quốc Tế ở Hoa Thịnh Đốn, đã tính: đồng nhân dân tệ có lẽ sẽ
phải tăng giá khoảng 40% so với đồng USD để tái lập thăng bằng - được họ
định nghĩa như ngạch số thặng dư 3% trong cân thương mãi hữu hình ở mức
toàn dụng. Ngày nay, họ tính lại, chỉ cần gia tăng 24% đối với đồng USD và
14% đối với toàn gói tiền tệ của các đối tác thương mãi lựa chọn dựa trên
tỉ trọng mậu dịch.
Tuy nhiên, mặc dù thặng dư
thương mãi của TQ không còn lớn lao như trước đại suy thoái, chuẩn mực mất
quân bình được Mỹ chấp nhận cũng đã sụt giảm. Trong tháng 3, 2010, sau khi
đưa ra dự luật đánh thuế quan đối với các quốc gia luôn can thiệp vào thị
trường hối đoái, Schumer đã bắn tiếng: "sự nhào nặn đơn vị tiền tệ của
TQ, ngay trong thời kinh tế bình ổn, đã không thể chấp nhận. Trong thời
buổi 10% thất nghiệp, chúng tôi sẽ không thể đơn thuần chịu đựng".
Paul Krugman, người đã được giải thưởng Nobel, đưa ra luận cứ, khi kinh tế
thế giới đang suy thoái vì số cầu sụt giảm, các xứ thường xuyên chi tiêu
ít hơn lợi tức (xuất siêu) phải chịu một phần trách nhiệm đã gây ra tình
trạng thất nghiệp.
Trong thư gửi các vị lãnh đạo
nhóm G20, T T Obama đã chỉ trích những xứ dựa nhiều vào xuất khẩu trong
khi đã kiếm được nhiều thặng dư từ mậu dịch quốc tế. TQ không phải là quốc
gia duy nhất thủ lợi . Cân thương mãi hữu h́ình của Đức cũng thặng dư -
135 tỉ USD năm 2009, tuy chưa bằng phân nửa của TQ; nhưng kích cỡ của nước
Đức cũng bé nhỏ hơn nhiều và kim ngạch thặng dư của TQ cũng giảm sụt nhanh
hơn. Theo dự phóng của The Economist Intelligence Unit, một công ty chị em
với tạp chí The Economist, kim ngạch thặng dư của Đức sẽ chỉ sụt giảm 20
tỉ trong năm 2010 (so với TQ: 68 tỉ). Những số sụt giảm nầy cũng sẽ là
phần gia tăng số cầu hàng hóa và dịch vụ đối với phần còn lại của thế
giới.
Cũng như TQ, trong hai năm
qua, Đức cũng có hối suất buộc chặt với đồng euro. Không ai lên án Ngân
Hàng Trung Ương Âu Châu (ECB) nhào nặn giá trị đồng euro. Tuy nhiên, sự
mất giá của đồng euro cũng có nghĩa các xứ thành viên trong khu vực euro
sẽ phải trông cậy vào số cầu của các nước bên ngoài khu vực để phục hồi
kinh tế. Goldman Sachs dự phóng cân thương mãi hữu hình của khu vực euro
sẽ thặng dư năm nầy, và năm sau số thặng dư sẽ còn gia tăng nhiều hơn. Có
lẽ Schumer cũng nên đòi hỏi cấm nhập khẩu Frankfurter sausages.
VÀI NHẬN XÉT TỔNG QUAN
TQ có thể đã mong đợi một
phản ứng thuận lợi hơn từ các cấp lãnh đạo thế giới. Quyết định ngưng
chính sách buộc chặt hối suất đồng RMB vào đồng USD cuối cùng cũng chỉ đem
lại cho TQ yên bình trong chốc lát với đối tác lớn nhất. Không để mất thì
giờ, Charles Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, sau đó, vẫn không
ngừng xúc tiến dự luật nhằm thuyết phục TQ nhanh chóng chấp nhận một mức
điều chỉnh cao hơn.
Schumer thực ra đã thúc đẩy
Quốc Hội phải hành động đối phó với chính sách thương mãi của TQ ngay từ
năm 2004. Với tỉ suất thất nghiệp vẫn xấp xỉ 10% và rất ít thay đổi trong
hối suất giữa RMB-USD từ 2008, chiến lược của Schumer đã thu hút được sức
hậu thuẫn ngày một gia tăng. Ông còn đệ trình một biện pháp mới với sự bảo
trợ lưỡng đảng trong tháng 3-2010. Nếu được thông qua, dự luật sẽ buộc Bộ
Ngân Khố phải phúc trình về tình hình nhào nặn hối suất của TQ (một việc
Tim Geithner đã trì hoản trong tháng 4-2010). Tùy kết quả phúc trình, hàng
TQ có thể phải gánh chịu thuế quan nhập khẩu.
Chính sách hối suất mới của
TQ đã không làm chùn tay vị nghị sĩ, vì theo ông, sẽ không làm hài lòng
các đồng nghiệp của ông. Rất có thể ông sẽ sớm đệ trình Quốc Hội một tu
chính án cho dự luật với nhiều hỗ trợ, và nhiều người nghĩ, cơ may được
chấp thuận cũng khá cao.
Viễn ảnh nầy hình như đang
khiến Tòa Bạch Ốc lo ngại. Barack Obama đã từng nhấn mạnh: rồi ra đồng RMB
cũng sẽ được tái định giá cao hơn. Nhưng trong hội nghị thượng đỉnh của
nhóm G20, Obama đã giải thích: ông không chờ đợi một sự tăng giá nhanh
chóng của đồng RMB. Thay vào đó, chính quyền Obama có thể phải lưu tâm
trong vài tháng sắp tới.
Tòa Bạch Ốc đang gây sức ép
để Schumer chịu dành cho TQ có đủ thì giờ điều chỉnh. Một sự va chạm về
mậu dịch và tiền tệ có thể gây rắc rối nghiêm trọng cho chính quyền Mỹ:
Obama đang cần sự trợ giúp của TQ trong các vấn đề Iran và Bắc Hàn. Và với
tiến tŕnh hồi phục toàn cầu c̣òn quá mong manh, thế giới không muốn có
thêm một gánh nặng: đối đầu với một tranh chấp thương mãi nghiêm trọng.
Các nhà phê bình cho rằng,
với kinh tế Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng, hối suất
thấp một cách giả tạo của đồng RMB có nghĩa nước Mỹ đang nhập khẩu thất
nghiệp. Họ lập luận, hối suất mềm dẻo hay uyển chuyển chỉ là "đại ngôn".
Kể từ khi TQ công bố chính
sách mới, đồng RMB chỉ lên giá 0,7% đối với đồng USD, và thị trường chỉ
chờ đợi đồng RMB tăng giá khoảng từ 2 đến 3% cho toàn năm 2011. Tuy nhiên,
tỉ suất nầy cũng chỉ chậm hơn chút đỉnh so với tỉ suất lên giá lúc bắt đầu
giai đoạn 2005-2008, và tổng cộng 20% cho toàn giai đoạn.
Theo nhận định của các nhà
phân tích, một sự tái định giá vào cỡ nầy sẽ có thể đưa đồng RMB lên gần
mức giá tương đồng với đồng USD. Tuy vậy, với mức thâm thủng trong cân
thương mãi của Hoa Kỳ lên tầm cỡ tiền suy thoái, các nhà lập pháp Hoa Kỳ
rất nôn nóng muốn thấy kết quả nhanh chóng hơn.
Sự chờ đợi của họ có thể
thiếu thực tế. TQ cũng đang đối diện với nhiều khó khăn nội bộ liên quan
đến đồng RMB, một sự đối đầu hay va chạm giữa các nhà ngoại giao và các
nhà vận động hành lang cho giới xuất khẩu thế lực hùng mạnh. Vì vậy, Bắc
kinh có thể có rất ít lựa chọn ngoài biện pháp tái định giá lần hồi. Một
sự tái định giá nhanh chóng có thể gây thương tổn cho kỹ nghệ chế biến,
phương hại nhiều hơn cho kinh tế toàn cầu. Cấp lãnh đạo của cả Hoa Kỳ lẫn
TQ đang âu lo tác động của cuộc khủng hoảng trầm trọng trong kinh tế Âu
châu đối với kinh tế Mỹ Và TQ.
T T Obama một lần nữa rất có
thể sẽ thành công thuyết phục Quốc Hội dành cho TQ nhiều thời gian hơn.
Nhưng cử tri Hoa Kỳ đang hết sức bức xúc và các nhà lập pháp cũng rất âu
lo. Chút ít yên bình TQ giành được với chính sách mới có thể sớm bị xói
mòn.
Trong mọi trường hợp, TQ, và
Hoa Kỳ, đang trải nghiệm những giờ phút nhức nhối trong việc thương thảo
chính sách tiền tệ của TQ. Sau những kinh nghiệm không mấy dễ chịu của cả
hai phe, thế giới bên ngoài, nhất là phần thế giới luôn là nạn nhân của
những chính sách tàn bạo của chính hai siêu cường 1 và 2, tưởng cũng có
quyền chờ đợi cả hai siêu cường sẽ có lập trường "mềm dẻo hay uyển
chuyển" hơn mỗi khi thương thảo về các vấn đề sinh tử đối với họ -
vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề bồi thường
chiến tranh, hay nhỏ nhoi hơn, vấn đề bồi thường cho các nạn nhân chất độc
da cam ở Việt Nam, là những trường hợp điển hình.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, USA
18-7-2010.