Những bài cùng tác giả
“When all else fails, look at the
Schrödinger equation!”
Robert T. Pack, April 1978
Hóa học lượng tử được sinh ra từ sự toán hóa ngành hóa
học bằng Cơ học lượng tử. Việc áp dụng các phương pháp
tính toán vào các vấn đề hóa học dựa trên cơ sở những tiên đề
chính của Cơ học lượng tử, mà nội dung chính của chúng có thể được tóm tắt
như sau:
(i)
hàm sóng Ψ(x)
của một hạt cơ bản (hay một hệ các hạt cơ bản) chứa đựng mọi
thông tin cần biết liên quan đến hệ đó (trong không gian một
chiều). Ý nghĩa vật lý của hàm số sóng được diễn tả thông qua
bình phương của hàm số sóng,
|Ψ(x)(x)|2.dx,
đại lượng này cho biết xác xuất tìm thấy hệ lượng tử
trong khoảng không gian (x, x+dx) được xác định bởi hàm sóng đó;
(ii) mọi tính chất quan sát được, hay đại
lượng vật lý đo được, của hệ đều có thể xác định được từ
Ψ(x) thông qua một toán tử
tương ứng;
(iii) cho một tính chất hay đại lượng g,
một toán tử Ĝ tương ứng được định nghĩa; áp dụng toán tử Ĝ trên Ψ(x) dẫn đến phương trình
trị số riêng Ĝ.Ψ(x) = g.Ψ(x),
và khi giải phương trình này, các trị số riêng g được xác
định. Sau khi được chuẩn hóa, ta nhận được giá trị trung bình
cho trị số riêng g trên.
Vào năm 1926, Schrödinger triển khai toán tử
cho năng lượng E, được gọi là Hamiltonian Ĥ, và thành lập
phương trình riêng mang tên ông:i
Ĥ Ψ(x) =
E Ψ(x) (1)
Trong hóa học, đại lượng quan trọng nhất là
năng lượng E của một nguyên tử, phân tử hay siêu phân tử
(gồm những nhân nguyên tử và electron), và sự thay đổi năng
lượng dọc theo tọa độ của phản ứng hóa học. Người làm hóa học
cần có các thông tin này để hiểu diễn biến và cơ chế của phản
ứng hóa học dựa trên những nguyên lý của nhiệt động lực học và
động học, và để có thể kiểm soát hay thay đổi được chúng. Cung
cấp thông tin về năng lượng của một hệ phân tử ở mọi trọng thái
electron hay thể loại là một mục đích chính của việc áp dụng
những nguyên lý Cơ học lượng tử vào hóa học. Từ đó đến nay, khởi đi từ
những năm đầu của thập niên 1930, lịch sử của Cơ học lượng
tử là một chuỗi
dài và liên tục những cố gắng lớn của nhiều nhà khoa học trong
nhiều ngành khoa học (hóa, toán, vật lý, tin học) nhằm tìm cách
giải phương trình (1) để xây dựng hàm số sóng Ψ(x) cho các hệ phân tử.
Phải nói là những “cố gắng lớn” bởi vì toán tử
Ĥ cho một phân tử
bao gồm động năng và thế năng của các nhân và electron, cộng với
năng lượng tương tác giữa chúng dẫn đến những tích phân đa tâm
phức tạp. Những tích phân này, nhất là các tích phân trong thế
năng tương tác đẩy giữa các electron, dẫn đến việc không thể
giải được chính xác phương trình (1) bằng các phương pháp toán
giải tích cho những hệ đa điện tử.
Song việc áp dụng phương trình Schrödinger đã
không bị dừng lại mà đã từng bước phát triển, đặt nền móng cho
ngành Cơ học lượng tử và góp phần mở rộng cơ sở lý thuyết cho hóa học hiện
đại. Những thành tựu của Hóa học lượng tử trong 60 năm qua luôn dựa vào những
bước đi trên hai chân. Ngay từ những ngày đầu cho đến nay, hướng
đi chính là phát triển các phương pháp tính thích hợp để xây
dựng nên những hàm số sóng (mà về tính chất là những hàm số sóng
gần đúng), so sánh kết quả với thực nghiệm và tìm cách phát
triển lý thuyết để cải thiện. Một mặt, với mỗi phương pháp mới
được đề nghị, năng lượng và những tính chất hóa học khác tính
được từ hàm sóng đã được áp dụng vào các phân tử cụ thể để hiểu
những thông tin và giải thích các hiện tượng hóa học cơ bản nhận
được từ thực nghiệm. Mục đích cuối cùng là vượt qua kết quả từ
các con tính trên các phân tử riêng lẽ để tìm những mô hình và
khái niệm chung. Mặt khác, việc cải thiện chất lượng của
Ψ(x) và E luôn được
tiếp tục bằng các phương pháp tính toán hoàn thiện hơn (thường
được gọi là “phương pháp cao hơn”) với những con tính luôn phức
tạp hơn nhiều lần, để đạt được những trị số có độ chính xác cao
hơn so với thực nghiệm.
Trên con đường dài này, ngoài kiến thức về
chuyên ngành cũng như về các kỹ thuật tính toán, những chiếc máy
tính điện tử luôn có mặt bên cạnh những người làm Hóa học
lượng tử;
Máy tính điện tử vừa là công cụ làm việc thân thuộc hàng ngày, vừa là những
người đồng hành tin cậy … Mỗi bước tiến bộ của Hóa học lượng tử, về phương
pháp cũng như độ chính xác, đều gắn liền với một giai đoạn phát
triển mới của khoa học và công nghệ thông tin, hay cụ thể hơn,
với một thế hệ máy tính điện tử.
Trong khuôn khổ của kỷ yếu này (với nhiều độc
giả không ở trong ngành hóa học), chúng tôi không có ý định đi
vào chi tiết về phương pháp tính toán phức tạp của Hóa học lượng
tử, mà muốn
ghi lại vài nét chấm phá về lịch sử của nó để nêu ra những đóng
góp của các khái niệm lượng tử trong phát triển của hóa học hiện
đại.
Áp dụng đầu tiên của phương trình Schrödinger
trên nguyên tử hydrogen (H, nguyên tử nhỏ nhất) dẫn đến khái
niệm “orbital nguyên tử” (atomic orbital, viết tắc là AO), và
tiếp theo, việc giải phương trình này cho H2+
(phân tử nhỏ nhất) đưa đến khái niệm “orbital phân tử”
(molecular orbital; mỗi MO là một tổ hợp tuyến tính của các AO
trong phân tử đó). Nhìn lại lịch sử hóa học, orbital là một khái
niệm tuyệt đẹp!. Thật đơn giản và thật cơ bản, vừa định tính,
vừa định lượng.
Định tính, vì người làm hóa học có thể xem
hình dạng, vị trí, phép đối xứng của obital để hiểu tính chất
vật lý, hóa học và diễn biến của một phản ứng. Có thể hình dung
orbital là một vùng không gian trên phân tử có chứa một cặp
electron (vâng, electron thường kết cặp với trạng thái spin khác
nhau; cũng có những chất có electron tự do). Năng lượng và hình
dạng đặc biệt của obital cho phép tiên đoán được phản ứng của
electron khi bị tấn công. Từ đó thật là đơn giản, người làm tổng
hợp hữu cơ dùng bút vẽ nguệch ngoạc trên giấy những obital của
các phân tử ban đầu mà mình đang sử dụng để hiểu được tại sao
sau tổng hợp chỉ nhận được chất này mà không có chất kia. Cũng
cùng động tác ấy, người làm hóa lý có thể hiểu được kết quả của
một phổ cực tím vừa ghi được; và dĩ nhiên là các động tác này
đều phải tuân theo những qui luật riêng của chúng (quá nhiều để
trình bày chi tiết ở đây).
Trong giai đoạn phôi thai (1930’s), Linus
Pauling đã dùng khái niệm orbital để giải thích một cách có hệ
thống cấu trúc electron của các loại chất hóa học khác nhau, và
từ đó hiểu bản chất của liên kết hóa học (nature of chemical
bonding). Giải thích của Pauling đã thay đổi bộ mặt của hóa học
trong nửa sau thế kỷ 20.ii
Charles Coulson dùng thuyết MO để phát triển thêm khái niệm liên
kết hóa học và nhất là khái niệm hóa trị (valence) trong các hợp
chất hữu cơ. Robert Mulliken dùng MO để khảo sát và đưa ra lý
thuyết mới về các hợp chất phức phân tử (molecular complexes)
không bền.iii
Khái niệm “1 orbital – 2 electron – 3 nguyên tử” trên nhóm B-H-B
do William Lipscomb đề nghị đã cho phép giải thích cấu trúc hình
học của chất boron và đã tạo cơ sở lý thuyết cho lĩnh vực này.iv
Trong giai đoạn đầu (khi chưa có máy tính),
Erich Hückel dựa trên các thông tin từ thực nghiệm đã đưa ra
những phép tính lượng tử đơn giản nhằm thay thế cho nhưng con
tính quá phức tạp (không thể tính bằng tay) để xây dựng orbital
của các chất có nối đôi hay các vòng thơm (vì vậy, phương pháp
Hückel hay tương tự thường được gọi là các phương pháp dựa trên
kinh nghiệm, empirical methods).
Thế nhưng những con tính HMO (mà sau này dùng
làm bài tập cho sinh viên trong lớp học) đã cho phép giải thích
hàng loạt phản ứng hữu cơ, và các phổ cực tím – ánh sáng thường.
Quan trọng hơn, việc có được những orbital Hückel (HMO) cho
những phân tử hữu cơ tương đối lớn đã góp phần cho phép Kenichi
Fukui đề nghị khái niệm “orbital biên” (frontier orbital) vào
đầu thập niên 1950’s để giải thích cơ chế phản ứng hữu cơ, và
sau này Roald Hoffmann phát triển thành phương pháp “Hückel mở
rộng” (EHT) để xác định hình dạng và phép đối xứng của những MO
cho các chất tham gia trong một phản ứng tạo vòng. Các kết quả
tính toán này của Hoffmann đưa đến việc hình thành các “qui luật
Woodward-Hoffmann” (WH rules) được công bố vào những năm
1965-1968, và đã tạo nên một dấu ấn lý thuyết sâu rộng trong sự
phát triển của ngành hóa học hữu cơ. Fukui đề nghị rằng: chỉ cần
nhìn vào hình dạng và năng lượng của các orbital biên (HOMO và
LUMO) của một phân tử thì đã có thể hiểu được tính chất và hướng
phản ứng của chất đó.
Trong lĩnh vực phổ, một chất hóa học hấp
thụ ánh sáng thường hay cực tím là do một (hay nhiều) electron
di chuyển từ một orbital biên này (HOMO) lên obital khác có năng
lượng cao hơn (LUMO). Qui luật WH cũng dựa trên khái niệm này;
song tiên đoán thêm rằng một phản ứng hóa học sẽ dễ xảy ra hơn
so với các phản ứng hóa học khác (xảy ra đồng thời) khi phép đối
xứng của các obital biên của nó được giữ nguyên khi đi từ chất
ban đầu đến chất cuối.v
Ví dụ đưa ra ở Hình 1 cho thấy orbital biên
HOMO của chất B80. Với 240 electron hóa trị, chất này
được xem là tương đương với hợp chất nổi tiếng C60
(carbon buckyball). Thật vậy các orbital biên của chất B80
và C60 cũng rất giống nhau (Hình 1). Hiện nay chất B80
chưa được tổng hợp, song sự tương đương của orbital biên cho
phép tiên đoán chất B80 cũng có những đặc tính của
một fullerene (boron buckyball).vi
Tóm lại, khái niệm MO và quan điểm cho rằng
phản ứng hóa học xảy ra chủ yếu là do mối tương tác giữa orbital
của hai chất tham gia phản ứng ban đầu đã thấm vào tư duy của
những người làm hóa học một cách sâu và rộng. Trong nửa sau của
thế kỷ 20, hàng loạt những nguyên lý hóa học mới được ra đời,
không những cho các phân tử hữu cơ, chất khí mà còn cho các phân
tử vô cơ, phức kim loại và chất rắn, và hiện nay là những
nanoclusters; và tất cả đều dựa vào thuyết orbital phân tử (MO).
Những khái niệm như các kiểu liên kết hóa học, obital biên, qui
luật WH, siêu liên hợp (hyperconjugation), hay tính thơm
(aromaticity)… đã dần dần làm đầy các chương đầu sách hóa đại
cương cho bậc đại học và trung học phổ thông.

B80

C60
Hình 1. Hình dạng của
HOMO
của B80 (boron buckyball) và C60 (carbon
buckyball)
Orbital cũng còn là định lượng vì trong
phương pháp để giải phương trình (1) thường được gọi là phương
pháp tổ hợp tuyến tính các orbital nguyên tử (linear combination
of atomic orbitals – self consistent field - molecular orbital
(LCAO-SCF-MO)), obitan là viên gạch. Theo đó, mỗi AO Χj
là một hàm số sóng đơn electron của một nguyên tử. Mỗi MO Φi
là một tập hợp tuyến tính của các hàm AO, Φi = Σj
Cịj Χj, và hàm số sóng của phân tử Ψ(x) là một tập hợp tuyến
tính của những hàm Φi:
Ψ(x)HF
= Σi
Ci Σj
Cịj Χj với i, j… từ 1 đến
¥ (2)
Với hàm số sóng
Ψ(x) như thế (2), việc giải (1) dẫn đến phương trình mang
tên Hartree-Fock. Từ năm 1951, Clemens Roothaan thiết lập cách
giải SCF của phương trình này trong khuôn khổ của hàm sóng
LCAO-MO.vii
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, máy tính điện tử bắt đầu được sử
dụng trong các đại học lớn ở Mỹ, nhất là những chiếc máy IBM to
lớn, và việc dùng máy tính điện tử để giải phương trình sóng được bắt đầu
thực hiện một cách có hệ thống. Những chương trình tính toán cơ
bản được viết cho các máy tính (viết bằng ngôn ngữ Fortran, hiện
nay vẫn còn dùng) trong khoảng thời gian này. Thật ra, hàm sóng
Ψ(x)HF chỉ là cơ
sở khởi đầu cho những tổ hợp tuyến tính phức tạp hơn nhằm cải
thiện độ chính xác của hàm sóng phân tử. Các tổ hợp tuyến tính
này, như phương pháp tương tác cầu hình (configuration
interaction), đều dựa trên các cấu hình điện tử kích thích tạo
ra được từ Ψ(x)HF.
Dựa theo những phương pháp tính để giải
phương trình Roothaan, Hóa học lượng tử có thể chia thành các giai đoạn sau:
A) Giai đoạn MO bán nghiệm
trong những
thập niên 1960-1990. Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm thuần
kinh nghiệm của Hückel, nhưng nhiều thông số thực nghiệm được
thay thế bằng tính toán. Các tích phân đa tâm phức tạp vẫn được
thay thế bằng những đại lượng lấy từ thí nghiệm như các thế ion
hóa, các ái lực electron, năng lượng kích thích, …. Các phương
pháp được sử dụng nhiều như CNDO (complete neglect of
differential overlap), INDO (intermediate neglect of
differential overlap) của nhóm John Pople, hay sau đó MINDO,
MNDO, AM1, PM3, … do nhóm Michael Dewar vẫn tiếp tục được sử
dụng. Điểm chung là mỗi phương pháp chỉ được dùng cho một số khá
giới hạn các đại lượng và tính chất hóa học. Độ chính xác đạt
được không cao, nhưng vì phương trình tính đơn giản nên có thể
áp dụng để tính cho hệ chứa nhiều phân tử và khi máy tính không
đủ mạnh. Vì vậy, các phương pháp này được áp dụng đại trà trong
ngành hóa hữu cơ và nhất là hoá dược… (các hãng dược phẩm dùng
các phương pháp này trong các nghiên cứu tương quan giữa hoạt
tính và cấu trúc (QSAR) khi đi tìm các chất thuốc mới). Tuy
nhiên, các phương pháp bán nghiệm không còn lý do tồn tại trong
thế kỷ 21 vì sự ra đời của những hệ thống máy tính lớn với tốc
độ xử lí dữ liệu rất nhanh và giá thành rẻ.
B) Giai đoạn MO tiên nghiệm
thường
được gọi là các phương pháp ab initio (hay
non-empirical), có nghĩa là hoàn toàn dùng phép toán để giải
phương trình (1) mà không dùng một thông tin thực nghiệm nào cả
(trừ điện tích và khối lượng nguyên tử của nguyên tố). Được bắt
đầu từ những năm 1950, song lúc đầu giá trị thông tin không cao,
và như đã nói ở trên, chỉ vài nhóm nghiên cứu lớn có thể thực
hiện được. Vào khoảng năm 1965, Enrico Clementi, khi đó đang làm
cho IBM, lần đầu tiên tính được năng lượng (dùng hàm số sóng
tiên nghiệm Hartree-Fock) cho hai cấu trúc hình tháp và phẳng
của NH3 để xách định đại lượng “inversion barier”.
Sau mấy tháng tính toán, tốn kém nửa triệu đôla, kết quả tính là
~5.5 kcal/mol, so với kết quả thực nghiệm ~6.0 kcal/mol. Quá
hứng khởi, Clementi viết “We can calculate every thing!”. Thật
sự ông đã quá lạc quan vì thực tế khó khăn hơn nhiều lần điều
ông nghĩ, song có thể nói là ngành Hóa học lượng tử tính toán
(computational quantum chemistry) hình thành từ dạo đó. Khi đó
giới nghiên cứu hóa học bắt đầu ý thức được rằng có thể dùng
phương pháp Hóa học lượng tử cộng với thuật toán và máy tính để tính, tức là
có thể tiên đoán được các thông số hóa học với độ chính xác cao,
đạt được, ít nhất không kém hơn, độ “chính xác hóa học” (± 2
kcal/mol).
Vào đầu thập kỷ 1970, nhóm John Pople ở đại
học Carnegie-Mellon công bố và phát hành chương trình tính toán
“Gaussian 70” đã làm cho việc tính toán hóa lượng tử trở nên phổ
thông hóa. Nhóm nào có kiến thức, có giờ máy tính đều có thể cài
đặt chương trình này vào máy tính của mình để chạy và dùng kết
quả để nghiên cứu. Lại hứng khởi, Alberte Pullman ở CNRS Paris
tuyên bố kỷ nguyên “ab initio cho mọi người” (ab initio pour
tout). Song song với những phát triển vượt bậc của ngành công
nghệ máy tính trong gần 40 năm qua, các phương pháp tính lượng
tử phức tạp hơn ngày càng được triển khai và đạt độ chính xác
ngày càng cao. Trở ngại chính trong tính toán là việc tính năng
lượng tương quan (correlation energy) sinh ra từ các đôi
electron. Việc tính chính xác đại lượng vô cùng nhỏ này (£0.1%
năng lượng toàn phần của phân tử) vẫn còn là một thách thức lớn
của ngành Hóa học lượng tử.
Trong một hệ phân tử có N obital phân tử
(MO), việc xây dựng hàm số sóng cơ bản Hartree-Fock có đến
Q(N4) con tính tích
phân. Các phương pháp nhiễu loạn (pertubation theory) có đến N5,
các phương pháp tương tác cấu hình (configuration interaction)
có đến N6 và những phương pháp chính xác
hiện nay như “coupled-cluster theory” phải có đến N7
con tính. Về mặt nguyên tắc, trong hàm số sóng loại (2) j = N
phải tiến đến ¥ để đạt được
một hàm số chính xác. Dễ dàng nhận thấy rằng khi N tăng nhanh
thì số phép tính và thời gian tính… cũng tăng rất nhanh về vô
cực!. Trên thực tế, sức tính (computing power) của máy tính điện
tử vẫn còn
là trở ngại trong việc áp dụng các phương pháp Hóa học lượng tử cho các phân
tử lớn (>100 nguyên tử). Song, những tính toán lượng tử được áp
dụng rộng rãi để xác định cấu trúc hình học, cấu trúc electron,
các đại lượng nhiệt động (năng lượng tạo thành, EA, PA, IE…),
động học (năng lượng hoạt hóa, năng lượng phản ứng, hằng số vận
tốc, …) và nhiều đại lượng phổ (IR, UV, NMR, ESR, NQR, MS,…). Số
lượng lớn các công trình được công bố trên các tạp chí quốc tế,
số tạp chí cũng như số hội nghị chuyên ngành cho ngành Hóa học
lượng tử tính toán cho phép hình dung được vị trí ngày càng quan
trọng của phương pháp MO trong việc giải quyết những vấn đề cơ
bản của hóa học.
C) Giai đoạn Density Function Theory.
Trước những khó khăn thực tế của phương pháp hàm sóng, trong
thập niên 1990, phương pháp density functional theory (viết tắt
là DFT, tạm dịch là lý thuyết phiếm hàm mật độ) đã được phát
triển nhanh chóng và áp dụng rộng rãi. Phương pháp DFT được
Kohn-Sham-Hohenberg đề nghị vào năm 1965 và phương pháp này dùng
mật độ điện tử r(r) = |Y(r)|2
thay vì hàm sóng Y(r) để tính
năng lượng E của hệ. Các con tính DFT được thực hiện
nhanh hơn nhiều (>102 – 105
lần) so với các con tính theo MO cho cùng một hệ phân tử. Tuy
vậy, độ chính xác về năng lượng cũng không thua kém và cũng có
đủ tính chất các loại phổ khác nhau. Nhờ tính nhanh, nên DFT
được áp dụng ngày càng rộng rãi và chủ yếu cho các phân tử có số
lượng nguyên tử lớn (phương pháp MO không thể thực hiện được).
Vì vậy, có thể gọi thập niên vừa qua là thập niên của DFT. Việc
John Pople và Walter Kohn cùng được nhận giải Nobel hóa học năm
1998 thể hiện đánh giá chung của ngành về vị trí và vai trò của
cả hai phương pháp tính.
Song, với áp dụng đại trà DFT đã xuất hiện
nhiều nhược điểm về mặt cơ sở lý thuyết. Nhược điểm chính của
DFT là khi gặp vấn đề với độ chính xác thấp không có hướng cải
thiện rõ ràng. Có thể coi đây là những khó khăn không tránh khỏi
trong hướng đi lên của việc cải thiện thời gian tính toán cho
một hệ nghiên cứu cụ thể. Điều có thể chờ đợi là cả hai hướng
tính toán MO và DFT vẫn luôn phát triển và được áp dụng rộng rãi
tùy thuộc vào vấn đề cụ thể mà người làm nghiên cứu quan tâm.
Một cái nhìn về tương lai:
Sức tính
của một máy tính điện tử có thể đo được qua độ lớn của bộ nhớ, vận tốc tính
(đo bằng flops) và đĩa cứng (để chứa số liệu trung gian, đo bằng
gigabytes) cũng như cấu trúc của hệ điều hành (như liên tục,
vector, song song…). Với những thành tựu vượt bậc của ngành công
nghệ thông tin, sức tính của máy ngày càng tăng và giá thành
ngày càng giảm. Theo qui luật Moore thì sức máy tăng khoảng 2
lần sau một năm. Song có thể nói là chưa có một máy tính điện tử nào là quá
“lớn”, quá “mạnh”… đối với những con tính lượng tử! Thật vậy,
khi sức máy càng lớn thì độ chính xác của kết quả tính, độ lớn
các phân tử được khảo sát và độ phức tạp của các hiện tượng hóa
học cũng không ngừng tăng theo. Về mặt phương pháp, từ lâu những
người làm Hóa học lượng tử biết mình cần phải làm gì. Tuy nhiên, trên thực tế
mỗi người có thể tính được gì là hoàn toàn tùy thuộc vào sức
máy tính điện tử mà mình sử dụng được. Vì vậy, trong nhiều thập niên qua khi
máy tính điện tử được bán ra với giá thật cao và thường chỉ tập trung những
trung tâm máy tính của các đại học lớn hay các phòng thí nghiệm
quốc gia của những nước tiên tiến thì Hóa học lượng tử được xem là “khoa học
của nhà giàu”. Cho đến cuối thể kỷ 20, một số bài tính toán lớn
chỉ có thể được thực hiện trong vài nhóm nghiên cứu. Ngày nay,
khi nhiều nhóm nghiên cứu ở khắp nơi có thể nối song song hàng
trăm, hàng nghìn chiếc máy tính cá nhân (PC cluster, với giá
thật rẻ so với các dụng cụ thiết bị nghiên cứu khoa học khác) để
đạt đến một sức tính lớn thì ngành Hóa học lượng tử đã và đang dần dần được
dân chủ hóa. Trong mấy năm qua, các trung tâm máy tính hiệu năng
cao (high performance computers) đã xuất hiện trở lại ở nhiều
nơi và không phải chỉ ở những nước tiên tiến. Vì vậy, sự chênh
lệch về sức máy tính của các nhóm nghiên cứu ở các nước khác
nhau không còn quá lớn như trong thập kỷ trước. Do đó, vấn đề
còn lại trên diễn đàn khoa học thế giới là kiến thức, ý tưởng
mới và sự sáng tạo - những vấn đề cốt lõi của mọi ngành khoa
học.
Vào thời điểm này, với phương pháp đạt độ
chính xác cao như “coupled-cluster theory”, phép tính Hóa học
lượng tử đã đạt độ chính xác ± 1.0 kcal/mol đối với nhiệt tạo
thành (heat of formation) cho những phân tử nhỏ và ± 2.0
kcal/mol cho những phân tử trung bình.viii
So với “độ chính xác hóa học” (± 2.0 kcal/mol) của đo đạc thực
nghiệm, kết quả của Hóa học lượng tử thật sự lý thú!. Lý thú vì trong nhiều
trường hợp tính chính xác hơn đo, nhanh hơn và hiệu quả kinh tế
cao hơn. Hơn thế nữa, đối với những phân tử không bền, khó tổng
hợp hay tổng hợp trong điều kiện quá khắt nghiệt thì chỉ có thể
tính chứ không thể đo – đây có thể coi là điểm thuận lợi của Hóa
học lượng tử tính toán.
Mặc dù với những phương pháp đơn giản trong
thập kỷ 1950 - 1970, việc sử dụng Cơ học lượng tử đã dần thay đổi cách suy
nghĩ của những người làm việc trong ngành hóa, từ chỗ thuần túy
thực nghiệm đến diễn tả những khái niệm ngày càng trừu tượng và
có hệ thống hơn. Nói như vậy không có nghĩa là vai trò của thực
nghiệm hóa học bị giảm đi mà nó vẫn giữ vị trí cần thiết và tối
hậu; song với những khái niệm mới từ Hóa học lượng tử đưa đến những hiểu biết
cơ bản hơn về tính chất cũng như sự biến đổi của các hợp chất
hóa học.
Cách đây không lâu, một khảo sát lý thuyết
trong nhiều lĩnh vực gần như chỉ có thể bắt đầu khi đã đạt được
một số kết quả thực nghiệm và như vậy việc khảo sát lý thuyết
chỉ nhằm để xác nhận (hay đặt nghi vấn) các điều đã biết. Tuy
nhiên, muốn đo các thông số quan trọng của một phân tử thì phải
tổng hợp được phân tử đó trước khi chuyển vào các máy phổ. Đây
là việc không thật sự dễ dàng và có khi rất khó thực hiện. Trong
khi đó hàm sóng có thể xây dựng cho bất cứ phân tử, bất kì trạng
thái electron cho dù phân tử đó không tồn tại hoặc chưa biết
đến, và có thể là trạng thái trung gian hoặc trạng thái chuyển
tiếp với tuổi thọ cực kỳ ngắn (từ femtosecond 10-15 s
đến attosecond 10-18 s). Như vậy, khi những khảo sát
lý thuyết cho phép xác định trước tính chất của một chất hoàn
toàn mới với độ chính xác cao (không thua hay cao hơn thí
nghiệm) thì khả năng sáng tạo của nhà hóa học được nhân lên rất
nhiều. Hóa học lượng tử đang thực hiện vai trò tối hậu của mình:
kết quả tính toán cho phép tiên đoán những hiện tượng mới, gợi ý
những hợp chất mới, phản ứng mới cho người làm thực nghiệm.
Như vậy, với khả năng cung cấp thông tin
chính xác, khả năng tiên đoán hiện tượng hóa học, Hóa học lượng
tử trở thành
phương pháp, công cụ không thể thiếu được trong nghiên cứu hóa
học hiện đại. Máy tính điện tử đang tiến vào thế hệ có sức tính
ở vận tốc petaflops (1015 floating operations per
second). Một dàn máy thật mạnh trên đó cài đặt các chương trình
tính toán Hóa học lượng tử sẽ là một máy phổ đa chức năng (multi-purpose
spectrometer) giúp người nghiên cứu đi tìm mọi thông tin hóa học
cần thiết. Nói nôm na, ngày trước, đo trước tính sau, và đo
chính xác hơn tính; ngày nay, vừa đo và vừa tính, có độ chính
xác gần bằng nhau. Trong tương lai, tính trước đo sau, và đến
một lúc nào đó sẽ chỉ tính cho những đại lượng vật lý và hóa học
phổ biến và sẽ không cần đo nữa!.ix
Điều này sẽ có ảnh hưởng lớn trong việc khảo sát những hiện
tượng hóa học quá phức tạp, mà việc thực hiện các thí nghiệm đòi
hỏi đầu tư thiết bị, thời gian và nhân lực lớn…
Hãy xem việc khảo sát phản ứng ô nhiểm trong
môi trường. Các gốc tự do tạo ra từ ống khói xe Honda, hay các
nhà máy,… gây phản ứng với các chất khác trong không gian chúng
ta đang sống, gây ra ô nhiểm. Hàng trăm, hàng ngàn… phản ứng
luôn xảy ra trong bầu khí quyển, với vô số các chất trung gian
không bền. Các chất này có đời sống rất ngắn, và có thể là những
chất mới, chưa được biết và khó có thể tổng hợp được để có thể
đo đạc xác định cấu trúc và tính chất của chúng. Các phòng thí
nghiệm không đủ nhân lực và máy móc để tổng hợp tất cả các chất
trung gian không bền. Trong lãnh vực này, cách giải quyết hiệu
quả là dùng tính toán lượng tử để xác định cơ chế phản ứng, hằng
số vận tốc… và sau đó là dùng các phương pháp tính toán mô phỏng
để tiếp cận thực tế.
Tóm lại, Hóa học lượng tử tính toán đang sống
ở độ tuổi thứ ba (third age) tràn đầy sức sống và triển vọng là
với phương pháp lượng tử, thuật toán và máy tính điện tử, sẽ làm
tròn được vai trò của mình: đoán trước các hiện tượng hóa học
với độ chính xác cao!
Nguyễn Minh Thọ
Leuven, Bỉ, cuối tháng 9 năm
2008.
====
Chú giải
* HOMO =
Highest Occupied Molecular Orbitals
i Năm 1925, Werner Heisenberg triển khai các phương trình
của cơ lượng tử dưới dạng ma trận (matrix formulation). Cũng
trong năm này, Louis De Broglie xác định tính chất sóng của
các hạt cơ bản. Năm 1926, Erwin Schrödinger công bố phương
trình sóng của ông. Danh từ “cơ học sóng” (wave mechanics)
cũng thường được dùng để gọi cho những phát triển này. Cùng
một lúc, Carl H. Eckart và Erwin Schrödinger (vào năm 1926),
và sau này Paul Dirac, chứng minh rằng, hai cách triển khai là
tương đương về mặt toán học.
ii Linus Pauling nhận giải Nobel Hóa học năm 1954.
iii Robert Mulliken nhận giải Nobel Hóa học năm 1966.
iv William Lipscomb nhận giải Nobel Hóa học năm 1976.
v Principles of conservation of orbital symmetry. Kenichi
Fukui và Roald Hoffmann cùng nhận giải Nobel Hóa học năm 1981.
Xem bài của Nguyễn Trọng Anh về phương pháp Orbital Biên trong
kỷ yếu này.
vi (a) G. Gopakumar, M. T. Nguyen, A. Ceulemans,
Chemical Physics Letters, 450, 175 (2008). (b) A.
Ceulemans, J.Tshishimbi Muya, G. Gopakumar, M. T. Nguyen,
Chemical Physics Letters, 461, 226 (2008).
vii Trong thời gian này, Clemens C. J. Roothaan làm việc ở
đại học Chicago, cùng với Robert Mulliken, sau này là Shigeru
Huzinaga, Enrico Clementi…. Nhóm này tập trung vào việc giải
phương trình sóng và có ảnh hưởng lớn trong việc phát triển
Hóa học lượng tử trong hai thập niên 1950-1960, sau này thường được nhắc
đến như “trường phái Chicago”.
viii (a) M. T. Nguyen, V. T. Ngan, T. L. Nguyen, H. M. T.
Nguyen, Chemical Physics Letters, 448, 183 (2007) (b)
M. T. Nguyen, M. H. Matus, V. T. Ngan, D. A. Dixon, Journal
of Physical Chemistry A, 112, 1298 (2008).
ix Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến hóa lượng tử
tính toán (computational quantum chemistry). Viêc áp dụng các
phương pháp toán vào hóa học không chỉ dựa vào cơ học lượng
tử. Ngành “hóa tính toán” (computational chemistry) bao gồm
nhiều phương pháp khác như cơ học phân tử (molecular
mechanics), động học phân tử (molecular dynamics), các phương
pháp mô phỏng (molecular simulations hay materials
modelings)…. Nhìn chung, độ chính xác của các phương pháp này
cũng ngày càng tăng vọt nhờ sức tính của máy tính điện tử.
___________________________
Trích từ Max Planck, Người
Khai Sáng Thuyết Lượng Tử, Kỷ yếu mừng sinh
nhật thứ 150.
Chủ biên: Phạm Xuân Yêm - Nguyễn Xuân Xanh - Trịnh
Xuân Thuận - Chu Hảo - Đào Vọng Đức. Nhà xuất bản: Tri
Thức, Hà Nội
|
|
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org Nguyễn Minh Thọ
|