Bài học cay đắng của Fukushima và
Tchernobyl
RFA:
Xin Giáo sư cho biết tại sao có người cho rằng
thảm họa Fukushima là do thiên tai động đất và sóng
thần chứ không phải là do công nghệ tinh xảo của
điện hạt nhân. Tchernobyl và Fukushima có khác nhau
lắm không ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn:
Cách đây đúng một năm trời, ngày 11-3-2011, ở Nhật
Bản, trận động đất 8.9° Richter và sóng thần khủng
khiếp tiếp theo đã làm 16000 người thiệt mạng, 6000
người bị thương, 7500 người mất tích. Cả thảy trên
112000 dân phải di tản xa nhà máy Fukushima 30 km.
Theo Viện bảo vệ phóng xạ và an
toàn hạt nhân Pháp (IRSN), chúng ta chứng kiến một
Tchernobyl cục bộ, vùng bị ảnh hưởng nhỏ hơn, nhưng
sự ô nhiễm phóng xạ thì không khác nhau bao nhiêu
(iode 131 và césium 137 thải ra bằng 42% của
Tchernobyl). Theo Norwegian Institute for Air
Research, Xénon 133 thoát ra ngay sau khi động đất,
trước sóng thần.
70% tâm lò số 1 bị nóng chảy (
2300° ) 3giờ sau động đất, 33% tâm lò số 2 bị nóng
chảy 77 giờ sau động đất, và một phần tâm lò số 3 bị
nóng chảy 40 giờ sau động đất.
Trái với Tchernobyl mà vụ nổ rất
lớn của lò phản ứng số 4 RBMK 1000 MW, đang hoạt
động, đã làm tung lên cao nhiều cây số những hạt
bụi, tạo nên đám mây phóng xạ, thì ở Fukushima, vì
các lò phản ứng đã ngừng hoạt động, phóng xạ thoát
ra nằm ở độ cao thấp hơn. Tuy nhiên, ở Nhật Bản,
người ta có cảm tưởng đứng trước một thảm cảnh rùng
rợn hơn vì khó mà tin rằng có thể quản lý được tình
trạng hỗn loạn của 6 lò phản ứng, tổng cộng 4680 MW,
của nhà máy Fukushima Daiichi 1, mà ở đây các vụ nổ
cứ nối tiếp nhau.
Một ủy ban độc lập điều tra Nhật
Bản vừa tiết lộ rằng chính phủ đã dự trù những kế
họach đại quy mô để di tản Tokyo ( 13 triệu dân,
chưa kể 22 triệu vùng lân cận ) vài ngày sau khi
thảm họa bắt đầu, vì chưa biết có thể khống chế
đựợc tai biến Fukushima không. Ủy ban cũng cho hay
là nếu Thủ tướng Naoto Kan lúc bấy giờ không ra lệnh
cho tâp đoàn điện lực TEPCO và giám đốc nhà máy phải
giữ nguyên nhân viên tại chỗ để tiếp tục làm lạnh
các lò thì hậu quả sẽ thảm khốc hơn nhiều.
Đất và nước biển của một khu vực
rộng lớn đã bị phóng xạ ô nhiễm trầm trọng. 2 triệu
dân trong tỉnh Fukushima sẽ được các cơ sở y tế kiểm
tra thường xuyên, 360000 cháu bé sẽ được theo dõi
cho đến tuổi 20 vì ung thư tuyến giáp chỉ phát hiện
sau 5 năm. Hiện nay, nhiều em bé ở cách xa Fukushima
220 km mà cũng bị ô nhiễm.
Dần dần, người ta phát hiện ra
rằng TEPCO đã nhiều lần nói dối, cũng như các nhà
chức trách Nhật Bản, đặc biệt là cơ quan an toàn hạt
nhân (NISA) không độc lập, bị quá tải bởi các sự
kiện xảy ra. Phải nhìn nhận là việc xử lý biến cố
thiếu phối hợp vì phân chia trách nhiệm không minh
bạch và mức độ tin tưởng ở công nghệ quá cao. Vì sự
khiếm khuyết của một hệ thống thiết kế chưa hoàn bị
nên khó đối phó được với các tình huống đặc biệt
phức tạp. Sự thiếu liên lạc mật thiết với cơ quan
AIEA ở Vienne (mà vai trò cần phải được xem xét và
xác định chu đáo lại) càng làm nghiêm trọng thêm
tình hình.
Từ trước đến nay, các nhà lãnh đạo
và các chuyên gia trong lĩnh vực hạt nhân luôn khẳng
định là các lò phản ứng phương Tây hết sức an toàn
và một Tchernobyl thứ hai không thể nào tái diễn
được, nhờ ở sự hiện diện của vỏ bảo vệ ( enceinte de
confinement) trong các lò PWR hay BWR. Tiếc thay bài
học Tchernobyl không được cân nhắc và nghiên cứu tỉ
mỉ.
Không thể nói rằng Tchernobyl xẩy
ra là vì công nghệ và Fukushima vì thiên tai. Sự
thật, lỗi của con người trong hai thảm họa này rất
lớn về thiết kế cũng như về khai thác.
Chúng ta khó hiểu tại sao, sau
Hiroshima và Nagasaki đã gây ra hàng trăm ngàn nạn
nhân nguyên tử, các kĩ sư Nhật Bản lại phiêu lưu xây
dựng các nhà máy điện hạt nhân trên một lãnh thổ nhỏ
hẹp mà nguy cơ động đất và sóng thần hết sức cao.
Xin phép nhắc lại đây 2 tai biến chính : 1-9-1923,
một trận động đất mạnh 7.9° Richter, theo sau bởi
sóng thần, đã tàn phá Tokyo và vùng Kanto, làm ít
nhất 150 000 người chết ; 17-1- 1995, thành phố Kobe
rung chuyển bởi trận động đất mạnh 7.2° Richer, gây
ra 6500 nạn nhân.
Bất chấp nguy hiểm thường trực
trên đầu chúng ta, các lobby hạt nhân vẫn bình thản
đặt mục tiêu tăng gấp đôi số lò phản ứng từ nay đến
2035 ! Fukushima đã ngăn chặn tham vọng này.
Xin mời những ai có trách nhiêm
trong lĩnh vực hạt nhân bỏ chút thì giờ, chịu khó
đọc tác phẩm của nhà báo Wladimir Tchertkoff ( Le
crime de Tchernobyl, le goulag nucléaire ) xuất bản
năm 2006. Làm sao không khỏi xúc động khi khám phá
ra rằng : 8 triệu người đang sống ở vùng bị nhiễm
độc kéo dài hàng trăm năm, nông dân nghèo phải nuốt
hằng ngày césium 137 chứa trong thực phẩm. Những bà
mẹ vô tình gây nhiễm độc cho con cháu. Những em bé
này sẽ lâm nhiều bệnh tật vì chúng được nuôi dưỡng
bằng các chất phóng xạ suốt sáng, trưa, chiều tối !
Thường dân vô tội vẫn tiếp tục chết vì ung thư
tuyến giáp (nhất là trẻ em nhỏ tuổi), ung thư vú,
tiểu đường, bạch cầu…Những lobby hạt nhân đã tìm mọi
cách để bóp nghẹt tin tức về tai biến Tchernobyl
(một thảm họa mở màn cho sự sụp đổ của Liên xô) và
che lấp tiếng la hét xót xa đau khổ của những kẻ vô
tội còn sống ở trong các vùng bị nhiễm.
Theo nhà xã hội học Frédérick
Lemarchand, phụ trách Cực rủi ro của đại học Caen (
báo le Monde ngày 19-4-2011 ) Tchernobyl và
Fukushima mở đầu cho loại thảm họa kiểu mới, mà loài
người chưa bao giờ thử nghiệm, vì nó triển khai
trong một thời gian hết sức lâu dài, đồng thời tăng
cường với đời sống sinh vật mà nó hủy diệt. Nó quyết
định đời sống sinh vật, xã hội và tâm lý của bao
nhiêu thế hệ con người nay chưa sinh nở mà sự tồn
tại trong tương lai đã bị hạt nhân đô hộ.
Chúng ta còn nhớ lời tuyên bố vô
trách nhiệm và khiêu khích của cựu tổng giám đốc
AIEA : nhân loại có thể chịu đựng được một
Tchernobyl mỗi năm !
Ở Ukraine, những liquidateurs,
thương binh, nhiều nhà khoa học và bác sĩ tiếp tục
đấu tranh trong sự tuyệt vọng để chống lại sự lãng
quên. Theo Larisa Yanovych, ở bệnh viện Kiev, phụ
trách theo dõi y tế, khoảng hai triệu người là nạn
nhân của thảm họa Tchernobyl. Hội nghị của các nước
tài trợ khai mạc ở Kiev ngày 19-04-2011, chủ yếu
quan tâm đến nguồn tài chính cho việc xây dựng nhà
bao bọc ( sarcophage ) mà chi phí hiện nay đã lên
quá 1,5 tỉ euros. Sarcophage rất đồ sộ , nặng 30
000 tấn, cao 110 m, dài 164 m và rộng 257 m, sẽ hoàn
thành vào năm 2015. Ngân hàng châu Âu dành cho việc
tái xây dựng và phát triển ( BERD ) quản lý nguồn
vốn này. Nhà bao bọc thứ hai này trên lý thuyết có
thể tồn tại được một thế kỷ, nhà bao bọc thứ nhất
xây dựng vội vàng đã bị hư hỏng nhiều nơi. Như thế
cứ 100 năm con cháu ta phải tiếp tục xây một
sarcophage khác !
Tchernobyl xảy ra tại một quốc gia
toàn trị bên bờ phá sản và một nền công nghiệp đang
hấp hối, trong khi Fukushima đột ngột giáng xuống
một nước có robot vô cùng tinh vi. Vết châm kim nhắc
nhủ mối hiểm nguy ác nghiệt của hạt nhân sau 25 năm
liệu có đủ hay còn phải cần nhiều Tchernobyl khác,
mà ta có thể tiên đoán được, mới xóa bỏ sự điên
cuồng của loài người ? Fukushima không phải là một
tai biến mới bắt đầu mà là một Tchernobyl đang tiếp
diễn. Giải thưởng Nobel kinh tế Ấn độ, Amartya Sen,
đã tuyên bố rằng hạt nhân không phải là lời giải của
bài tóan năng lượng thế giới.
Với nhà báo nổi tiếng Kamata
Sathóhi, Kenzaburô Ôé, Nobel văn chương của Nhật
Bản, đã tổ chức phong trào ( Sayonora Genpatsu – Từ
giã hạt nhân ) chống điện hạt nhân và đã đi biểu
tình phản đối ở Tokyo.
Nhà văn Nhật Bản Yoko Tawada nghi
rằng sở dĩ nước ông làm điện hạt nhân là vì có ẩn ý
muốn làm bom nguyên tử khi cần thiết. Điều này cũng
dễ hiểu thôi vì một lò PWR 1000 MW, sau mỗi năm họat
động có thể cho 200 kilo tương đương Plutonium ( Pu
). Phần đông các nước có bom nguyên tử đều bắt đầu
với điện hạt nhân.
Đứng về phương diện trí tuệ, có
thể làm an tâm nhưng hoàn toàn vô trách nhiệm nếu cứ
đổ thừa cho thiên tai : động đất và sóng thần. Nhà
xã hội học người Anh, Anthony Giddens, khuyên chúng
ta nên chia ra làm hai loại nguy cơ : nguy cơ bên
ngoài liên quan đến thiên nhiên (lũ lụt, động đất,
bão tố…) mà tổ tiên chúng ta đã thừa biết và nguy
cơ do chúng ta tạo ra, liên quan đến các hoạt động
của con người (ô nhiễm công nghiệp, thay đổi khí
hậu, thảm họa hạt nhân…). Chúng ta không có kinh
nghiệm về các loại nguy cơ thứ hai này vì chúng ta
đang tạo ra nó và chúng ta đơn giản hóa đến mức tối
thiểu bằng cách cho là do thiên nhiên. Đó là lí do
tại sao chúng ta không thể đánh giá được mức độ
khủng khiếp của nó và đối mặt với nó được. Sự thiếu
năng lực, tham nhũng, tính kiêu ngạo, chưa kể sự dối
trá, góp phần nhân rộng và làm tăng các mối nguy cơ
này trên thế giới.
Không có lò phản ứng nào an toàn
được
Bản đồ khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề của trận động đất ở Nhật hôm
11-3-2011. AFP
RFA :
Nga và Nhật bản đã tuyên bố với Việt Nam là lò của
họ sắp bán cho ta là được bảo đảm an toàn. Giáo sư
nghĩ thế nào ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn:
Không ai có thể đảm bảo an toàn cho các lò thế hệ 3,
3+ (hay thế hệ 4 sau này). Sau Fukushima, dân chúng
Nhật Bản không còn tin tưởng ở các lò điện hạt nhân
sản xuất trong nước của họ. Thế mà thủ tướng Nhật
Bản Yoshihiko Noda, đã cả gan cam kết sẽ cung cấp
cho Việt Nam một công nghệ bảo đảm mức an toàn hạt
nhân cao nhất thế giới ! Nhật Bản đã hủy bỏ chương
trình xây cất thêm 14 lò mà lại đem bán cho ta một
cách thiếu lương tâm ! Biết đâu là máy móc dụng cụ
tồn kho ?
Tháng 6 vừa qua, một báo cáo đã
vạch trần những thiếu sót quan trọng về kỹ thuật
cũng như về cách khai thác 32 lò của Nga. Tuy nhiên,
ngày 9-2-2012 tại Hà nội, Serge A. Boyarkin, phó
tổng giám đốc tập đoàn Rosatom Nga, không ngần ngại
tuyên bố rằng nhà máy Ninh Thuận sẽ bảo đảm an toàn,
chống được động đất 9° Richter!
Vì cớ gì ta lại tiếp tục nghe luận
điệu tuyên truyền dối trá của các công ty Nga và
Nhật Bản để cho hai nước này xây dựng những lò đầu
tiên ở Ninh Thuận ? André Lacoste, chủ tịch cơ quan
an toàn Pháp (Autorité de Sureté Nucléaire) cũng đã
nhiều lần lớn tiếng : không ai có thể quả quyết
rằng ở Pháp sẽ không có tai biến hạt nhân. Cũng vì
lẽ ấy mà EDF sẽ phải xuất ra cấp tốc 10 tỷ euros để
củng cố tất cả những nhà máy điện hạt nhân. Vừa rồi
Greenpeace đã bố trí, cho vài người vào trong khu
vực nhà máy điện hạt nhân Nogent sur Seine, trong
lúc hai nhân viên khác đã ẩn núp được trong nhà máy
Cruas, suốt nhiều tiếng đồng hồ! Greenpeace muốn
chứng minh rằng quân khủng bố cũng có thể đột nhập
dễ dàng để phá hoại mặc dù có sự canh gác thường
trực của một đội lính ở mỗi nhà máy. Ngoài ra, quân
đội cũng chuẩn bị sẵn sàng hỏa tiễn để đề phòng máy
bay oanh tạc.
Việc cơ quan an toàn Tây Âu
(Wenra), trong đó Pháp dẫn đầu, không muốn kiểm tra
sức chịu đựng (Stress test) các nhà máy điện hạt
nhân trong các trường hợp như bị máy bay, quân khủng
bố, tấn công tin học hay lỗi con người... như Đức và
Áo đề nghị, chứng tỏ sự thiếu tin tưởng ở mức độ an
toàn.
Nước ta chưa hấp thụ được văn hóa
an toàn, chưa có đủ chuyên gia, chưa có hệ thống
pháp lý khắc chế, chưa có hậu thuẫn khoa học kỹ
thuật để quản lý một loạt nhiều lò phản ứng.
Trên thế giới, chỉ trong vòng 32
năm thôi, từ 1979 đến nay mà đã có 5 lò hạt nhân bị
nóng chảy (fusion) : 1 ở Three Mile Island (Mỹ), 1 ở
Tchernobyl (Liên Xô), 3 ở Fukushima (Nhật Bản). Gần
đây có chuyên gia đã kết luận rằng thảm họa
Fukushima là do động đất gây ra (làm cho những ống
nước gãy nứt) trước khi sóng thần ồ ạt tàn phá nhà
máy, làm hỏng hệ thống làm lạnh và máy Diesel.
Fukushima đã cảnh cáo một cách
long trời lở đất với bao hình ảnh đau thương như thế
mà ta vẫn chưa tỉnh giấc mơ hay sao. Ta chờ đợi một
Tchernobyl hay một Fukushima khác rùng rợn hơn mới
nhất trí rằng hai chữ an toàn của Nga và Nhật Bản là
dối trá? Ta nên đặt câu hỏi, tại sao nước Mỹ, có đủ
khả năng và điều kiện, thận trọng nhất nhì về khâu
an toàn, lại không xây cất thêm một lò hạt nhân nào
khác, từ khi gặp sự cố Three Mile Island đã hơn 30
năm nay? Nhật Bản với một diện tích đất nhỏ hẹp như
ta, đã bị tàn phá bởi hai quả bom ở Hiroshima và
Nagasaki, thế mà cả gan xây dựng 54 lò ven bờ biển,
không sợ động đất và sóng thần! Đó là chiến lược
liều mạng, tự hủy diệt, mà ta không nên bắt chước.
Lúc xảy ra chiến tranh, có nhà máy
điện hạt nhân trong nước có thể xem như chứa bom
nguyên tử trong mỗi nhà, tuy lò không nổ như bom.
Làm sao có an toàn được? Phóng xạ, vô biên giới, sẽ
bao trùm lãnh thổ trong giây phút, nếu địch tấn công
Ninh Thuận., hay có sự sai lầm của nhân viên chưa đủ
trình độ. Về địa lý, thời tiết ở Việt Nam vô thường,
mỗi năm đều có bão tố, lũ lụt lớn, phá hại mùa màng
và gây tang thương cho đồng bào. Bom, mìn, chất độc
dioxin vẫn tiếp tục cướp tính mạng của bao thường
dân vô tội. Ta đã quên nỗi đau khổ của đồng bào đã
chịu đựng bao nhiêu năm chiến tranh hay sao ?
Chơi với lửa có ngày cũng phỏng
tay. Theo Bernad Laponche, lò phản ứng hạt nhân chỉ
là một nồi nấu nước sôi, vô cùng phức tạp, nguy hiểm
và đắt tiền! Xác suất xẩy ra một thảm họa ổ Pháp
hay ở Âu châu không phải là nhỏ.
Bài toán kinh tế rất phức tạp và
kinh phí khổng lồ
RFA :
Về bài toán kinh tế để tính giá điện hạt nhân,
Giáo sư có thể cho biết những kinh phí cần thiết ở
mỗi giai đoạn không ? Khâu nào tốn kém nhất ?

Nhà máy điện nguyên tử
Fukushima tiếp tục rò rỉ phóng xạ sau trận
động đất, hôm 18/3/2011. AFP
GS Nguyễn Khắc Nhẫn:
Để các cơ quan trách nhiệm Việt Nam
có một ý niệm về bài toán kinh tế rất phức tạp và
kinh phí khổng lồ cần thiết, tôi xin phép vắn tắt
trình bày phương pháp và mạch lạc giữa các khâu với
những con số của tập đoàn EDF vì tôi đã làm việc ở
công ty này suốt 30 năm trời.
Các nhà máy điện hạt nhân, từ
thiết kế đến vận hành, từ khai thác đến bảo dưỡng,
cần một công nghệ cực kì tinh xảo và tốn kém.
Chi phí đầu tư, theo giá cố định tại một thời điểm
quy ước, bao gồm chi phí trực tiếp từ 75% đến 80%
(xây dựng, thiết bị, lắp ráp, thử nghiệm…) và chi
phí gián tiếp từ 20% đến 25% (đất đai, chủ thầu,
hành chính…). Sự giảm chi phí này chỉ có thể đạt
được nếu xây dựng lớn, hàng loạt hoặc xây nhiều nhà
máy tại cùng một nơi. Cần phải tính đến lãi suất
phát sinh lớn ( intérêts intercalaires ) bởi thời
gian xây dựng nhà máy điện hạt nhân (ít nhất từ 5
đến 7 năm) tương đối dài hơn nhà máy chạy than (3
đến 4 năm) hay khí (2 đến 3 năm). Chi phí đầu tư
tổng cộng còn phải tính đến chi phí tháo gỡ hay phá
hủy tính vào thời điểm đưa vào vận hành ( giá trị
thấp vì khoảng cách thời gian lớn ).
Chi phí của chu trình nhiên liệu (
cycle du combustible ) phải tính đến, ngoài thời
gian trong lò phản ứng, phần trước (lấy uranium dưới
dạng U3O8, biến đổi UF4 và UF6 thành uranium làm
giàu, làm giàu uranium, sản xuất các thanh nhiên
liệu) và phần sau (vận chuyển các bộ lắp ghép phóng
xạ, tái chế nhiên liệu, vận chuyển và lưu trữ chất
thải phóng xạ, tài khoản tái chế- crédíts du
retraitement ). So với khí, phần nhiên liệu hạt nhân
trong mỗi kWh điện thấp hơn nhiều, 20 - 25% thay vì
70%.
Chi phí khai thác và bảo dưỡng,
chiếm từ 15% đến 25% trong chi phí một kWh điện hạt
nhân, bao gồm chi phí vận hành, nhân công, bảo trì,
hành chính, thuế, bảo hiểm, bảo vệ bức xạ, xử lí
chất thải.
Cũng cần tính đến chi phí bên
ngoài ( externalités ) như CO2, tai nạn, thải chất
phóng xạ, rất khó đánh giá. Ngoài chi phí môi
trường, người ta còn phân biệt chi phí bên ngoài
liên quan đến độc lập năng lượng, kinh tế hoặc chính
trị...
Chi phí tháo gỡ một nhà máy điện
hạt nhân trên lý thuyết chiếm 25% đến 40% chi phí
đầu tư. Trên thực tế, chi phí này có thể lên tới và
thậm chí vượt quá 100%. Đó là trường hợp nhà máy
nước nặng (70 MW) Brennilis của EDF đang được phá
hủy từ 20 năm nay mà vẫn chưa xong. Chi phí dành
cho nhà máy này đă lên quá 500% con số dư trù ! Về
kinh phí dành cho công trình tháo gỡ, EDF đưa ra con
số tạm thời là 300 triệu euros cho mỗi lò. Ở Đức
con số lên đến 852 triệu euros. Lẽ cố nhiên, tháo gỡ
một lò bị hư hỏng nặng như Fukushima cần nhiều tiền
hơn, khoảng 2,7 tỉ euros ( cao hơn giá đầu tư xây
cất ).
Theo báo cáo ngày 31-1-2012 của
Tòa tài khoản ( Cour des Comptes ) Pháp, tổng số
kinh phí đầu tư trong lĩnh vực hạt nhân dân sự Pháp
từ 1957 đến 2010 lên đến 228 tỉ euros, trong đó
những nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động chiếm 96
tỉ, chu trình nhiên liệu 40 tỉ, khâu nghiên cứu 55
tỉ ( gồm lò ASTRID - Advanced Sodium Technological
Reactor for Industrial Demonstration ).
Trung bình mỗi MW đặt trị giá là
1,5 triệu euros ( tức 2000 đôla mỗi kW ) so với 3,7
triệu euros mỗi MW đặt của lò EPR . Như thế có
nghĩa là năng lượng gió trên đất (1,45 triệu euros
mỗi MW ) ở Pháp đã bắt đầu cạnh tranh được với điện
hạt nhân.
Kinh phí khai thác tổng quát năm 2010 ( gồm nhiên
liệu uranium, nhân viên, thuế má...) lên đến 8,95 tỉ
euros ( tức là 22 euros mỗi MWh ) với một sản lượng
điện hạt nhân là 407, 9 TWh.
Giá kinh tế ( coût courant
économique ) mỗi MWh điện hạt nhân là 49,50 euros
với giả thuyết một tỉ suất hiện tại hóa a ( taux
d'actualísation) là 5% và tỉ số lạm phát 2% .Trong
tương lai gần đây giá điện EDF sẽ tăng lên ít nhất
là từ 10% đến 15%. Dùng giá kinh tế dễ so sánh các
dạng năng lượng khác nhau dễ hơn là với giá kế toán
(coût comptable ).
Vì giá sản xuất của lò EPR sẽ cao
hơn nhìều: từ 70 đến 90 euros mỗi MWh nên Pháp sẽ
không thay thế các lò đang họat động bởi các lò EPR
như đã dự tính. Mà dù có muốn cũng khó thực hiện
được vì không thể nào sản xuất kịp.
Riêng năm 2010 nhà nước phải bỏ ra
644 triệu euros để đài thọ các khâu nghiên cứu ( 414
triệu ) an toàn và an ninh ( 230 triệu ). Viện bảo
vệ bức xạ và an toàn hạt nhân gồm 1768 nhân viên,
cơ quan an tòan hạt nhân có 450 nhân viện.
Kinh phí đầu tư hàng năm từ đây
đến 2025 cho việc bảo dưỡng những nhà máy là 3,7 tỉ
euros ( so với 1,5 tỉ từ 2008 đến 2010 ). Nếu kéo
dài thời gian vận hành 58 lò từ 40 năm đến 60 năm,
EDF phải đầu tư thêm 50 tỉ euros chưa kể ít nhất 10
tỉ euros bỏ ra để củng cố an toàn sau Fukushima.
Kinh phí mà EDF dành cho việc xử lí 18546 tấn nhiên
liệu sử dụng trong các lò là 14,4 tỉ euros . Những
tấn nhiên liệu này hiện ở trong các nhà máy EDF hoặc
ở La Hague để AREVA tái chế. Mỗi năm AREVA tái chế
1050 tấn. Pháp hiện đang tích trữ 82 tấn Plutonium.
Tòa tài khoản rất dè dặt, không
đồng ý với những con số của EDF đưa ra cho hai khâu
tháo gỡ ( 18, 4 tỉ euros ) và lưu trữ chất thaithái
phóng xạ ( 23 tỉ euros ) quá thấp so với ngoại
quốc . Con số 18,4 tỉ euros này nếu tính theo Mỹ thì
sẽ lên đến 34, 2 tỉ, Nhật Bản 38,9 tỉ, Anh 46 tỉ và
Đức 62 tỉ euros.
Đứng về phương diện pháp lý, khi
có sự cố ở Âu Châu, trách nhiệm dân sự
(responsabilité civile) tuy được ghi rõ trong thỏa
ước Paris 1960 và Bruxelles 1963, nhưng cách áp dụng
còn lu mờ. Trên lý thuyết, công ty khai thác nhà máy
điện hạt nhân phải bồi thường nạn nhân . EDF chỉ dự
trù 80 triệu cho mỗi sự cố, một con số tượng trưng
quá nhỏ! Rốt cuộc, nhà nước cũng phải đứng ra bồi
thường nạn nhân nếu xẩy ra tai biến lớn. Sự thật,
nếu phải bảo hiểm tất cả những nhà máy điện hạt nhân
thì phải cần một số tiền khổng lồ và như thế chẳng
nước nào dám xây cất ! Đó là trái bom tài chánh nổ
chậm của ngành hạt nhân dân sự. Thảm họa Fukushima
đã làm nước Nhật mất ít nhất 100 tỉ euros, chưa kể
hàng trăm tỉ dành cho phần bồi thường nạn nhân. Có
thể một ngày gần đây TEPCO sẽ bị quốc hữu hóa.
Điện hạt nhân Việt Nam sẽ đắt hơn
năng lượng tái tạo
RFA :
Giáo sư thường tuyên bố rằng điện hạt nhân không
thể nào kinh tế ở Việt Nam . Xin Giáo sư cho biết lý
do và như thế thì phải giải quyết bài toán năng
lượng như thế nào để đáp ứng nhu cầu ?
Những mảnh vụn của một chiếc
máy bay tư nhân và xe hơi ở bên ngoài phi
trường Sendai hôm 13/03/2011. AFP Photo
GS Nguyễn Khắc Nhẫn:
Trong trường hợp của Việt Nam, về mặt kinh tế vĩ mô,
cần phải tính đến ảnh hưởng của điện hạt nhân đến sự
phát triển kinh tế, tỉ số đầu tư trên dự trữ quốc
gia, cải thiện (hay không) cán cân thương mại, sức
cạnh tranh kinh tế, sự đảm bảo cung cấp, sự giảm chi
phí năng lượng, tạo ra công ăn việc làm, ảnh hưởng
xã hội (dân chúng có chấp nhận không ?)
Cơn khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay có nguy cơ gây nên những vấn đề nghiêm
trọng về nguồn vốn nhất là khi PIB có hướng giảm và
lạm phát tăng.
Ở Việt Nam, việc hoạch định chính
sách năng lượng không thật sự chặt chẽ và không khả
thi về mặt tài chính. Ta quá chú trọng đến điện lực
mà không nghiên cứu tỉ mỉ toàn bộ lĩnh vực kinh tế
năng lượng. Tiêu thụ điện của nước ta không thể đạt
được con số 537 TWh ( kịch bản trung bình) vào năm
2030 như đã công bố ! Con số này cao hơn lượng tiêu
thụ của Pháp hiện nay. Không một nước nào trên thế
giới có thể chạy theo con số tăng trưởng chóng mặt
là 15% mỗi năm. Điều này có nghĩa là cứ 5- 6 năm
phải tăng gấp đôi công suất của tất cả các nhà máy
và lưới điện. Với PIB 6%, hệ số đàn hồi của ta là
2,5 một con số cao nhất nhì thế giới, chứng tỏ tiềm
năng tiết kiệm năng lượng của ta rất lớn. (Xin mời
các bạn xem các bài của Giáo sư Phạm duy Hiển)
Khả năng sinh lợi của nhà máy điện
hạt nhân phải được trình bày rõ ràng. Tỷ suất hiện
tại hóa a ( taux d'actualisation ) là bao nhiêu
trong bài toán kinh tế ? Mức lãi suất phát sinh là
bao ? Phương pháp nào để lựa chọn ( choix des
investissements ) tối ưu các thiết bị sản xuất ? Khi
mà dự báo bị thổi phồng quá mức, thật khó để điều
chỉnh cân bằng giữa cung và cầu ! Sự hợp lí trong
các lựa chọn phải được chứng minh và bài toán tài
chính phải kể đến chi phí gây ra bởi sự sụp đổ bất
ngờ của hệ thống điện ( coût de la défaillance).
Về mặt luật pháp và an toàn, cần
phải thành lập nhiều cơ sở có chất lượng. Cơ quan an
toàn hạt nhân phải hoàn toàn độc lập, dựa trên năng
lực và sự chặt chẽ khách quan. Fukushima đã cho thế
giới thấy sự yếu kém và khiếm khuyết của các cơ quan
có trách nhiệm. Cơ quan an toàn hạt nhân Nhật Bản đã
bị áp lực trực tiếp của chính phủ và các ngành công
nghiệp có liên quan. Chặng đường dài mà một hồ sơ
xin phép xây dựng nhà máy điện hạt nhân phải trải
qua nhiều năm ở Mỹ hay ở Pháp chứng tỏ sự khó khăn
và phức tạp về mặt hành chính và luật pháp, làm kéo
dài thời gian và tăng mạnh kinh phí.
Địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh
Thuận, không nằm ngoài những bất thường thời tiết
(lũ lụt, bão lụt, động đất, sóng thần…). Vài trận
động đất lớn (6,8° Richter) đã diễn ra, năm 1935
tại Điện Biên và năm 1983 tại Tuần Giáo.
Chúng ta biết rằng sau trận động
đất ngày 16-07-2007 (6,8° Richter), chính phủ Nhật
đã ra lệnh cho TEPCO đóng cửa nhà máy điện hạt nhân
lớn nhất (Kashiwazaki-Kariwa – 8212 MW ) trong vòng
một năm và tăng cường hệ số an toàn về động đất cho
cả tổ hợp này.
Khi xem xét tổng thể các khâu và
nếu ta tính thêm vào chi phí dành cho chuyên gia,
thiết bị, uranium làm giàu, nhập cảng từ nước ngoài,
chi phí xử lí nhiên liệu, lưu trữ chất thải phóng xạ
và chi phí tháo gỡ khổng lồ hàng chục tỷ đôla (chi
phí dự trù cho việc tháo gỡ 5 lò ở Thụy sĩ lên đến
23 tỷ đôla), tôi khẳng định rằng kWh điện hạt nhân
Việt Nam không thể nào kinh tế được. Chọn năng lượng
hạt nhân với một chương trình đầy tham vọng và phiêu
lưu ( 8 lò phản ứng từ năm 2014 đến 2031) là một lỗi
lầm hết sức lớn về mặt chiến lược kinh tế và công
nghiệp. Ai đứng ra chịu trách nhiệm đối với đất nước
và các thế hệ mai sau ? Năm 2020 khi có điện hạt
nhân thì giá thành kWh năng lượng tái tạo đã kinh tế
!
Nếu có một chính sách rõ ràng,
quyết tâm khuếch trương mạnh và nhanh chóng năng
lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu
quả năng lượng, trữ lượng tài nguyên thiên nhiên của
Việt Nam như than, khí đốt, dầu mỏ, thủy điện, gió,
mặt trời sinh khối... cho phép đảm bảo nhu cầu của
quốc gia trong nhiều năm tới. Ta đi vay để vứt tiền
ra cửa sổ hay sao?
Vì sự sống còn của đất nước, một
lần nữa tôi thiết tha yêu cầu chính phủ Việt Nam hủy
bỏ ngay chương trình xây dựng những nhà máy điện hạt
nhân hết sức tốn kém và vô cùng nguy hiểm để Ninh
Thuận khỏi trở thành Fukushima.
Tôi cũng tha thiết yêu cầu chính
phủ Nhật Bản đừng cho phép các công ty bán lò cho
Việt Nam để uy tín đối với thế giới khỏi sứt mẻ và
cũng để tránh cho dân chúng Nhật Bản oán hận một lần
thứ hai (xin đọc thư của Giáo sư Phạm duy Hiển gửi
ngày 24-1-2011 cho Thủ tướng Naoto Kan) . Tôi sẵn
sàng thảo luận với bất cứ chuyên gia nào để chứng
minh rằng không thể có an toàn và giá điện hạt nhân
ở Việt Nam sẽ đắt hơn giá năng lượng tái tạo.
Nhân ngày kỉ niệm năm đầu tiên của
thảm họa Fukushima, tôi thành kính nghiêng mình, cầu
nguyện và tưởng nhớ đến những nạn nhân vô tội và
những Anh hùng Nhật Bản đã phải hy sinh trong nhà
máy, do sự điên cuồng của một nhóm người có thế
lực, nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm, coi nặng
đồng tiền hơn là tính mệnh con người !
Grenoble 11-3-2012
Cách tính kinh phí đầu tư 1 kW :
Bài tính này tương đối phức tạp và
dài dòng, tôi chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Trước
hết, một số tiêu chuẩn kỹ thuật cần biết là: công
suất lò, số lò, vị trí (cạnh sông hay biển), nhịp độ
xây cất, phương pháp ráp máy, hiệu lực dây (effet de
série). Để thấy rõ vai trò quan trọng của tỷ suất
hiện tại hóa a (taux d’actualisation a) tôi xin phép
đưa ra một công thức thông dụng ở EDF.
N CT(n)
D= Σ = = CA
1 (1+a)n-1/2
D: kinh phí hiện tại hóa (dépense actualisée) mỗi
kW.
N: thời gian vận hành của lò (21 năm).
C: giá mỗi kWh.
a: 9%.
n-1/2: vì chi phí rất lớn xem như tập trung ở giữa
năm.
T(n): số giờ vận hành thay đổi tùy năm: 4 400 giờ
(năm 1), 5 300 giờ (năm 2 và 3), 6 200 giờ (năm 4
đến 21). Ba năm đầu số giờ vận hành thấp vì còn ở
trong thời kỳ điều chỉnh máy móc.
A: Tổng số giờ vận hành hiện tại hóa (utilisation
actualisée) (A: 56 900 giờ với các số cho trên).
Lấy ví dụ nhà máy Nogent S/Seine (2x1300 MW) gần
Paris, kinh phí đầu tư mỗi kW là 8 225 F (giá năm
1989). Điều cần ghi nhớ là giá thành kWh của EDF
kinh tế vì các lò vận hành ở đáy đồ thị phụ tải
(fonctionnement en base de la monotone de charge).
Lò chạy tổng cộng 6 200 giờ trong 1 năm (8 760 giờ).
Ở các nước đang phát triển giá kWh thường không kinh
tế cũng vì số giờ vận hành thấp.
(Chú ý : Lúc đầu các lò phản ứng
EDF được thiết kế để hoạt động trong vòng 30 năm,
chứ không phải 40 năm)