:
Xin Giáo sư vắn tắt nhắc lại nguyên nhân của thảm họa Tchernobyl.
NKN :
Thảm họa kinh hoàng Tchernobyl, xếp hạng 7, theo thang INES, xảy ra tại
Ukraina ngày 26-4-1986, là sự kiện khơi mào cho nhận thức của nhân loại về
sự nguy hiểm tiềm tàng của hạt nhân dân sự.
Tai nạn này
là do ở những sai sót trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân và một loạt lỗi
lầm của con người, nhất là thái độ quan liêu không thể tả !
Chính lò phản
ứng số 4 RBMK của Liên Xô, 1000 MW, kiểu lò nước sôi nhẹ, kiềm hãm bằng than
và được làm giàu thấp với uranium, đã gánh chịu vụ nổ (không phải hạt nhân)
và chảy tâm lò. Lò này, dạng trụ với đường kính là 12 m và cao 8 m, chứa 190
tấn uranium làm giàu 2%. Sau đây là những điểm yếu của kiểu lò này :
- Không có vỏ bọc (enceinte de confinement) hay mái vòm bảo
vệ
- Công suất yếu, tâm lò không ổn định
- Nước dùng để truyền nhiệt có mặt khắp nơi, nhưng nó cũng là
nguồn hấp thụ nơtron và do đó hơi nước rất là nguy hiểm
- Các cần điều khiển (barres de contôle) không hoàn toàn dễ
sử dụng.
Chính thao
tác của một vài kĩ sư điện, không biết gì về hạt nhân, đến từ Moscou, với
mục tiêu là chứng tỏ khả năng khởi động lại nhà máy cùng với động năng của
turbin khi có sự cố bên ngoài về điện, là nguồn gốc gây ra thảm họa. Nguyên
nhân là do sự bịt kín và sự gãy đổ các cần điều khiển đối với than kiềm chế.
Chế độ siêu cấp (công suất lò phản ứng tăng lên 100 lần) gây ra một loạt các
vụ cháy nổ. Vụ nổ lớn đầu tiên là nổ hơi nước làm tung lên trời 1200 tấn bê
tông phủ lò phản ứng. Vụ nổ thứ hai hoặc là do hidro, hoặc do vượt quá giới
hạn và phản ứng dây chuyền xảy ra. Ngoài một lượng khổng lồ các chất phóng
xạ tung vào không khí (cao hơn 3000 m) ; người ta ước tính rằng gần 100 kg
plutonium (trên tổng số 400 kg chứa trong lò) đã lan tỏa vào môi trường lúc
xảy ra vụ cháy.
Sự chảy tâm
lò và các cấu trúc kim loại tạo nên một lớp corium nằm dưới lò phản ứng.
Trong chất thải này có chứa 300 kg plutonium.
Theo giáo sư
Vassili Nesterenko, sự lắng đọng của plutonium nóng chảy này có thể gây nên
một vụ nổ nguyên tử nhiều chục năm sau đó ! Các chuyên gia của Viện hàn lâm
Khoa học Belarus
tính toán rằng một vụ nổ nguyên tử mạnh từ 50 đến 80 lần bom
Hiroshima có thể xảy ra 2 tuần sau vụ nổ Tchernobyl !
Lobby hạt
nhân cho rằng xác suất xảy ra một tai nạn lớn như vậy (chảy tâm lò) là
khoảng 1 phần triệu. Người ta thường nhầm lẫn giữa xác suất và kì vọng toán
học (espérance mathématique). Con số rất nhỏ này không thể tin được, bởi vì
xác suất phụ thuộc vào rất nhiều giả thiết. Mặt khác, phần lớn, chính con
người là nguyên nhân chứ không phải máy móc ! Do đó phải tính đến tần
suất lỗi của con người. Đừng quên rằng chỉ trong vòng 50 năm qua mà đă xẩy
ra 5 vụ cháy tâm lò : 1 ở
Three Mile Island, 1 ở Tchernobyl và 3 ở Fukushima ! ( Thế giới hiện có 437
lò, với tổng công suất là 370 500 MW)
Khái niệm về
rủi ro rộng hơn khái niệm xác suất.
( Hôm nay,
ngày kỉ niệm 26 năm
Tchernobyl, người ta bắt đầu xây dựng cái Sarcophage khổng lồ thứ 2, trị
giá 1,5 tỷ euros, bao trùm lò Tchernobyl, với mục đích cấm phóng xạ thóat ra
ngoài trời. Không có một công nghệ nào quái lạ như thế này!)
BBC :
So với Fukushima, thảm họạ
nào gây hậu quả to lớn hơn.., theo Giáo Sư ?
NKN :
Cũng như nhiều chuyên gia khác, tôi cho thảm họa Fukushima nghiêm trọng hơn
so với Tchernobyl, bởi vì nó được gây ra bởi thiên nhiên và phức tạp hơn
nhiều. ( tuy rằng có nhiều lỗi về thiết kế). Nó đã làm chảy tâm lò phản ứng
số 1, 2, và 3 của nhà máy Fukushima 1 Daiichi và gây thấm bể chứa và đáy của
một số lò (melt-out). Thật ra, tập hợp những thanh nhiên liệu chứa trong hồ,
tương đương với hai chục tâm lò, cũng có thể bị nóng chảy. Kịch bản này còn
nguy hiểm hơn việc nóng chảy một tâm lò bởi vì nó không chỉ liên quan đến
nhiều lò phản ứng mà còn nhiều hồ làm mát các thanh nhiên liệu phóng xạ.
Trong khi ở
Tchernobyl, phản ứng dây chuyền không kiểm soát được đã gây nên sự hoạt động
quá mức của lò phản ứng và từ đó là nhiệt độ cao bất thường, dẫn đến vụ nổ
hơi nước hoặc là hidro ; tại Fukushima, phản ứng dây chuyền được tắt một
cách tự động khi xảy ra động đất, điều này hạn chế mức độ thải ra các sản
phẩm của quá trình phân hạch. Điều may mắn là ở Tchernobyl, tâm lò nóng chảy
không thấm qua đáy lò trong khi ở Fukushima, tâm lò nóng chảy đã xuyên qua
bể chứa và
vỏ bọc để đi vào lòng đất.
Cũng cần biết
thêm rằng ở Fukushima có 877 tấn nhiên liệu trong các lò phản ứng và 3400
tấn nhiên liệu đã qua sử dụng nằm trong 7 hồ chứa, tổng cộng là 4277 tấn. Để
so sánh, nên nhớ rằng ở Three Mile Island con số này là 30 tấn và ở
Tchernobyl là 190 tấn.
Ước tính
lượng chất phóng xạ thóat vào không khí ở Fukushima là 770000
terabecquerels, tức gần 5 lần ít hơn ở Tchernobyl (4 triệu terabecquerels ).
Nhưng con số này không tính đến chất thải đi vào đất và nước biển, và cũng
không nên quên rằng việc ô nhiễm vẫn tiếp tục ở Fukushima. Lượng cesium 137
thải vào biển nhiều hơn khoảng hai lần số lượng gây ra bởi các vụ thử bom
nguyên tử ở Thái Bình Dương vào những năm 1960. Nhưng tai họa rất nguy hiểm
đối với Nhật Bản nằm ở sự ô nhiễm gây ra bởi cesium 137 đối với mặt đất,
tầng dưới mặt đất, các lớp nước giếng, nói chung là cả hệ thống lưu chuyển
nước ngọt. Một phần nước ngọt, mà rất khó có thể biết con số chính xát, có
thể không thể dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp được trong vòng hơn 2 thế
kỉ !
Trái với Tepco, tìm
mọi cách khẳng định rằng chỉ có sóng thần là nguyên nhân của thảm họa
Fukushima, Uy ban điều tra Nhật Bán đã đưa
ra giả thuyết là đường ống chính của nhà máy điện hạt nhân đã bị hư hại
nghiêm trọng, ngay khi trận động đất dữ dội (9° Richter) xảy ra.
BBC : Theo Giáo sư, vì cớ
gì Việt Nam lại muốn xây dựng một loạt 10 lò hạt nhân ? Ninh Thuận có thể
trở thành một Tchernobyl khác không ?
NKN :
Như tôi đã có dịp trình bày, chương trình điện hạt nhân Việt Nam không những
quá tham vọng mà thật là vô ích, vừa phí của, phí thì giờ, làm chậm trễ việc
khai thác cấp tốc năng lượng tái tạo.
Ngoài Trung quốc, không có một nước nào xây dựng nhà máy điện
hạt nhân với một tốc độ cao như thế, coi thường khía cạnh an toàn, khoa học,
kinh tế, nhân sự, môi trường, Nhu cầu điện lực của Việt Nam đươc thổi phồng
từ lâu, không thực tế chút nào ! Theo dự báo, nước ta sẽ cần 329 đến 362 TWh
( tỷ kWh ) năm 2020 và 695 đến 834 TWh năm 2030 ! Tôi cam đoan rằng những
con số này không thể nào đạt được. Nếu cứ chạy theo mức tăng trưởng lũy thừa
nhu cầu điện, 15%- 16% mỗi năm ( dù sẽ hạ dần xuống 11,5% đi nứa ), thì
thế nào ta cũng sẽ gặp một cuộc khủng hoảng trầm trọng ! Ở Pháp hiên nay nhu
cầu khoảng 500 TWh. Có kịch bản đề nghị hạ con số này xuống 360 TWh trong
tương lai, với điều kiện tiết kiệm và tăng gia hiệu suất năng lượng, đồng
thời sử dụng tối đa năng lượng tái tạo . Người ta hạn chế, ta lại khuyến
khích tiêu thụ ! Trong lúc người ta đặt biệt chú trọng đến mô hình cầu
(modèle de la demande) thì ta lại quan tâm
đến mô hình cung (modèle d'offre) gây rất nhiều lãng phí. Theo đà này thì
không khéo ta sẽ dư điện !
Các bạn ngoại quốc hỏi tôi có phải Việt Nam muốn làm bom
nguyên tử như Iran hay Triều Tiên ? Tôi trả lời là nên đặt câu hỏi với Thủ
tướng chính phủ. Trên lý thuyết, mỗi năm 1 lò PWR 1000 MW có thể cho 200 kg
tương đương plutonium. Nhưng kỷ thuật chế bom không phải dễ, cần một số điều
kiện tôi thiểu. Các lò RBMK của nhà máyTchernobyl, ngoài việc cung cấp điện,
cũng có mục đích gia tăng lượng plutonium cho Liên xô.
Mọt số chuyên gia cũng nghi là Việt Nam bị một áp lực kinh tế
và chính trị nào đó, nên mới câp tốc xây dựng một loạt 10 - 12 lò trong một
khoảng thời gian rất ngắn (đến 2030), bất chấp nguy hiểm và những khó khăn
sẽ chồng chất lên nhau, khó lường trước đựoc.
Ninh Thuận có thể trở thành Tchernobyl, không phải vì máy
móc, vì lò có vỏ bọc (enceinte de confinement) nhưng vì thiếu chuẩn bị chu
đáo và vì nhân viên vận hành, thiếu trình độ, kinh nghiệm hay kỷ luật. Mặc
khác, vùng Ninh Thuận cũng có thể bị động đất và sóng thần. Đó là chưa nói
đến sự cẩu thả và dối trá của tập đòan Rosatom (Nga) và cuộc khủng hoảng
trầm trọng của công nghệ điện hạt nhân Nhật Bản ! (Hai nước này sẽ xây cất
những lò đầu tiên ở Ninh Thuận)
Muốn tránh một thảm họa xẩy ra ở Ninh Thuận, theo tôi dễ nhất
là Việt Nam phải hủy bỏ ngay chương trình điện hạt nhân. Nếu không, đất nước
ta sẽ bị phóng xạ ngàn năm ô nhiểm, làm tê liệt kinh tế lâu dài và gây bao
nhiêu đau thương cho đồng bào vô tội
BBC :
Ngoài vấn đề kinh tế Việt Nam có đủ nhân lực không ?
NKN :
Ngân sách Viet Nam dành cho chương trình giáo dục và đào tạo chuyên viên dự
tính khoảng trên 3000 tỷ đồng. Số lượng dự kiến đến năm 2020 cả thảy là 3000
người. So với nhu cầu, con số này tương đối quá nhỏ. Một nhà máy điện hạt
nhân 1000 MW, trung bình, cần khoảng 800 đến 1000 người đủ mọi ngành nghề,
trong đó một nửa là nhân viên vận hành. Hiện nay trong nước có khoảng 500
chuyên viên trong lĩnh vực hạt nhân và số chuyên viên có kiến thức thực
nghiệm kỹ thuật hạt nhân có lẽ không quá 100 người. Số chuyên gia cao cấp có
kinh nghiệm về nhà máy điện hạt nhân thì rất hiếm !
Viet Nam đã bắt đầu chương trình đào tạo về khoa học công
nghệ hạt nhân từ thang 6 – 2011. Mỗi năm dự kiến đào tạo ở 5-6 trường Đại
học trong nước khoảng 250 sinh viên. Theo kế hoạch nhà nước, đến năm 2020 sẽ
đào tạo được 350 tiến sĩ và thac sĩ , 2400 kỹ sư trong linh vực năng lượng
hạt nhân. Riêng cho lĩnh vực quản lý, ứng dụng và an toàn hạt nhân, phải đào
tạo 250 tiến sĩ và thạc sĩ, 650 kỹ sư. Hàng trăm sinh viên trong các con số
trên, sẽ du hoc và tu nghiệp ở ngoại quốc
Hiện nay phần lớn các đại học Âu Châu chú trọng đến việc đào
tạo chuyên viên để tháo gỡ nhà máy hơn là để xây cất ! Tháo gỡ là một kỹ
thuật tương đối mới nên người ta thiếu chuyên gia có kinh nghiệm để giảng
dạy. Mặc khác, một số đông giáo sư chuyên ngành hạt nhân đã nghỉ hưu. Hàng
trăm triệu đôla chúng ta phung phí trong việc đào tạo này để dành cho lĩnh
vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất năng lượng
có phải ích lợi cho đất nước và hợp thời, hợp lý hơn không?
Lẽ cố nhiên, tôi hoàn toàn không tán thành việc phung phí
tiền của dân để đào tạo sinh viên như thế này, vì điện hạt nhân đã lỗi thời,
vô cùng nguy hiểm, không kinh tế và cũng không có chút triển vọng nào.
Ta không có
quyền khuyến khích thế hệ trẻ đi ngược trào lưu thế giới, mất thì giờ vàng
ngọc của họ. Việt Nam cần xét lại gấp chiến lược năng lượng dài hạn trước
khi quá muộn!
Grenoble
ngày 26-4 -2012
Nguyễn
khắc Nhẫn,
Nguyên Giám
đốc và GS Trường Cao đẳng Điện học và Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ -
SàiGòn
Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF
Paris,
GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble,
GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble
Một số đơn vị
cần biết:
Becquerel
(Bq) : tác động phóng xạ đo bằng Becquerel
(số hạt nhân phóng xạ tự phân huỷ (désintégration) trong mỗi giây là 1
Curie)
1 Ci (Curie) = 37.109 Bq
Gray
(Gy): liều hấp thu phóng xạ bởi một cơ thể hay một vật thể
1 Gy = 1joule/kg = 100 rad
Sievert
(Sv): liều tương đương phóng xạ dùng để đo
tác động sinh vật trên cơ thể. Đó là một đơn vị đề phòng phóng xạ
1 Sv (Sievert) = 100 rem (Tchernobyl: 800-1600 rems)
(1 Sv =1000 mSv)
(chiếu phổi: 0.1 rem)