Về chủ đề này, Tạp chí Khoa học
RFI trước hết xin giới thiệu với
quý vị tiếng nói của Giáo sư
Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn
của Nha Kinh tế - Dự báo - Chiến
lược của tập đoàn điện lực Pháp
EDF. Từ mươi năm nay, Giáo sư
Nhẫn dành rất nhiều tâm lực đặc
biệt cho việc nghiên cứu về vấn
đề ĐHN và năng lượng nói chung,
nhằm đưa ra những tư vấn mang
tính cảnh báo về nguy cơ của
việc theo đuổi con đường phát
triển ĐHN một cách mù quáng.
RFI :
Theo tin trong nước, Việt Nam
đang có dự án xây cất Trung tâm
nghiên cứu hạt nhân ở Đà Lạt,
tỉnh Lâm Đồng, trị giá nửa tỷ
USD, do Nga giúp đỡ công nghệ.
Giáo sư đã từng nhiều lần lên
tiếng về chương trình ĐHN của
Việt Nam. Vậy xin Giáo sư cho
biết quan điểm về Trung tâm này
?
Giáo sư Nguyễn Khắc
Nhẫn : Vì tôi hoàn toàn
không đồng ý với chương trình
ĐHN của Việt Nam, tôi rất tiếc
phải nói rằng việc xây cất Trung
tâm hạt nhân ở Đà Lạt, gắn liền
với chương trình này, là không
cần thiết lắm, phí tiền của dân
mà không đem lợi ích gì cho nước
nhà. Lẽ cố nhiên, đối với Viện
Năng lượng nguyên tử, có trách
nhiệm lớn trong chương trình
ĐHN, tôi thông cảm với những lý
do mà ông Viện trưởng, TS Trần
Chí Thành, đã đưa ra. Theo ông
Viện trưởng, thì Trung tâm có
bổn phận phục vụ các nhà khoa
học, các trường đại học và các
cơ sở liên quan đến việc khai
thác các nhà máy ĐHN.
Ta không có nhân lực thì phải
có cơ sở để làm thí nghiệm và
đào tạo một số cán bộ ở trong
nước, chứ không thể hoàn toàn ỷ
lại ngoại quốc, điều ấy dễ hiểu
thôi, không có gì đáng trách móc
lắm.
Điện hạt nhân đã lỗi thời và rất
nguy hiểm
Vì thế trước tiên, cho phép
tôi trả lời câu hỏi chính là :
Tại sao tôi không ủng hộ chương
trình ĐHN ?
Từ 10 năm nay, qua trên 40
bài tôi viết và trả lời phỏng
vấn, tôi đã có dịp trình bày
những lý do tại sao Việt Nam
không nên làm ĐHN.
Tôi xin vắn tắt lại như sau :
ĐHN đã lỗi thời, không an toàn,
rất nguy hiểm cho hàng chục thế
hệ con cháu sau này. ĐHN không
kinh tế như người ta tuyên
truyền láo, nó sẽ đắt hơn năng
lượng tái tạo, khi ta xây cất
xong các nhà máy. Hiện nay giá
thành điện gió ở Âu Châu đã cạnh
tranh được rồi.
Điện Hạt Nhân – ĐHN - là Điện
Hại Nước, Điện Hại Non. Non Nước
và dân ta có tội gì đâu, mà phải
sống trong sự đe dọa thường trực
của phóng xạ giết người, gây
bệnh hoạn suốt đời, sau biết bao
tang thương của những cuộc chiến
tranh tàn ác để lại. Vì một
chiến lược sai lầm, không phù
hợp với cuộc cách mạng năng
lượng thế giới đang diễn ra
(smartgrid, Năng lượng tái tạo,
tiết kiệm và hiệu quả năng
lượng...), nếu rủi ro, trong
chớp nhoáng, Việt Nam có thể bị
điêu tàn, kinh tế sụp đổ, ngành
du lịch, xuất khẩu tê liệt !
Trở lại vấn đề dự án Trung
tâm hạt nhân Đà Lạt. Tại Hội
nghị Khoa học và công nghệ hạt
nhân toàn quốc lần thứ 10 vừa
diễn ra tại Vũng Tàu, ông Lê
Đình Tiến - Thứ trưởng Bộ KHCN -
phát biểu như sau : Chúng ta
đang thiếu nhân lực, cán bộ năng
lượng nguyên tử, cán bộ giỏi về
ĐHN. Hiện nay, các cán bộ trong
nước đang gặp khó khăn trong
việc thẩm định kết quả tư vấn
cho hai nhà máy ĐHN ở Ninh Thuận
do chúng ta đang rất thiếu
chuyên gia, thiếu đội ngũ làm
việc cho cơ quan pháp quy để đảm
bảo an toàn an ninh cho hạt
nhân, thiếu đội ngũ cán bộ xây
dựng nhà máy ĐHN. Việc quản lý
chất thải nhà máy ĐHN cũng đang
là vấn đề quan trọng đang tranh
cãi chưa đưa ra được hướng đi.
Như thế thì tại sao ta phải
xây dựng cấp bách nhà máy ĐHN ở
Ninh Thuận ? Rồi xây tiếp một
loạt 14 lò đến năm 2030 ? Chưa
gì mà có người đã hãnh diện cho
Việt Nam, sẽ được xếp vào hàng
thứ 15 trong số 33 nước có ĐHN
trên thế giới !
Đầu
tư khổng lồ, kết quả mờ mịt
Trên nguyên tắc, với 500
triệu đôla, ta có thể cấp ít
nhất 50.000 học bổng cho các kỹ
sư đã tốt nghiệp, du học ở ngoại
quốc, khỏi cần xây cất Trung tâm
này. Tuy nhiên, nếu làm 14 lò
với tham vọng xây dựng nền tảng
cho một công nghiệp hạt nhân,
thì sẽ cần thêm hàng chục tỷ đô
la để đầu tư vào nhiều cơ sở
nghiên cứu khác, một Trung tâm
có nghĩa lý gì ?
Diện tích đất trong dự án (Đà
Lạt) lên đến 107 ha, tha hồ mà
xây cất. Càng nhiều Trung tâm
như vậy, giá điện càng tăng
nhanh !
Nên biết rằng trước khi EDF
(Electricité de France – Công ty
điện lực quốc gia Pháp) bắt đầu
xây cất các nhà máy ĐHN vào năm
1957, Pháp đã có lò Zoe – EL1
(1948), EL2 (1952). Sau đó, liên
tiếp từ 1956 trở đi đến 1978,
Pháp không ngừng xây cất gần 30
lò nghiên cứu và đào tạo, rải
rác ở nhiều Trung tâm của CEA.
Hiện nay chỉ 15 lò nghiên cứu
còn hoạt động.
Như thế có nghĩa là, nếu ta
quyết tâm chọn con đường hạt
nhân, đầy chông gai hiểm trở,
theo tôi, hoàn toàn bế tắt, thì
ta sẽ phung phí hàng chục, rồi
hàng trăm tỷ đôla của dân còn
nghèo khổ. Nó sẽ thu hút tất cả
nguồn sinh lực và tài chính quốc
gia, không cho phép ta đầu tư
vào những lĩnh vực then chốt
khác : Năng lượng tái tạo, tiết
kiệm và tăng gia hiệu suất năng
lượng, chưa kể các lĩnh vực ưu
tiên, như giáo dục, nghiên cứu,
y tế, xã hội...Và ta sẽ càng khó
đuổi kịp các nước biết nhìn xa
ngó rộng, biết đầu tư đúng nhịp
tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày
nay.
Chương trình ĐHN Pháp quá
mạnh, nay cũng bị kẹt ! Pháp
muốn khai thác nhanh Năng lượng
tái tạo như Đức mà không đủ điều
kiện, nhất là về tài chính. Đức
rất khôn ngoan, đã tiên phong
đầu tư vào lĩnh vực tái tạo từ
hơn 20 năm nay !
Pháp : Cường quốc hạt nhân dần
chuyển sang năng lượng xanh
Để có một ý niệm về tầm quan
trọng của lĩnh vực nghiên cứu
hạt nhân, tôi xin phép vắn tắt
giới thiệu Trung tâm hạt nhân
của Pháp nêu trên : CEA
(Commisariat à l'Energie
Atomique et aux Energies
Alternatives). Hai chữ Energies
Alternatives (các năng lượng
mới) mới thêm vào cách đây vài
năm, chứng tỏ sự chuyển hướng
của Pháp trong lĩnh vực năng
lượng. CEA, nỗi tiếng trên thế
giới, có cả thảy 5 cơ sở dân sự
(Saclay, Fontenay- aux- Roses,
Grenoble, Marcoule và Cadarache)
và 5 cơ sở quân sự. Với một ngân
sách lên đến 4,7 tỷ euros và
16.000 nhân viên có trình độ rất
cao, phục vụ ở 53 đơn vị, CEA
hợp tác chặt chẽ với 500 xí
nghiệp.
Riêng về CEA Grenoble, trước
kia gọi là CENG (Centre d'Etudes
Nucléaires Grenoble), được GS
Louis Néel, Nobel Vật lý, thành
lập năm 1956, tôi được biết rõ
hơn cả vì đã tu nghiệp hạt nhân
ở nơi đây.
CENG có cả thảy 12 phòng thí
nghiệm, dành cho nghiên cứu vật
lý cơ bản, vật lý chất rắn,
nhiễu xạ nơtron, nhiệt độ thấp,
cộng hưởng từ, máy gia tốc. Các
phòng thí nghiệm khác đảm trách
vật lý hạt nhân, truyền nhiệt,
đặc tính hóa học của chất rắn và
luyện kim, đặc tính hóa học dưới
bức xạ, ứng dụng chất phóng xạ
và điện tử. Cộng với 3 lò hạt
nhân : Mélusine, Siloé,
Siloette, CENG đã đào tạo hàng
ngàn kỹ sư cho EDF.
Từ 2002 đến 2012, CEA
Grenoble đã phá gỡ 3 lò nêu
trên. Vì thế hiện nay, CEA
Grenoble hoàn toàn phi hạt nhân
và 4 hướng nghiên cứu chính là
công nghệ micro-nano, năng lượng
mới, công nghệ sinh học và
nghiên cứu cơ bản.
Quá trình diễn biến khoa học
và kỹ thuật của CENG cho phép
tôi nói rằng : Việt Nam đi lùi
hơn nửa thế kỉ mà không biết !
Vì cớ gì, người ta đi tới,
mình đi lùi, người ta đi ra,
mình đi vào ?
Lúc bắt đầu chương trình ĐHN,
Pháp đã có một nền tảng công
nghiệp cơ điện vững chắc, ngoài
EDF và CEA. Lực lượng nguyên tử
của họ ngày nay có thêm Areva,
một xí nghiệp hùng mạnh, bao sân
toàn bộ chu kỳ hạt nhân, từ mỏ
uranium đến khâu xử lý chất thải
phóng xạ. Nên biết rằng từ 1957
đến 2010, Pháp đã đầu tư cả thảy
khoảng 300 tỷ đô la vào lĩnh vực
hạt nhân dân sự.
Liệu ta có đủ nhân lực và tài
chính để ồ ạt xung phong vào một
công nghiệp đang xuống dốc mạnh
không ?
Dù sao, theo tôi, xây dựng
Trung tâm hạt nhân Đà Lạt bây
giờ thì cũng quá muộn rồi, so
với lịch trình của một chương
trình ĐHN quá tham vọng của ta,
sang năm đã khởi công.
Nếu nâng
cao hiệu suất sử
dụng điện, không
cần ĐHN
Giáo
sư Phạm Duy Hiển
: Hiện nay có
một mâu thuẫn
như thế này :
Chúng ta nói là
Việt Nam thiếu
điện. Tất nhiên
hai năm nay, thì
đỡ hơn rất
nhiều, vì có một
số tổ máy vào,
không đến nỗi bị
cúp điện như
cách đây 3, 4
năm. Nhưng mà
tôi vẫn giữ một
quan điểm là
Việt Nam rất
lãng phí điện.
Chúng tôi có
những công trình
nghiên cứu nói
rõ những cái đó.
Việt Nam lãng
phí vào loại
nhất thế giới.
Nói ra điều này
ít ai tin được,
bởi vì một nước
nghèo như Việt
Nam, làm sao lại
lãng phí đến mức
như vậy ?!
Nhưng mà hãy
hỏi các nhà
nghiên cứu có
tìm hiểu kỹ về
vấn đề này, thì
so sánh theo
những tiêu chí
nhất định, thì
đúng như vậy. Hệ
số đàn hồi của
Việt Nam là luôn
luôn lớn hơn 2,
mà các nước xung
quanh chỉ hơn 1.
Như vậy đề làm
được một đô la
hay một euro,
chúng ta phải
tiêu thụ lượng
điện gấp đôi các
nước xung quanh.
5% tăng trưởng
GDP hàng năm,
thì tiêu thụ
điện tăng tới
12%. Như thế hệ
số đàn hồi lớn
hơn 2. Hiện nay
chưa giải được
bài toán đó.
Thực ra những
người có thẩm
quyền cũng biết
việc này và cũng
đặt kế hoạch đến
2020, làm sao Hệ
số đàn hồi chỉ
còn 1 thôi.
Cho nên quyết
sách rất quan
trọng. Nếu giải
quyết được vấn
đề nâng cao hiệu
quả sử dụng
điện… Cứ làm
đúng như các
nước xung quanh,
thì mức tiêu thụ
năm 2020 không
phải là con số
dự kiến như khi
đưa ra Quốc hội,
lúc đề nghị
duyệt chương
trình ĐHN. Nếu
Việt Nam đề cao
hơn nữa hiệu quả
sử dụng điện
năng, thì theo
tôi chưa cần
phải làm ĐHN. Cứ
đẩy lùi chương
trình này lại.
Cái này chứng
minh không khó
và không phải ít
người thấy.
Nhưng mà tại sao
không thể làm
được ? Thì thực
ra tôi thấy cũng
rất là khó hiểu
?!
Dân
các nước dân chủ thường phản đối
cơ sở hạt nhân gần dân cư
RFI :
Hiện nay tỉnh Lâm Đồng không
đồng ý về việc xây cất Trung tâm
ở Đà Lạt, do sợ hạt nhân và có
đề nghị nên tìm một địa điểm
khác cách xa Đà Lạt 30 km. Xin
Giáo sư cho biết suy nghĩ của
Giáo sư về vấn đề này ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn
: Tỉnh Lâm Đồng không đồng ý thì
cũng có lý, tuy mức độ nguy hiểm
của Trung tâm thấp hơn nhiều so
với lò ĐHN.
Muốn so sánh, lấy ví dụ lò
nghiên cứu Triga Đà Lạt 250 kW
nhiệt của Mỹ viện trợ năm 1963.
Sau đó vào năm 1984, hợp tác với
Nga, công suất nhiệt đã được
nâng lên 500 kW. Công suất điện
lò Ninh Thuận là 1000 MW, tức
gần 3000 MW nhiệt !
Rủi ro về ô nhiễm phóng xạ
phần lớn là do sự cẩu thả hay
sai lầm của nhân viên khai thác.
Còn lạ gì về những nhược điểm
của ta : Thiếu tác phong công
nghiệp, tác phong xã hội, văn
hóa an toàn. Thảm họa Tchernobyl
hay Fukushima là do ở con người
chứ không phải ở thiết bị.
Ngày nay ở các nước dân chủ,
nhất là ở Âu Châu, phần đông các
thành phố, làng, xã nhỏ hay lớn
đều tìm mọi cách để từ chối việc
cấp đất để xây cất nhà máy Điện
hay cơ sở hạt nhân, dù có mua
chuộc họ với tiền bạc đi nữa.
Cũng vì lẽ ấy mà các công ty
điện lực như EDF, đề nghị kéo
dài thời gian vận hành các lò từ
30 đến 40, 50 hay 60 năm ! Theo
tôi, gia hạn như thế rất tốn kém
và nguy hiểm.
Sở dĩ ngày xưa, các phòng thí
nghiệm hạt nhân được xây dựng ở
trung tâm thành phố, phần lớn
cũng vì các chuyên gia thiếu
kinh nghiệm và coi thường mức độ
nguy hiểm của phóng xạ. Dân
chúng thì không có thông tin
chính xác để chống đối mạnh như
ngày nay.
Ngay ở CENG tại thành phố
Grenoble, ngày 7-11-1967, một
thanh nhiên liệu đă bị nóng chảy
ở lò nghiên cứu Siloé làm thoát
ra 55.000 curies trong hồ nước
và 2.000 curies trên khí quyển.
Cũng ở Grenoble, tại lò RHF
(Réacteur à Haut Flux) của Viện
Laue-Langevin, ngày 19-7-1974,
2500 curies Antimoine 124 bị rò
rỉ trong hồ nước, gây ô nhiễm ở
lớp nước giếng.
Trưng cầu dân ý về ĐHN Việt Nam
RFI :
Giáo sư có thêm ý kiến gì vấn đề
này ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn
: Theo tôi, cần phải có
cuộc trưng cầu dân ý về chương
trình ĐHN của Việt Nam. Như thế
mới là dân chủ !
Timothy Mitchell, Giáo sư Đại
học Columbia (New York), trong
cuốn sách « Carbon Democracy
» (Năng lượng và nền Dân chủ)
vừa xuất bản, đã chứng minh sự
liên hệ mật thiết giữa dân chủ
và năng lượng. Qua các thế kỉ
18, 19 và 20, ta thấy các tập
đoàn, xí nghiệp, lobby, giàu
mạnh trên thế giới, đã lợi dụng
đồng tiền, uy tín và quyền lực
của họ, gây áp lực và ảnh hưởng
lớn trong cơ cấu chính quyền,
các tổ chức xã hội, nghiệp đoàn,
để khai thác và phát triển công
nghiệp than, dầu, khí, rồi ĐHN.
Sau thảm họa Fukushima, họ
thừa biết rằng thời kỳ oanh liệt
của hạt nhân đã qua rồi (60 năm
tròn, như chu kỳ dài hạn của nhà
kinh tế Nga Kondratieff), nên đã
mạnh dạn chuyển hướng đầu tư
sang Năng lượng tái tạo.
Những nước không muốn trưng
cầu dân ý, che đậy thông tin
chính xác về ĐHN, sẽ làm mất giá
trị và ý nghĩa của hai chữ dân
chủ. Ở Pháp, nhờ sự tranh đấu
vững mạnh của các tổ chức phi
chính phủ (ONG), giai đoạn xấu
xí này đã chấm dứt từ lâu.
Bài
học đi trước thời đại của nước
Áo
Nước Áo đã cho thế giới một
bài học dân chủ có một không hai
trong lĩnh vưc ĐHN, mà ít người
biết đến. Từ 1972 đến 1977, nước
này xây cất xong nhà máy ĐHN
Zwentendorf (lò nước sôi BWR 730
MW), cách thủ đô Vienne 60 km,
cạnh bờ sông Danube. Ngay sau
đó, trong cuộc trưng cầu dân ý
năm 1978 (tức trước sự cố Three
Miles Island ở Mỹ năm 1979), số
phiếu chống ĐHN thắng với tỷ số
eo hẹp 50,5% ! Tuy vậy, chính
phủ vẫn ra lệnh tuyệt đối cấm
không cho nhà máy này vận hành !
Nó đã trở thành một Viện bảo
tàng và cũng là một địa điểm
đang sản xuất điện mặt trời !
Đáng phục hơn nữa là năm 1999,
luật ghi rõ trong hiến pháp -
Nước Áo không hạt nhân - được
quốc hội đồng thanh biểu quyết.
Sau thảm họa Fukushima, tỷ lệ
số dân Áo chống ĐHN vọt lên 80%
và người cầm đầu nước này,
Werner Faymann, đã long trọng đề
nghị Cộng đồng Âu Châu nên từ bỏ
ĐHN và đầu tư mạnh vào Năng
lượng tái tạo.
Theo tôi, chỉ có Năng lượng
tái tạo (không tốn tiền nhiên
liệu, đừng bao giờ quên !) mới
đem lại độc lập, hòa bình và dân
chủ cho thế giới.
Mỗi lò hạt nhân sẽ làm ta kẹt
ít nhất 50 năm để khai thác và
50 năm để tháo gỡ. Đó là chưa kể
phải tiếp tục quản lý chất thải
phóng xạ suốt hàng trăm thế kỉ
liên tiếp!
Nếu một tai nạn lớn như thảm
họa Tchernobyl hay Fukushima,
xẩy ra trong số 14 lò, sẽ được
xây cất ở các tỉnh Ninh Thuận,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Hà Tĩnh, thì lãnh thổ ta sẽ lâm
nguy và bị cắt làm đôi, do phóng
xạ bao trùm cả miền Trung. Dân
chúng sẽ di tản ở đâu ? Chất
thải phóng xạ giết đồng bào ngàn
năm vẫn còn đó.
Ta đừng vội quên Fukushima.
Chất độc phóng xạ tiếp tục tung
hoành cả khu vực rộng lớn xấu số
này. Hiện nay, Tepco đang gặp
cơn khủng hoảng hết sức trầm
trọng. Mỗi ngày Tepco tiếp tục
đổ ra Thái Bình dương trên 300
tấn nước bị ô nhiễm ! Chính phủ
Nhật đang hoang mang, vì những
thùng chứa 200.000 tấn nước
nhiễm phóng xạ đe dọa bị nứt.
Vừa qua, 300 tấn nước rất độc
hại đã thoát khỏi một thùng nước
bị hỏng. Sự cố đã được nâng lên
cấp số 3 trên thang INES
(International Nuclear Event
Scale). Tepco cũng như Rosatom
của Nga đã nhiều lần bị chỉ
trích về sự thiếu nghiêm túc và
nói láo, ta cứ tin tưởng ở hai
chữ an toàn của họ thì có ngày
sẽ thất vọng và hối tiếc.
Nước Áo vô cùng sáng suốt đã
hỏi ý kiến dân trước khi xẩy ra
3 biến cố khủng khiếp nhất :
Three Miles Island, Tchernobyl
và Fukushima.
Vì vận mệnh thiêng liêng của
tổ quốc và sự sống còn của đồng
bào, một lần nữa, tôi thiết tha
đề nghị Chính phủ Việt Nam tổ
chức gấp một cuộc trưng cầu dân
ý, trước khi khởi công. Nếu
không, những ai lấy quyết định
hôm nay, ngày mai đâu còn đó mà
chịu trách nhiệm với non sông ?
».
An
toàn là đòi hỏi số một
Trở lại với chủ trương
xây dựng một trung tâm hạt nhân
tại Đà Lạt. Ngoài các mục tiêu
nghiên cứu cơ bản và sản xuất
các đồng vị phóng xạ phục vụ cho
y tế và một số ngành kinh tế, dự
án Trung tâm Khoa học và Công
nghệ hạt nhân Đà Lạt nằm trong
chương trình đào tạo nhân lực
cho kế hoạch phát triển ĐHN tại
Việt Nam, trước mắt với việc xây
dựng hai nhà máy hạt nhân tại
tỉnh Ninh Thuận, với công nghệ
và tín dụng của Nga và Nhật Bản,
dự kiến sẽ bắt đầu cung cấp điện
từ năm 2020. Việc khởi sự một
trung tâm đào tạo nhân lực hạt
nhân vào thời điểm sắp khởi công
xây dựng nhà máy hạt nhân đầu
tiên (năm 2014) cho thấy Việt
Nam đang lúng túng trong chủ
trương phát triển năng lượng hạt
nhân, mà việc đào tạo vốn có
những đòi hỏi rất cao. Một số
nhà quản lý và chuyên gia trong
nước cảnh báo, một mặt, Việt Nam
chưa xây dựng xong chương trình
đào tạo ở bậc đại học cho các
ngành nghề trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử - với ước tính
cần khoảng hơn 4.000 kỹ sư,
chuyên viên… từ sau năm 2020 -,
mặt khác, các ngành học này khó
thu hút được sinh viên, đặc biệt
các sinh viên có năng lực khá,
giỏi.
Bên cạnh những ý kiến phê
phán triệt để chủ trương phát
triển ĐHN như của Giáo sự Nguyễn
Khắc Nhân trong phần trình bày
phía trên, tại Việt Nam, sau khi
chương trình hạt nhân chính thức
được thông qua, một số chuyên
gia trước có quan điểm phản đối,
nay chấp nhận chủ trương chính
thức của Nhà nước, nhưng tiếp
tục bảo vệ quan điểm : Để ĐHN
không trở thành một tai họa,
điều tiên quyết số một là phải
đào tạo được một đội ngũ nhân
lực đủ để tham gia xây dựng, vận
hành và bảo đảm an toàn các nhà
máy trong tương lai.
Chúng tôi xin giới thiệu
với quý vị tiếng nói của Giáo sư
Phạm Duy Hiển, nguyên viện phó
Viện Năng lượng nguyên tử quốc
gia, viện trưởng Viện Nghiên cứu
hạt nhân Đà Lạt, hiện là chủ
tịch hội đồng khoa học cục Kiểm
soát và an toàn bức xạ, hạt nhân
Việt Nam.
Giáo sư Phạm Duy Hiển
: « Sau tai nạn Fukushima, thì
trên thế giới có tổng kết lại là
tại sao nó xẩy ra. Thì người ta
rút ra mấy cái kết luận như thế
này : Cái an toàn của ĐHN nó
không phải là tự trong máy móc
thiết bị đã được cài sẵn, mà vấn
đề là cái an toàn đó nó được thể
hiện qua đội ngũ về chuyên môn
cũng như về quản lý. Do đó cho
nên, Việt Nam muốn làm ĐHN, thì
như chúng tôi đã nói rất nhiều
lần là cái công tác đào tạo con
người là việc hết sức quan
trọng. Mà tôi nghĩ rằng Nhà nước
cũng đã quan tâm đến chuyện đó.
Do đó cho nên, việc xây dựng cái
trung tâm nghiên cứu hạt nhân,
với Trung tâm nghiên cứu hạt
nhân cái lò phản ứng công suất
hơn 10 MW là nằm trong chủ
trương ấy.
Hiện nay, Nhà nước, Quốc hội
rất muốn là có ĐHN sau 2020,
nhưng mà trên thực tế tiến độ đó
là khó thực hiện được, bởi vì
ngay đến bây giờ phía Việt Nam
vẫn chưa nhận được những tài
liệu thiết kế cần thiết, thậm
chí những tài liệu kỹ thuật,
luận chứng của các đối tác cũng
chưa có. Là bởi vì, như tôi nói
nhiều năm trước, việc làm ĐHN
không đơn giản như thế, như khi
ta quyết định xây dựng một nhà
máy đóng giày… Đặc biệt sau vụ
Fukushima, mọi người đều thấy
rằng an toàn ĐHN là vấn đề rất
lớn.
Nhân lực có trình độ cao không
chỉ trong kỹ thuật mà cả trong
quản lý
GS Phạm Duy Hiển
: Cho nên không thể làm mà đốt
cháy giai đoạn được. Thực chất
vấn đề này chúng tôi đã dự đoán
trước từ nhiều năm, thậm chí từ
cách đây 10 năm. Thế và cũng căn
cứ vào tình hình chung ở rất
nhiều nước trên thế giới, nói
chung trong thời gian những năm
gần đây, có lẽ loại trừ Trung
Quốc là một nước có lẽ cũng đặc
biệt, còn tất cả các nước khác
làm ĐHN đều trễ tiến độ, so với
lại dự kiến ban đầu, thậm chí
trễ rất nhiều. Tất cả đều là do
chuyện con người bây giờ, người
ta lo cho chuyện an toàn, không
thể chấp nhận, không thể bỏ qua
bất cứ sai sót nào. Và cái đó nó
cũng đặt ra một thách thức cho
Việt Nam. Là muốn làm được như
vậy, thì phải có đội ngũ, phải
có những người am hiểu, chứ
không phải lúc nào cũng thuê
nước ngoài được cả.
Thế thì trở lại vấn đề nhân
lực cho Việt Nam. Nhân lực có
trình độ cao không phải chỉ
trong lĩnh vực học thuật, chuyên
môn, kỹ thuật, mà còn cả về quản
lý, lo lắng cho công tác an
toàn. Và việc chỉ đạo, lãnh đạo
từ phía cấp cao của Nhà nước.
Chúng ta thấy, như vụ Fukushima
hiện nay. Ngay vụ rò rỉ phóng
xạ, Thủ tướng chính phủ phải
đứng ra giải quyết.
Đội
ngũ nhân lực chưa sẵn sàng thì
chưa thể xây dựng và vận hành
nhà máy ĐHN
GS Phạm Duy Hiển
: Bây giờ gần đây nói thêm, cũng
có chuyện là trong nước cũng có
chính sách là tuyên truyền cho
người dân biết về ĐHN. Nhưng mà
các nước người ta tổng kết về
tuyên truyền như thế này : Anh
tuyên truyền cho ĐHN, thì anh
không thể nói được là ĐHN là an
toàn, vì nó không đúng nữa rồi.
Khắp nơi nó xẩy ra chuyện này,
chuyện khác, nhất là vụ
Fukushima. Tuyên truyền (thực
chất) cho ĐHN thì phải nói như
thế này : ''Bà con hãy tin
tưởng vào chúng tôi ! Chúng tôi
sẽ cố gắng làm cho ĐHN an toàn
đến mức có thể được''. Đấy
là câu tổng kết mà tôi cho là
rất có giá trị.
Như vậy có nghĩa là, thực
chất mọi người phải làm thế nào
để cho nó an toàn, và tuyên
truyền có nghĩa là thể hiện cho
đồng bào, nhân dân thấy là chúng
tôi đã cố gắng hết sức để làm
cho nó an toàn. Đó là tình hình
của Việt Nam ta hiện nay, khi đã
có quyết định là làm ĐHN, thì có
lẽ cách tốt nhất là phải nói như
vậy.
Mà nói như vậy có nghĩa là
phải có hành động. Có hành động
là mọi biện pháp để có được đội
ngũ bảo đảm an toàn cho ĐHN. Tôi
nói với tư cách của một người
được giao nhiệm vụ làm ngành hạt
nhân này từ 35 năm nay ở trong
nước. Trước đây tôi không có
nhất trí với việc làm sớm và làm
ồ ạt ĐHN, nhưng bây giờ một khi
chính phủ đã quyết, thì chúng
tôi phải nói rất mạnh đến vấn đề
là nhân lực của ta chưa thật sẵn
sàng và phải hết sức tập trung
vào đào tạo được nhân lực đó. Và
chừng nào đội ngũ nhân lực đó mà
chưa sẵn sàng, thì chưa có thể
làm, chưa có thể cho vận hành,
xây dựng nhà máy ĐHN được.
----
Trong nhiều năm, trước
khi được Quốc hội thông qua,
chương trình ĐHN của Việt Nam bị
nhiều ý kiến phê phán dữ dội của
các chuyên gia trong và ngoài
nước, về mặt nguyên tắc. Sau khi
đã trở thành một chủ trương
chính thức tại Việt Nam vào năm
2009, chương trình phát triển
ĐHN tiếp tục bị chỉ trích trong
vận hành cụ thể, đặc biệt sau
khi giới chuyên gia thu nhận
được rất nhiều bài học đắt giá
về những sai lầm của con người
trong việc quản lý phóng xạ sau
thảm họa Fukushima. Sự lúng túng
của chính phủ trong việc thực
hiện chương trình phát triển ĐHN
như dự kiến là một dịp để đặt
lại vấn đề : Trong bối cảnh tổng
mức tiêu thụ điện toàn quốc thấp
hơn nhiều so với dự kiến, liệu
việc phát triển cấp tốc năng
lượng hạt nhân có cần thiết ?
Bên cạnh đó, nếu tổ chức được
việc tiết kiệm điện thực sự hiệu
quả và kiên quyết phát triển
mạnh các loại năng lượng tái
tạo, liệu Việt Nam có thể thu
hẹp quy mô của ĐHN ?
Để có cơ sở đưa ra được
những câu trả lời thỏa đáng cho
những vấn đề kể trên, nhiều nhà
khoa học cho rằng cần phải có
những tính toán về dự báo tiêu
thụ điện và phương hướng tiết
kiệm điện, phát triển các năng
lượng xanh mang tính minh bạch
và khách quan hơn hiện nay.
Các bài liên quan
Giáo sư Phạm Duy Hiển: Việt Nam
cần xét lại chính sách phát
triển điện hạt nhân
Việt Nam nên dừng chương trình
điện hạt nhân
Kiểm soát hiểm họa hạt nhân :
Các câu hỏi từ khủng hoảng
Fukushima
Phóng xạ hạt nhân tác động thế
nào đến sức khỏe ?
Về chủ
trương làm đường
điện 750 kV tại
Ninh Thuận
GS
Nguyễn Khắc Nhẫn
: Tôi không rõ
ai đề xướng điện
áp 750 kV (con
số tiêu chuẩn là
765 kV). Thật
hết sức vô lý !
Trên lý
thuyết, khi
đường dây dài
quá 700 km hay
800 km, dùng
điện siêu áp
(ultra haute
tension) 750 kV
hay điện một
chiều (courant
continu) cao thế
là phải.
Đường dây Bắc
Nam của ta dài
gần 1.500 km,
xây dựng vào năm
1992, dùng điện
xoay chiều 500
kV. Sở dĩ không
dùng điện một
chiều là vì dọc
đường phải cung
cấp điện cho
nhiều thành phố,
qua các trạm
biến thế. Lúc
bấy giờ ta không
dùng 750 kV vì
điện áp cao nhất
của lưới điện
quốc gia là 220
kV. Từ con số
này vọt ngay lên
750 kV thì rất
bất tiện cho
việc khai thác.
Từ các nhà
máy điện hạt
nhân ở miền
Trung truyền tải
đến lưới điện
quốc gia (220 kV
hay 500 kV)
khoảng cách
chẳng là bao,
đâu cần phải
dùng siêu điện
áp 750 kV làm
gì, tốn kém vô
ích.
Không phải
muốn tăng mức
điện áp lúc nào
cũng được !
Nhiều người
tưởng lầm rằng
điện áp hay điện
thế (U) tăng
cùng tỷ lệ với
công suất điện
(P), vì thế khi
có nhiều nhà máy
điện với công
suất lớn, thì
phải tăng mức
điện thế theo
ngay. Nhưng trên
thực tế, điện
thế U tỷ lệ với
√ P chứ không
phải với P, tức
là mức tăng điện
áp chậm hơn rất
nhiều so với mức
tăng công suất.
Nga đã sử
dụng điện áp 750
kV từ lâu vì đất
rộng và nhu cầu
điện mênh mông.
Hay có chuyên
gia ngoại quốc
nào đây quảng
cáo láo để bán
trang thiết bị
cho ta ?
Điều này cũng
dễ hiểu thôi vì
thị trường hạt
nhân đang xuống
dốc mạnh. Nhiều
nước, đã lỡ đặt
lò, sau
Fukushima, rút
lui có trật tự.
Chương trình
khuếch trương
điện lực của
Nhật cũng có dự
kiến sẽ xây cất
thêm 14 lò trước
thảm họa. Tội gì
mà không bán
hàng tồn kho cho
Việt Nam ?
Lúc xưa, tôi
phải tranh đấu
mạnh với công ty
Nippon Koei nên
họ mới chịu
trang bị đường
dây Danhim
Sàigòn dài 257
km, với điện áp
220 kV thay vì
154 kV. Lý do là
họ không làm
đúng kỹ thuật và
tôi cũng nghĩ
rằng họ muốn bán
thiết bị tồn
kho, vì điện áp
154 kV đã lỗi
thời !
Đầu những năm
1970, các kỹ sư
EDF vì quá lạc
quan, cũng đã có
sai lầm trong dự
báo chiến lược
như ta. Họ đã
tuyên bố rằng
đến năm 2000
điện áp cao nhất
của lưới điện
EDF là 750 kV và
tổng sản lượng
điện của Pháp là
1.000 TWh !
Sau cơn khủng
hoảng dầu mỏ đầu
tiên năm 1973,
nhờ kế hoạch
tiết kiệm năng
lượng, mức tiêu
thụ đã hạ thấp
nhanh. Từ nhiều
năm nay, tổng
sản lượng điện
của Pháp vẫn giữ
con số 500 TWh
và điện áp cao
nhất 400 kV vẫn
không thay đổi.
Có kịch bản
khuyến khích
khai thác triệt
để Năng lượng
tái tạo, tiết
kiệm và tăng gia
hiệu quả năng
lượng để hạ tổng
sản lượng điện
Pháp xuống 400
TWh !
Ta nên hết
sức thận trọng,
cần phải nghiên
cứu, phân tích
tỉ mỉ, không nên
tung ra những
con số thiếu
chính xác, gây
ra những lỗi lầm
đáng tiếc trong
việc kiến thiết
quốc gia.