Những bài cùng tác giả
Những bài liên quan về
Dioxin
Ngày 10/7/1976 một
tai nạn kĩ nghệ xảy ra tại nhà máy và cũng là lò
phản ứng 2,4,5-trichlorophenol (TCP) gần thị
trấn Seveso (cách thành phố Milan khoảng 25 km)
làm thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kg
dioxin, một hóa chất độc hại vào hàng số một mà
con người biết đến. Cư dân trong vùng và các
vùng phụ cận bị phơi nhiễm độc chất. Ngay trong
ngày đó, hàng ngàn cư dân bị các triệu chứng như
ói mửa, nhức đầu, và đau mắt. Một số trẻ em
phải nhập bệnh viện vì các triệu chứng liên quan
đến da.
 |
Dioxin |
Lúc đó, khoa học
chưa có khả năng đo lường nồng độ dioxin trong
máu hay mô mỡ ; do đó cách định mức phơi nhiễm
độc chất duy nhất là đo nồng độ dioxin trong
đất. Sau này giới khoa học biết rằng định mức
phơi nhiễm như thế (tức là dựa vào nồng độ
dioxin trong đất) thường thấp hơn độ phơi nhiễm
thật đến 60 lần
(1). Tuy nhiên, dựa vào nồng độ dioxin trong
đất và mức độ hủy diệt cây cỏ chung quanh, các
nhà nghiên cứu phân chia toàn vùng ảnh hưởng
thành 3 khu vực với mã danh là A, B và R. Họ còn
chọn ra một khu vực không bị phơi nhiễm dioxin,
gọi là khu C (control,
hay đối chứng) để tiện việc so sánh và nghiên
cứu khoa học sau này
(2).
Qui mô phơi nhiễm
dioxin tại Seveso (Ý)
Khu vực |
Diện
tích(ha) |
Nồng độ dioxin trung
bình (mg/m2) |
Độ dioxin cao nhất
(mg/m2) |
Số cư dân
trong khu vực |
A |
80 |
230,0 |
5447 |
736 |
B |
269 |
3,0 |
44 |
4737 |
R |
1430 |
0,9 |
10 |
31800 |
C (Đối
chứng) |
7474 |
0,0 |
? |
182843 |
Chú thích
: Nồng độ dioxin được đo trong lòng đất 10 cm
chiều sâu ; mẫu đất lấy năm 1976.
Sau khi tai nạn xảy ra
khoảng hai tuần, 212 hộ gia
đình (gồm
736 cư dân) phải tản cư khỏi khu vực A, tức là
khu có nồng độ dioxin cao nhất. Một số nhà và
bin-đinh khu A cũng bị triệt phá bỏ. Sau khi cư
dân di tản, nhà chức trách tiến hành đào 300.000
m3
đất (sâu đến 40 cm) và đem lượng đất này chứa
trong hai hố đặc biệt xây dựng cho các chất thải
hóa học. Một năm sau, việc làm sạch khu vực A
mới xong. Cư dân trong khu B và R không phải tản
cư, nhưng phải tuân theo những qui luật vệ sinh
nghiêm ngặt.
Ngay sau khi tai nạn xảy
ra, ý thức được tiềm năng độc hại của dioxin, và
với sự hỗ trợ của chính phủ Ý, các nhà nghiên
cứu khoa học và bác sĩ đã thiết lập ngay một
chương trình nghiên cứu qui mô về tác hại của
dioxin đến sức khỏe cư dân trong vùng. Chương
trình nghiên cứu này nhắm vào ba hướng chính :
(i) kiểm tra vệ sinh và bảo vệ sức khỏe cư dân
trong những khu vực được xem là chịu ảnh hưởng
nhiều nhất ; (ii) nghiên cứu dịch tễ học để xác
định những mối liên hệ giữa dioxin và tỉ lệ phát
sinh bệnh tật trong cư
dân,
kể cả lập ra một cơ quan theo dõi tất cả các
bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh, tiểu đường,
thần kinh, v.v…; và (iii) nghiên cứu cơ bản về
tác hại của dioxin.
Năm 1988, với sự
giúp đỡ của Cơ quan phòng chống và kiểm soát
bệnh tật (CDC, Mĩ) các nhà nghiên cứu tiến hành
đo nồng độ dioxin bằng quang phổ kế trong các
mẫu máu của cư dân trong vùng mà họ đã thu thập
từ lúc tai nạn xảy ra đến 1977 (các mẫu máu này
được bảo quản trong tủ lạnh âm 20 độ C). Kết quả
đo nồng độ dioxin lần đầu được công bố vào năm
1991
(3). Họ (các nhà nghiên cứu) phát hiện nồng
độ dioxin rất cao trong một số cư dân, dao động
từ 828 đến 56.000 ppt (part per trillion, phần
ngàn tỉ). Đặc biệt là trẻ em dưới 13 tuổi có
khuynh hướng bị phơi nhiễm nặng hơn thanh niên
và người lớn. Điều này cũng phù hợp với một phân
tích mới đây cho thấy một mối quan hệ đảo ngược
giữa độ tuổi và độ phơi nhiễm dioxin (nói cách
khác, tuổi càng nhỏ nồng độ dioxin càng cao,
(4)).
Nồng độ dioxin
(ppt) trong cư dân Seveso năm 1976 (ngay khi xảy
ra tai nạn)
Khu vực |
Phụ nữ
dưới 13 tuổi (n = 302) |
Phụ nữ 13
tuổi trở lên (n=698) |
Nam dưới
13 tuổi (n = 264) |
Nam 13
tuổi trở lên (n=420) |
A |
2965 |
1970 |
1840 |
1310 |
B |
289 |
174 |
455 |
455 |
R |
406 |
51 |
261 |
80 |
C (Đối
chứng) |
52 |
36 |
95 |
41 |
Chú thích
:
n
có nghĩa
là số lượng cư dân. Tất cả những con số trên là
nồng độ trung bình.
Hai mươi năm sau
(tức 1996), các nhà nghiên cứu chọn ngẫu nhiên
62 cư dân từ khu vực A (n = 7 người) và B (n =
55 người), và 59 cư dân từ khu vực C để đo lại
nồng độ dioxin, và kết quả đã được công bố
(5). Theo kết quả phân tích này, nồng độ
dioxin trung bình trong cư dân khu A là 53,2
ppt, khu B là 11 ppt, và khu C là 4,9 ppt.
Trong tất cả các vùng A, B và C, phụ nữ có nồng
độ dioxin cao hơn nam giới. Như vậy, sau 20
năm, nồng độ dioxin trong máu có phần giảm so
với năm đầu xảy ra tai nạn, nhưng cư dân trong
các vùng ảnh hưởng vẫn có nồng độ cao hơn một
cách đáng kể so với vùng C không bị phơi nhiễm
dioxin.
Một vài phát hiện
chính
Trong gần 30 năm
qua, qua công trình nghiên cứu tác hại của
dioxin, các nhà nghiên cứu Ý đã công bố khoảng
100 bài báo khoa học trên các diễn đàn y khoa
quốc tế. Ở đây, tôi chỉ tóm lược một số phát
hiện nổi bật qua các bài báo khoa học từ Seveso
:
Tử vong.
Tỉ lệ tử vong là một chỉ tiêu lâm sàng cụ thể
nhất về tác hại của một yếu tố sinh học như
dioxin. Năm 2001, tức 25 năm sau khi tai nạn
xảy ra, các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích
và so sánh tỉ lệ tử vong trong dân cư thuộc các
khu vực bị ảnh hưởng dioxin (A, B, R) và khu
không ảnh hưởng (C)
(6).
Họ phát hiện rằng đàn ông sống trong khu A và B
(hai nơi có nồng độ dioxin cao nhất) có tỉ lệ tử
vong vì ung thư tăng 30 %, đặc biệt là tỉ lệ tử
vong vì ung thư ruột tăng gấp 2,4 lần, ung thư
phổi tăng 30 %.
Ngoài ra, so với khu C, tỉ
lệ tử vong vì chứng ung thư máu trong các cư dân
(nam và nữ) thuộc khu A và B tăng 70 %. Đặc
biệt là tỉ lệ tử vong vì ung thư dạng Hodgkin
tăng gần 5 lần, ung thư non-Hodgkin tăng gần 3
lần, ung thư máu (myeloid leukemia) tăng 2,4
lần.
Tiểu đường.
Ngoài ra
cư dân, đặc biệt là phụ nữ, trong vùng A và B
còn có nguy cơ bị tiểu đường cao hơn khu C đến
2,4 lần. Một số bệnh liên quan đến hệ thống
tuần hoàn máu và hô hấp cũng tăng từ 20 % đến 50
%.
Ung thư vú.
Trong một nghiên cứu vừa
công bố vào khoảng 2 năm trước đây
(7),
các nhà nghiên cứu theo dõi tỉ lệ phát sinh ung
thư vú trong 981 phụ nữ mà mẹ của họ vào năm
1976 ở độ tuổi 40 (nói cách khác, vào thời điểm
xảy ra tai nạn kĩ nghệ, các phụ nữ này chỉ mới
ra đời hay chỉ 5 hoặc 10 tuổi). Sau thời gian
20 năm theo dõi, có 15 phụ nữ bị ung thư vú.
Tuổi trung bình lúc chẩn đoán ung thư là 45
tuổi, tức trẻ hơn so với dân số quốc gia. Nồng
độ dioxin trong máu của các phụ nữ bị ung thư vú
là 72 ppt, cao hơn nồng độ dioxin trong nhóm phụ
nữ không bị ung thư vú (trung bình 55 ppt). Nói
cách khác, phụ nữ có nồng độ dioxin trong máu
cao có nguy cơ bị ung thư vú cao. Qua phân tích
thống kê, các nhà nghiên cứu ước tính rằng xác
suất bị ung thư vú tăng gấp 2 lần khi nồng độ
dioxin tăng 10 lần.
Tỉ lệ giới tính.
Theo
thống kê thế giới cứ 100 trẻ em mới sinh có
khoảng 51 em là nam giới. Nhưng các cư dân sinh
sống trong khu vực bị nhiễm dioxin cao có tỉ lệ
nam sinh thấp hơn một cách đáng kể. Năm 1996,
các nhà nghiên cứu Seveso đã thu thập số liệu
lâm sàng trên 296 bà mẹ và 239 người cha. Tính
từ 1976 đến 1996, có 328 em trai và 346 em gái
ra đời từ 535 cha mẹ này. Tính trung bình, độ
tích tụ dioxin trong máu được ghi nhận là 96,5
ppt trong các người cha và 62,5 ppt trong các bà
mẹ. Trong các người cha thuộc khu C (không bị
nhiễm dioxin), tỉ lệ sinh con trai là khoảng 56
% ; và khu A, chỉ 44 %. Trong các bà mẹ thuộc
khu C, tỉ lệ sinh con trai là 47 % ; và khu A,
49 %. Tuy nhiên, nếu cả cha lẫn mẹ đều bị
nhiễm, tỉ lệ sinh con trai chỉ 44 %. Như vậy,
ảnh hưởng của dioxin trong các người cha nghiêm
trọng hơn trong các bà mẹ. Phân tích trong các
người cha bị nhiễm dioxin cho thấy mức độ tích
tụ dioxin trong máu càng cao càng có ảnh hưởng
lớn đến tỉ lệ sinh con trai
(8).
Kinh nghiệm từ
Seveso
Trong thời gian
10 năm trời (1962-1971) quân đội Mĩ đã phun
xuống Việt Nam 76,9 triệu lít hóa chất. Bởi vì
tất cả hóa chất, nhất là chất màu da cam, đều
chứa dioxin, tổng số lượng dioxin thải vào môi
trường được ước tính là tối thiểu 370 kg, tức
hơn 10 lần so với số lượng dioxin bị thải ra ở
Seveso. Gần 5 triệu cư dân trong các vùng phía
Nam Việt Nam bị ảnh hưởng dioxin
(9). Có thể nói không ngoa rằng chiến dịch
phun hóa chất xuống Việt Nam là một cuộc chiến
hóa học lớn nhất thế giới, bởi vì trong lịch sử
chiến tranh chưa có một lượng hóa chất nào được
dùng ở qui mô như thế.
Hơn 25 năm sau
khi chiến dịch phun hóa chất xuống Việt Nam chấm
dứt, nồng độ dioxin trong cư dân Việt Nam vẫn
còn cao (10-11).
Xin đưa ra một vài con số tiêu biểu : ở Đà Nẵng,
nồng độ dioxin trung bình là 96,3 đến 118,2 ppt
; Quảng Trị : 77 ppt ; Tây Nguyên : 40,3 ppt ; A
Lưới : 77 ppt ; Thừa Thiên : 57 ppt ; Đồng Nai :
47 ppt ; Sông Bé : 55 ppt ; Trà Nóc (Cần Thơ) :
105 ppt, v.v… Tất cả những nồng độ này đều cao
hơn so với nồng độ trong cư dân Seveso sau 25
năm tai nạn mà tôi vừa trình bày.
Mặc dù qui mô lớn
như thế nhưng tác hại của độc chất da cam và
dioxin trong đồng bào Việt Nam từng bị phơi
nhiễm độc chất trong thời chiến cho đến nay vẫn
chưa rõ ràng. Trong suốt gần 30 năm sau khi
chiến tranh chấm dứt, trên các diễn đàn khoa học
quốc tế số lượng bài báo khoa học liên quan đến
độc chất da cam từ Việt Nam còn cực kì khiêm tốn
(chưa đến con số 10). Phần lớn những nghiên cứu
này chỉ ở dạng mô tả, chưa đi sâu vào vấn đề lâm
sàng và bệnh lí. Lí do đơn giản là trong thời
gian qua chúng ta vẫn chưa có được một chương
trình nghiên cứu qui mô và có hệ thống như ở Ý.
Tất nhiên, cũng có những nguyên nhân khách quan
vì sao một chương trình nghiên cứu như thế đã
không thực hiện được, nhưng hiện nay, tôi nghĩ
đã có điều kiện để tiến hành nghiên cứu độc chất
da cam ở nước ta.
Hiện nay, một số
nạn nhân độc chất da cam đệ đơn kiện các công ti
hóa chất từng cung cấp độc chất cho lính Mĩ để
họ rải xuống Việt Nam, nhu cầu thu thập, phân
tích và công bố dữ kiện về tác hại của độc chất
da cam thật là cấp thiết. Ở đây, tôi thấy cần
phải nhấn mạnh hai chữ “công bố”, bởi vì trong
thực tế chúng ta đã từng thu thập dữ kiện, nhưng
các dữ kiện này hình như ít khi nào, thậm chí
chưa bao giờ được công bố trên các diễn đàn khoa
học quốc tế. Tôi cho rằng đó là một điều rất
đáng tiếc, không chỉ trên phương diện khoa học
mà còn trên phương diện đạo đức, chúng ta cần
công bố những dữ kiện đó để thế giới biết được
tác hại của độc chất.
Kinh nghiệm từ
công trình nghiên cứu Seveso cho thấy nghiên cứu
tác hại lâu dài của độc chất da cam hay dioxin
là một việc làm hoàn toàn khả dĩ. Trong cuốn
sách mới xuất bản
(11), tôi đã bàn tương đối chi tiết về ba
định hướng nghiên cứu, mà tôi xin tóm lược như
sau :
-
Thứ nhất,
phát triển cho được một phương pháp để ước
định mức độ phơi nhiễm độc chất cho từng cá
nhân trong những vùng từng bị ảnh hưởng độc
chất ;
-
Thứ hai, thiết lập mối liên
hệ giữa mức độ phơi nhiễm độc chất da cam và
các bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh, tiểu
đường, và tỉ lệ giới tính ;
-
Thứ ba, thẩm
định tác hại của dioxin hay độc chất da cam
đối với cấu trúc di truyền (gen).
Để đạt được những
mục tiêu trên, chúng ta cần phải thiết kế một
chương
trình nghiên cứu cho có hệ thống
khoa học. Nói có “hệ thống khoa học” có nghĩa
là các công trình nghiên cứu trong chương trình
này phải được tổ chức và tiến hành theo các
nguyên tắc khoa học để sao cho kết quả có thể
công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế và
sao cho đồng nghiệp trên thế giới công nhận.
(Hiện nay, cũng có một vài công trình nghiên cứu
nhỏ trong nước, nhưng kết quả chưa được giới
khoa học quốc tế đánh giá đúng mức vì các khiếm
khuyết liên quan đến phương pháp khoa học).
Để đạt được các
tiêu chuẩn quốc tế và các dữ kiện có giá trị
khoa học cao, chúng ta có thể tiến hành từng
bước một. Bước thứ nhất là phương pháp chọn mẫu
và đối tượng nghiên cứu cần phải được cân nhắc
đặc biệt. Chẳng hạn như chúng ta có thể dựa vào
lịch sử phơi nhiễm độc chất da cam để chọn ra 4
vùng làm trọng điểm nghiên cứu, trong đó có một
vùng không hề bị ảnh hưởng độc chất trong thời
chiến (như ở Hà Nội chẳng hạn). Trong mỗi vùng,
có thể sử dụng phương pháp chọn mẫu theo từng
nhóm (cluster sampling), và chọn ra 2500 đối
tượng và mời họ tham gia vào chương trình nghiên
cứu.
Bước thứ hai, tất
cả các đối tượng được chọn sẽ được phỏng vấn,
khám sức khỏe toàn diện, và lấy mẫu máu cũng như
nước tiểu. Trong bước này, tất cả các thông tin
liên quan đến nơi sinh, nơi đóng quân (nếu trong
quân đội), và thời gian phơi nhiễm sẽ được thu
thập thật kĩ. Ngoài ra, tất cả các thông tin
liên quan đến bệnh tật cũng như tất cả các chỉ
số nhân trắc của đối tượng và con em, thân nhân
gần của đối tượng đều được thu thập cho đầy đủ.
Sau khi đã thu thập dữ kiện
ban đầu, và dựa vào thông tin cá nhân, chúng ta
có thể ứng dụng một số phương pháp toán thống kê
để phát triển một chỉ số phơi nhiễm cho từng cá
nhân một. Chỉ số phơi nhiễm này sẽ là một trong
những yếu tố để phân tích cho các bước kế tiếp.
Ở
bước này,
ngoài việc ước tính tỉ lệ
bệnh tật,
chúng ta còn có thể phân
tích mối liên hệ giữa bệnh tật và độ phơi nhiễm
độc chất.
Tuy nhiên điểm yếu của
nghiên cứu trong bước này là chúng ta phải
nghiên cứu đảo ngược (tức là tìm căn bệnh hiện
tại, và truy tìm nguyên nhân trong quá khứ),
trong khi đó y học thì nghiên cứu “viễn cảnh”
(tức là tìm nguyên nhân hiện nay, rồi theo dõi
bệnh tật phát sinh trong tương lai). Để khắc
phục yếu điểm này chúng ta phải tiến hành thêm
bước thứ ba.
Bước thứ ba là
theo dõi các đối tượng trong một thời gian 20
năm theo định kì. Cứ mỗi 2 năm, họ sẽ được tái
khám, lấy mẫu máu và nước tiểu. Tất cả các bệnh
tật phát sinh trong thời gian đó đều phải thu
thập và phân tích. Một trong những yếu tố quan
trọng để phân tích mối liên hệ giữa độc chất và
bệnh tật là đo nồng độ dioxin trong máu. Có thể
chúng ta chưa có đủ tiền bạc để đo nồng độ
dioxin, nhưng tôi thiết tha đề nghị phải lấy cho
được mẫu máu của các nạn nhân và bảo quản cho
thật tốt để sau này (dù 5, 10 hay 20 năm) khi có
điều kiện tài chính chúng ta vẫn có thể xem xét
nồng độ dioxin, và mối liên hệ giữa dioxin và
bệnh tật mà chúng ta đã thu thập ngay từ đầu.
Bước thứ tư, để
giải quyết mục tiêu thứ ba (tức tác hại của
dioxin đến cấu trúc gen) tôi đề nghị chúng ta
nên chọn ra khoảng 200 người được xem là có độ
phơi nhiễm dioxin cao, và từ 200 người này,
chúng ta sẽ mời các thành viên trong gia đình
(ít nhất là 3 thế hệ : cha mẹ, con, và cháu).
Chúng ta sẽ lấy chút mẫu máu, và phân tích
khoảng 400 gen markers để xem mức độ đột biến
gen cao mức nào. Theo tôi, vấn đề di truyền rất
quan trọng, bởi vì tôi nghi rằng những nạn nhân
dioxin có thể đã qua đời (tức là chúng ta không
có cách gì biết họ có phơi nhiễm hay bệnh tật gì
hay không), nhưng dấu tích di truyền của họ có
thể lưu truyền cho đời con và cháu. Do đó,
nghiên cứu đột biến gen là một cách truy tìm quá
khứ để cho phép chúng ta phát biểu về tác hại
hiện tại của dioxin.
Về mặt tổ chức,
tôi đề nghị chúng ta cần phải có hẳn một cục
nghiên cứu, với những ủy ban đặc nhiệm như sau :
Ủy ban điều hành nghiên cứu, tức là lo tìm nguồn
tài chính, tranh thủ quần chúng (media) và các
vấn đề liên quan đến khoa học & an toàn trong
nghiên cứu ; Ủy ban phụ trách về thu thập dữ
kiện (data collection committee). Chúng ta cần
một hay 2 người trong ủy ban điều hành nằm trong
ủy ban này ; Ủy ban phụ trách về kiểm tra sự
chính xác và độ tin cậy của dữ kiện thu thập
được (data monitoring committee), ủy ban này độc
lập với ủy ban phần b ; Ủy ban phụ trách phân
tích dữ kiện (data analysis committee) độc lập
với hai ủy ban trên ; ủy ban này cũng lo phần
công bố các bài báo khoa học trên các tập san y
học thế giới.
Ngoài ra, chúng
ta phải tranh thủ hợp tác với các chuyên gia và
đồng nghiệp nước ngoài để biến chương trình
nghiên cứu thành một chương trình mang tính quốc
tế và khách quan, để những ai còn nghi ngờ không
thể nói chúng ta chỉ làm để mà chứng minh một
luận điểm đã có sẵn. Đây cũng là một vấn đề tế
nhị, bởi vì khi nói đến các nghiên cứu chất da
cam từ Việt Nam, các chuyên gia nước ngoài đều
lịch sự nói “cần phải xem xét thêm”, một cách
nói rằng họ không tin kết quả nghiên cứu từ Việt
Nam, bởi vì tất cả nghiên cứu từ Việt Nam đều
cho ra một kết quả nhất quán rất khả nghi vì
ngay cả trong môi trường thí nghiệm độ nhất quán
cũng không cao như thế!
Nghiên cứu khoa
học là một lĩnh vực có thể nói là mạo hiểm và
tốn tiền. Đối với nước ta, vấn đề tài chính có
lẽ là vấn đề lớn nhất. Chi phí đo nồng độ
dioxin cho mỗi cá nhân tốn khoảng 1000 đô-la ;
nếu chúng ta nghiên cứu trên 10.000 người thì
chi phí đo dioxin cũng lên đến con số 10 triệu
đô-la. Đó là một con số lớn. Đó là chưa kể các
khoản chi tiêu khác trong việc bảo quản máu và
công tác thu thập thông tin y khoa cá nhân. Có
thể giảm chi phí trên, nhưng nói chung chúng ta
cần ít nhất là 2 triệu đô-la để tiến hành một
chương trình nghiên cứu có giá trị.
Cũng cần phải
nhìn trước những khó khăn mang tính khoa học mà
chúng ta có thể gặp phải. Thứ nhất là vấn đề
đối tượng. Như tôi nói ở trên, có thể có nhiều
người nhiễm độc chất (những đối tượng lí tưởng
cho nghiên cứu) đã qua đời, cho nên những đối
tượng mà chúng ta nghiên cứu hiện nay chỉ là thế
hệ thứ hai hay thứ ba, và có thể mức độ liên hệ
giữa độc chất và bệnh tật không còn rõ ràng như
thế hệ đầu tiên. Chính vì thế mà tôi nói đến
con số 10.000 người để nghiên cứu. Thứ hai là
vấn đề thời gian. Một nghiên cứu có hệ thống,
có ý nghĩa khoa học cao, thì thời gian theo dõi
đối tượng phải từ 10 năm đến 20 năm. Chương
trình nghiên cứu của Ý kéo dài hơn 30 năm.
Chương trình nghiên cứu trong cựu chiến binh Mĩ
(Chiến dịch Ranch Hand) cũng đã tiến hành hơn 30
năm. Một nghiên cứu từ Việt Nam, nếu được tiến
hành ngay bây giờ, thì cũng phải chờ đến khoảng
20 năm nữa mới có kết quả để làm bằng chứng khoa
học cho nhà cầm quyền quyết định. Và đến đó thì
nhiều người cũng sẽ qua đời ! Nạn nhân ít đi
dần. Đối tượng ít đi dần.
Nhưng những khó
khăn đó không thể là hàng rào ngăn cản công
trình nghiên cứu, mà là những thách thức chúng
ta cần giải quyết một cách sáng tạo. Tôi tin là
chúng ta có thể làm được điều này. Không thể
thụ động để nói khó khăn mà không bắt tay làm.
Chỉ khi nào chúng ta tiến hành nghiên cứu thì
mới có số liệu để công bố, để làm cơ sở cho các
đàm phán và phản biện với phía các công ti hóa
chất Mĩ. Tôi tin rằng với quyết tâm của lãnh
đạo và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước,
một chương trình nghiên cứu như thế có thể đem
lại nhiều kết quả có ích không chỉ cho nạn nhân
của độc chất da cam, mà còn cống hiến nhiều tri
thức quan trọng cho thế giới y học.
GSTS Nguyễn Văn Tuấn
Tài liệu tham
khảo :
[1] Cerlesi S, Di Domenico A, Ratti S.
2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (TCDD)
persistence in the Seveso (Milan, Italy) soil.
Ecotoxicol Environ Saf. 1989 Oct ;18(2) :149-64.
[2] Bisanti L, Bonetti F, Caramaschi F, et
al.
Experiences from the accident of Seveso. Acta
Morphol Acad Sci Hung. 1980 ;28(1-2) :139-57.
[3] Mocarelli P, Needham LL, Marocchi A, et
al.
Serum concentrations of
2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin and test
results from selected residents of Seveso,
Italy. J Toxicol Environ Health. 1991 Apr ;32(4)
:357-66.
[4]
Eskenazi B, Mocarelli P, Warner M, Needham L, et
al.
Relationship of serum TCDD concentrations and
age at exposure of female residents of Seveso,
Italy. Environ Health Perspect. 2004 Jan ;112(1)
:22-7.
[5] Landi MT, Needham LL, Lucier G, et al.
Concentrations of dioxin 20 years after Seveso.
Lancet 1997 Jun 21 ;349(9068) :1811.
[6] Bertazzi PA, Consonni D, Bachetti S,
Rubagotti M, Baccarelli A, Zocchetti C, Pesatori
AC. Health effects of dioxin exposure : a
20-year mortality study. Am J Epidemiol. 2001
Jun 1 ;153(11) :1031-44.
[7] Warner M, Eskenazi B, Mocarelli P,
Gerthoux PM, Samuels S, Needham L, Patterson D,
Brambilla P. Serum dioxin concentrations and
breast cancer risk in the Seveso Women's Health
Study. Environ Health Perspect. 2002 Jul ;110(7)
:625-8.
[8] Mocarelli P, Gerthoux PM, Ferrari E, et
al.
Paternal concentrations of dioxin and sex ratio
of offspring. Lancet. 2000 May 27 ;355(9218)
:1858-63.
[9] Xem “Hóa chất khai quang trong cuộc
chiến Việt Nam : qui mô và ảnh hưởng”,
Diễn Đàn 2003.
[10] Schecter A, Dai LC, Thuy LTB, Quynh
HT, Minh DQ, Cau HD, Phiet PH, Phuong NTN,
Constable JD, Baughman R, Papke O, Ryan JJ,
Furst P, Raisanen S. Agent Orange and the
Vietnamese : the persistence of elevated dioxin
levels in human tissues. American Journal of
Public Health 1995 Apr ;85(4) :516-522.
[11] Nguyễn Văn Tuấn. Chất độc da cam,
dioxin và hệ quả. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh, 7/2004.