Những bài cùng tác giả
Những bài cùng đề tài
Sự cố tại nhà nhà máy điện nguyên tử Fukushima Số 1 của Công Ty Điện Lực
Tokyo (TEPCO) xây dựng cách Tokyo khoảng 300 Km về phía Bắc, một lần nữa, đã
chứng tỏ cho tất cả mọi người thấy được tính cách nguy hiểm của loại nhà máy
này khi gặp sự cố sẽ gây ảnh hưởng rộng lớn đến sinh mạng cùng môi trường
sinh sống của con người và những khó khăn để khắc phục sự cố của loại nhà
máy điện này một khi gặp phải sự cố.
Tuy nguyên nhân ban đầu của tai nạn này là do những hư hại của các bộ phận cơ
khí chung quanh lò nguyên tử (nhà máy có tất cả 4 lò xây cách nhau khoảng
150 m) gây bởi một trận động đất lớn có chấn động cấp 7 và tiếp theo là các
đợt sóng thần cao trên dưới 10 m làm nhà máy phải ngưng hoạt động ngay sau
đó. Nhưng về phương diện thiết kế căn bản, nhà máy điện nguyên tử này cho
rằng được thiết kế có độ an toàn bảo quản lò nguyên tử rất cao cho dù bị phi
cơ đâm vào...
Vào ngày hôm sau trận động đất, phía nhà máy điện cho biết đang khắc phục
các hư hỏng (có tính cách sơ bộ) này để chờ ngày hoạt động trở lại bởi vì,
qua các khảo sát bên ngoài, hình như không có hư hại đáng kể gì đến các lò
nguyên tử (chỉ một vài máy bơm nước làm mát liên quan đến lò nguyên tử hiện
bị hư nhưng có thể sửa chữa nhanh chóng được).. Vào thời điểm này, có thể
phía nhà máy điện chưa biết những biến chuyển nguy hại trọng đại sẽ xảy ra
cho lò nguyên tử mà chỉ biết theo dỏi được các số liệu (data) có phần nào
biến đổi ghi nhận từ các thiết bị đo lường của lò, nên mới đã có những báo
cáo vô tư cho chính phủ như vậy.
Nhưng chỉ vào chiều ngày hôm đó thì phía nhà máy bất ngờ cho biết các hư hại
ở máy bơm cũng như hệ thống kết nối điện (wiring) và ống dẫn (piping) đều
khó có thể khắc phục được kịp thời và hiện đang dùng các máy bơm mới đem đến
thay thế để bơm nước biển và các hóa chất để làm mát và hạn chế phản ứng hạt
nhân vào lò nguyên tử để tránh sự hụt nước trong lò. Các nhà máy điện nguyên
tử thường được xây dựng ven sông biển là để dự trù trường hợp này (sử dụng
nước sông, biển để thay thế việc sử dụng nước làm mát).
Nhưng việc bơm nước biển vào lò (có thể đã không có những thí nghiệm đảm bảo
an toàn vận hành) được tiếp tục thực hiện nhưng, không rõ vì nguyên nhân
nào, mực nước trong lò vẫn cứ trồi sụt rất bất thường làm lộ ra các thanh
(pellet) nhiên liệu nguyên tử (uranium và plutonium) lên khỏi mặt nước làm
mát trong lò tạo sự phát nhiệt cao độ làm mất an định và an toàn của lò. Có
lúc đã làm lộ hẳn hoàn toàn các thanh nhiên liệu nguyên tử trên khỏi mặt
nước làm mát nên có thể sự dung chảy nhiên liệu này (melt down) đã xảy ra và
đây là một sự việc nguy hiểm rất trọng đại vì vừa tạo ra phóng xạ rất cao
lại vừa tạo nhiệt độ và áp suất rất cao phía trong lò. Nhân viên nhà máy, dù
đã phải cố gắng tận tình vận hành việc bơm nước biển làm mát nhưng cũng
không thể khắc phục sự trạng mất an định này.. Sự việc làm bối rối toàn bộ
ban chỉ huy nhà máy dù phảI tận lực cố gắng từng bước tạo an định bên trong
lò.
Việc một phần các thanh nguyên liệu nguyên tử (có chiều dài khoảng 4 m) bị
lộ ra trên mặt nước sẽ làm phát nhiệt ở cao độ trên dưới 2000 độ C và tăng
cao áp suất trong lò nguyên tử lên một mực độ nguy hiểm cũng như làm chận
đứng sự bơm nước vào lò vì áp suất trong lò quá cao (làm hư hỏng tất cả các
thiết bị đo lường để có thể biết tình trạng lý hóa trong lò). Để tránh tình
trạng nguy hiểm này, nhà máy phải cho xả hơi nước trong lò (hàm chứa khí
Hydrogen sinh thành từ hơi nước ở cao nhiệt và phóng xạ phát sinh từ phần
trên các thanh nguyên liệu nguyên tự bị lộ ra) để làm giảm áp suất cao nguy
hiểm và để có thể bơm nước làm mát vào lò dù lò nguyên tử của nhà máy này
được cấu trúc bởi hai lớp vỏ bằng kim loại chịu đựng được nhiệt độ và áp
suất cao.
Nhưng việc xả hơi nước chứa Hydrogen và phóng xạ có áp suất rất cao trong lò
ra khỏi lò thì trước hết làm bao trùm khắp phần trên toà nhà máy và sau đó
tạo phát nổ Hydrogen (vì là loại khí nhẹ và dễ phát cháy). Sự phát nổ ở tòa
nhà máy và phát tán tức khắc phóng xạ ra toàn khu vực, trước hết làm cho
nhân viên nhà máy và một số cư dân quanh vùng bị nhiểm phóng xạ. Chỉ trong
vòng 4 ngày, 4 lò nguyên tử của nhà máy điện nguyên tử này đã lần lượt phát
nổ và tăng cao dần lượng phóng xạ phát ra đang tiếp tục phát tán trên toàn
vùng cho tận đến vùng thủ đô Tokyo có 15 triệu dân. lên gấp 20 lần mực độ
phóng xạ bình thường.
Hiện nay, tuy chưa có sự phát nổ của các lò nguyên tử (chỉ có phát nổ do hơi
nước Hydrogen được xả ra từ lò), nhưng lượng phóng xạ đo được tại khu vực
nhà máy là trên dưới 400 milli Sv, trong khi lượng phóng xa an toàn cho một
người trong một năm là 1 milli Sv nên sự cố này là một hiểm họa phóng xạ
thật sự mà Nhật bản .phải đối phó sau thờI kỳ hai bom nguyên tử thả xuống
Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945. Ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử vào
thân thể sẽ gây ra các bệnh phóng xạ tuyến như bệnh tăng bạch huyết cầu
(Leukemia) gây mực độ tử vong rất cao, nên chính phủ đang phảI kêu gọi dân
chúng .chú ý đốI phó khi phảI ra khỏi nhà.
Nhưng chỉ trước đó một ngày, có lẽ nhằm để trấn an dân chúng trước sự cố
trọng đại này, phía nhà máy điện nguyên tử cũng như chính phủ đã phải thông
báo sự trạng sự cố một cách như không có gì trọng đạị lắm (dù có thể biết là
không thể khắc phục được sự cố mà chỉ chờ sự phát nổ lần lượt) và chỉ cho sơ
tán dân chúng sau khi đã có phát nổ lần lượt tại 4 lò của nhà máy này, (làm
một số dân chúng bị phơi nhiểm phóng xạ trong khi sơ tán) và hiện chỉ cho sơ
tán cư dân trong các vùng bắt đầu từ bán kính 10 Km ra 20 Km rồi 30 Km vì là
những vùng có mực độ phóng xạ cao và cũng không thể có đầy đủ nơi tiếp nhận
dân sơ tán lên cả triệu người. Hiện nay số dân chúng bị sơ tán đang phải
sống tạm bợ trong các nhà thi đấu vv…và không biết được ngày nào có thể trở
về nhà.cũ.
Theo Bảng Xếp Hạng Quốc Tế về Sự Trạng Nguyên Tử Lực (INES) của Cơ Quan
Nguyên Tử Lực Quốc Tế (IAEA) thì tất cả có 8 mực độ (level) của sự trạng
liên quan như sau: Vì tính cách hiểm nguy của sự trạng nguyên tử lực, các
loại sự trạng loại Sự Cố từ mực độ 4 trở lên bắt buột phải báo cáo ngay cho
IAEA được biết để có phương thức đối phó nếu cần thiết. Trước đây Nhật Bản
cũng đã có những sự cố ở một vài nhà máy điện nguyên tử nhưng chỉ là sự cố
nhỏ ở sai lầm của nhân viên khi vận hành nên dễ dàng khắc phục nhưng vẫn
phải hy sinh tính mạng của một số nhân viên nhà máy.
Độ |
Phân LoạI Sự Trạng |
Nội Dung Sự Trạng |
7 |
Sự cố trọng đại |
Sự cố nổ cháy lò nguyên tử Chernobyl ở Liên Sô năm 1986 |
6 |
Sự cố có tầm vóc lớn |
Sự cố cò sự dung chảy nguyên liệu nguyên tử và phát tán phóng xạ ở
một tầm vóc lớn và ảnh hưởng phóng xạ rộng lớn |
5 |
Sự cố có tạo nguy hiểm rò rỉ phóng xạ ra khu vực chung quanh |
Sự cố cở TMI (Three Miles Island) ở Mỹ có sự dung chảy phần nào
(45%) nguyên liệu của lò nguyên tử và phát tán phóng xạ ra khu vực
hạn định chung quanh vào năm 1979 |
4 |
Sự cố gây phản ứng hạt nhân ngoài vị trí nhưng không tác hại ra khu
vực chung quanh |
Sự cố tạo phản ứng hạt nhân khi vận chuyển nguyên liệu nguyên tử
trong những vận hành nhà máy |
3 |
Có việc dị thường lớn |
Có đám cháy trong nhà máy vv. |
2 |
Có chút ít dị thường |
Có sự hư hại ít nhiều ở hệ thống truyền dẫn, ống dẫn vv. |
1 |
Dị thường thật nhỏ |
Có sự rò rỉ ở hệ thống ống dẫn các nguyên vật liệu vv. |
0 |
(Không kể) |
Hoàn toàn không có dị thường |
Ở sự cố nhà máy điện nguyên tử TMI (Three Miles Island) ở tiểu bang
Pensylvania (Mỹ), chỉ vì một sự sơ xuất nhỏ khi vận hành của nhân viên mà
mực nước làm mát trong lò nguyên tử đã sụt xuống làm lộ trần các hoàn toàn
các thanh nhiên liệu nguyên tử tạo sự dung chảy (melt down) của nhiên liệu
nguyên tử gây phát tán phóng xạ ra khu vực chung quanh làm phải cho sơ tán
dân cư các vùng chung quanh. Khắc phục làm mát lò đã cấp tốc cho thực thi
nhưng cũng đã phải làm dung chảy khoảng 45% nhiên liệu nguyên tử của lò, Sự
cố này đã làm hồi hộp toàn bộ nước Mỹ vì lo ngại việc có thể xảy ra nổ lò
nguyên tử.
Như vậy thì sự cố nhà máy phát điện nguyên tử Fukushima lần này, ở vào thời
điểm này (chưa có nổ lò nguyên tử) có thể phải được xếp vào mực độ 6, trên
mực độ 5 của sự cố nhà máy TMI chỉ ảnh hưởng phóng xạ ở khu vực giới hạn
chung quanh, và dưới mực độ 7 của sự cố nổ cháy lò nguyên tử số 4 của nhà
máy điện nguyên tử Chernobyl ở Liên Sô vào năm 1986.
Sự cố nhà máy điện Chernobyl xảy ra từ một cuộc thí nghiệm về vận hành thuết
bị hệ thống truyền dẫn mới tại lò số 4 này làm xảy ra một loạt phản ứng hạt
nhân trong lò mà không chế ngự được đua tới sự nổ lò và làm cháy dữ dội các
vật liệu cấu trúc lò suốt 2 ngày liền (ban đầu nhà máy tự cứu cháy, nhưng
sau đó phải cầu cứu cơ quan chữa cháy địa phương, rồi các cơ sở chữa cháy từ
Kiev và lân cận).
Sự cố đã làm chết 28 người nhay khi đó và làm nhập viện trên 250 ngườI tại
khu vực nhà máy cùng phát tán khói bụi phóng xạ một cách rộng lớn đến cả tận
thủ đô Moscow của Liên Sô cách xa trên 500 Km. Sau đó ảnh hưởng phóng xạ đến
nước Belarus, nằm phía trên nước Ukraine nhưng hứng phải hướng gió Nam Bắc
vào mùa đó, thật không thể lường được vì cho đến hiện nay cả ngàn trẻ em vào
thờI điểm đó đang còn phải đang điều trị ô nhiễm phóng xạ và dần dà chết ở
vào tuổi còn rất trẻ.
Vào năm 1996, nghĩa là đã cách 10 năm sau sự cố ở đây, trong dịp khảo sát
thực địa cho một dự án phát triển nông nghiệp cho vùng Bắc Kiev, tôi đã đến
khu vực nhà máy điện nguyên tử này chỉ cách thủ đô Kiev khoảng 120 Km về
phía Bắc (lúc đó nhà máy vẫn còn cho hoạt động cho đến năm 2000 thì đóng
cửa), thì thấy thị trấn Pripyat, nơi trước đây đã có khoảng 15,000 dân cư
phải bị sơ tán, vẫn là nơi vườn không nhà trống, không một bóng dân cư và cả
một vùng đất rộng lớn hàng trăm cây số vuông bao quanh nhà máy chỉ là vùng
cây cỏ trơ trụi như không còn có sự sống nữa..
Những diễn biến phức tạp của những sự cố nhà máy điện nguyên tử này đã làm
nổi lên những sự trạng bất cập giữa các phía liên hệ cùng những khó khăn khi
thực thi khắc phục cho kịp thờI một khi sự cố xảy ra như ở các loại sự cố
nhà máy khác (không phải là nhà máy điện nguyên tử) và hiểm họa có thể giết
chết hàng loạt sinh mạng con người và ảnh hưởng lâu dài huỷ diệt môi trường
sống của con ngườI hàng mấy mươi năm không thể lường được.
Trước những hiểm họa không lường trên người ta nhận thấy, dù ở các nước tiên
tiến đã đang sử dụng những kỹ thuật cao cấp để xây dựng lò nguyên tử và áp
dụng sự vận hành chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên nhà máy lão luyện cũng
như đã sửa soạn tất cả các dự phòng để khắc phục đối phó sự cố một khi xảy
ra, nhưng nhà máy điện nguyên tử vẫn khó có thể khắc phục sự cố một cách kịp
thời được để tránh khỏi các hiểm họa vô cùng đau thương từ hậu quả sự cố..
VNP
|