Những bài
cùng tác giả Lên non đón gió tìm trầm,
Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ. Ca dao Theo truyền thuyết, bà Thiên Y A Na khi rời cha
mẹ nuôi lên Bắc Hải cũng như khi đem hai đứa con Tri và Quý trốn Bắc Triều
về lại Cù Huynh, đều núp lén trong cây trầm rồi để cho dòng nước cuốn đi.
Hương trầm thơm tỏa ngào ngạt nên nơi cây trao dạt vào bờ được gọi là Hương
Sơn (thuộc tỉnh Khánh Hòa). "Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ Tĩnh), có một
địa danh tên là Trầm Hương. Người ta bảo, nơi đây, xưa kia có một rừng trầm
nằm dọc theo bờ sông Lam. Rễ cây lan man khắp đồi núi và vệ sông, tỏa mùi
thơm lên cả mặt nước, cỏ cây và bầu trời. Hương thơm đậm đặc đến nỗi những
đám mây bay qua đó cũng tẩm hương, rồi mây bay theo chiều gió dạt về mạn
dưới thành những trận mưa có vị thơm - người ta gọi là mưa hương "(8).
Người Chăm tin đấng thượng đế khi giao phó thần Pô Ino Nagar xuống khai phá
mặt đất cho phép bà đem theo lúa và trầm thể hiện oai quyền mầu nhiệm của
mình. Chùa Bảo quốc ở Huế chứa một mảnh gỗ trầm hương dài 80, phân rộng 40
phân, dày vài phân, có hình dung một con người. Tục truyến lúc trước có
người mua đem về nhà thì tai họa liên miên nên phải đem lên chùa gởi để các
vị sư luông hương đèn cúng bái, mong bài trừ được những ảnh hưởng xấu
(3).

Mảnh gỗ trấm
hương chùa Bảo Quốc (3) Cây trầm cống hương
Những huyền thoại được lưu truyền bắt nguốn từ
hương thơm của cây trầm. Cây gỗ không chìm nầy còn mang tên trầm kỳ, trà
hương, gió núi, dó bầu. Gỗ cây thường được gọi gỗ kỳ nam hay gỗ trầm hương.
Trong một cây trầm có thể có cả hai loại kỳ nam (bois d’aloès) và trầm hương
(bois d’aigle), hương thơm xen lẫn chút cay, khác nhau ở chỗ mùi vị, một bên
vừa chua vừa ngọt, bên kia hơi đắng lại có phần dịu ; thường kỳ nam quý hiếm
hơn trầm hương (5). Trong các báo khoa học, tên nôm na của cây
trầm là agarwood hay agalwood (gỗ thạch), có khi eaglewood (gỗ đại bàng).
Riêng người Nhật Bản có nhiều tên gọi : jinko, jinkok, kanakok, kanankok,
kyara hay ryoku-yu. Hai danh từ jinkok và kanakok thường được dùng để chỉ
định những loại trầm thu nhặt ở Việt Nam và xuất cảng qua Hồng Kông, rất
được chú trọng những năm gần đây (13-19). Thường kỳ hương được
xếp thành loại hắc kỳ (màu đen, hảo hạng, đắc tiền nhất), thanh kỳ hay hoàng
kỳ (màu xanh vàng) và bạch kỳ (màu trắng đục). Ngày nay, trên thế giới, nhu
cầu vượt quá xa nguồn cung cấp và thu hoạch không có phương pháp, lắm khi
bất hợp pháp ở vài nước nên Quy ước Thương mãi Quốc tế về những Loài động
vật và Thực vật Hoang dã Lâm nguy cơ CITES đã lên tiếng báo động và kêu gọi
thực thi Quy ước cùng kiểm tra thương mãi (9). . Cây trầm lớn, cao
khoảng 15-30 m, có khi lên đến 40 m, mọc ở châu Á từ Ấn Độ, Miến Điện, Trung
Quốc, Thái Lan, qua Mã lai, Cao Mên, Lào, Nam Dương. Ở Việt Nam, cây trầm
mọc nhiều ở miền Trung, từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận, đến đảo Phú Quốc (5b). Cây trầm thuộc chi
Aquilaria, họ Trầm (*) hay Trầm hương Thymeleaceae
(**). Aquilaria do tiếng La Tinh aquila (aigle, chim đại
bàng) mà ra, nên danh từ Pháp bois d’aigle hay Anh eaglewood chỉ định những
loại gỗ khối nhựa, màu nâu, có khi mang đường rạch vằn hay vết lốm đốm như
lông chim (2). Aquilaria gồm có nhiều loài : A.
agallocha Roxb., A. baillonnii Pierre ex Lam., A . banaensis
Pham Hoang Ho, A. crassna Pierre ex Lecomte (tiếng Campuchia chỉ
trầm là krasna hay chan krasna), A. malaccensis Benth, A. sinensis
(Lour.) Gilg. hay Spreng (7), vừa rồi mới có tìm ra
A. rugosa ở Việt Nam, lắm khi khó phân biệt. Trong các loài thuộc
Aquilaria thì A. crassna, A. malaccensis và A. sinensis có
tiếng cống hiến nhiều kỳ nam hay trầm hương, nhưng được khảo cứu nhiều nhất
là A. agallocha và chẳng thấy dấu vết A. crassna trong tập
Chemical Abstracts. Trái lại, ở Việt Nam thấy có nghiên cứu chọn giống
cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) A. crassma 20
năm tuổi trên vùng đảo Phú Quốc (10). Ngoài ra cũng thấy
có khai thác các cây Aloexylon agallochum Lour., Excoecaria
agallocha Linn. (*)

Aquilaria crassna và
A. baillonii (**)

Aquilaria crassna Gỗ cây trầm rất quý nên lúc xưa được các thổ
dân miền sơn cước dùng làm lễ vật đưa về cống nộp cho vua chúa. Cách đây hơn
250 năm, nhận được biểu của Mạc Thiên Tứ, trấn thủ Hà Tiên, báo cáo về việc
tế lễ, để tỏ lòng đặc biệt ưu ái với vị trọng thần biên trấn, chúa Đỉnh Quốc
Công Nguyễn Phúc Thụ đã ban cho hai thanh gỗ trầm hương. "Hai thanh cống
hương đen như huyền, bản rộng hơn tấc, cao những hàng xích. Một thanh dựng ở
giữa tế đàn Sơn xuyên, một thanh dựng ở giữa tế đàn Xã tắc. Khói đốt bốc
thẳng đứng, như hai cây cột khói thơm dựng ở giữa trời. Hương trầm tỏa ngan
ngát giữa đêm thanh, trăng sao lồng lộng ; dân cư tận xa vòng ngoài Trúc
bằng thanh, còn nghe thấy mùi thơm trộn trong gió chướng rao rao" (4). Nguyên gốc của kỳ nam hay trầm hương, tuy đã
được nghiên cứu nhưng chưa thấy giải thích tường tận. Từ xưa nhiều giả
thuyết đã được đưa ra, chẳng hạn như kiến sống trên cây chế mật rơi lên gỗ,
lâu ngày thấm vào thành hương thơm (5a). Cũng cùng ý ấy, một giả
thuyết khác cho những cây có tổ kiến hay tổ mối dưới chân thì đào tận rễ dễ
tìm ra (5). Có người lại tin phân chim ở kẽ cành biến chất cũng
có thể tạo thành trầm (*). Thật ra nhìn từ bên ngoài rất khó xác
định một cây có trầm. Ngày nay, người ta nhận thấy kỳ nam hay trầm hương là
một khối nhựa do cây tiết ra để tự băng bó, bảo vệ chống vi trùng , thời
tiết khi có vết thương. Biết vậy, những người tìm trầm khi kiếm ra cây có
khả năng cống hiến trầm thì cố ý vạch cắt cây gây vết thương rồi đợi khối
nhựa cấu thành, có khi nhiều tháng, nhiều năm. Cơ chế cấu tạo khối nhựa có
thể là một hiện tượng thoái hóa vi khuẩn, nhưng thực chất hơn là do nấm gây
ra. Người ta đã tìm ra được những loại nấm Mycelia, Menanotus
flavolines (16), Epicoccum granulatum (6)
nhiễm gỗ cây trầm. Nấm Mycelia còn có một đặc điểm nữa là cho phát
hiện trong mảnh trầm cắt những oleoresin trước không có trong cây. Ngoài ra,
loại nấm bậc cao nâu sẫm Cytosphaera mangiferae Died. trích chiết từ
gỗ cây A. agallocha đang biến chất thành trầm, cho nhiễm vào những
mảnh gỗ Aquilaria thì chế biến ra gỗ có hương thơm mùi trầm. Thí
nghiệm không thành nếu dùng những mảnh gỗ các cây Syzyum hay
Amoora mọc cạnh các cây Aquilaria kia trong những khu rừng Sylhet
ở Bangladesh hay dùng các nấm Penicillum sp., Aspergillus sp., Fusarium
sp. cũng được trích chiết từ các cây A. agallocha đã bị nhiễm.
Theo tác giả công trình khảo cứu nầy thì côn trùng đã đem nấm vào các lỗ
nứt, kẽ nẻ của vỏ cây (6). Từ A. agallocha cũng đã chiết
xuất một loại nấm Paecilomyces varioti đặc biệt có khả năng xúc tác
những phản ứng khử, kết vòng, kết hydroxy… biến hóa citronellal ra
isopulegol, menthon ra menthol, cinnamaldehyd ra cinnamid acid,… (26).
Hương thơm cây trầm
Hương thơm trong cây trầm là do các phân tử
chromon và sesquiterpen mà ra. Những chromon có thể là agarotetrol hay
isoagarotetrol chứa nhiều nhóm hydroxy. Hai chất nầy có trong những cây trầm
Tân Gia Ba và Việt Nam theo tỷ lê 2 :1 (14). Những chromon khác
phần lớn là những dẫn xuất của ethyl phenyl chromon tìm ra trong A.
agallocha và A. sinensis : hydroxy, dihydroxy, methoxy,
dimethoxy, tetrahydroxy, tetrahydroxy tetrahydro; của ethyl phenyl
pentahydroxy chromon ; của ethyl phenyl methoxy chromon : methoxy,
dimethoxy ; của ethyl phenyl tetrahydro chromon ; của ethyl phenyl
pentahydro chromon. Người ta cũng đã tìm ra được những ethyl biphenyl
chromon và ethyl triphenyl chromon. Một công trình khảo cứu về tương quan
giữa chất lượng và thành phần trầm bán ở Hồng Kông với agarotetrol và
isoagarotetrol qua một loạt đo các làn sóng 270-400 nm cho thấy một số hoá
chất khác ngoài chromon. Những sesquiterpen phần lớn tìm ra trong A.
agallocha, cũng có một số tài liệu khảo cứu trên A. malaccensis
và A. sinensis. Những phân tử được các nhà khảo cứu Ấn Độ chiết xuất
trước tiên từ tinh dầu trầm là agarol bên cạnh gmelofuran và những
agarofuran : dihydro, hydroxy dihydro, norketo hay epieudesmol là agarofuran
mở vòng, đồng thời với agarospirol và oxoagarospirol. Cũng cùng loại
selimanic furanoid nầy, những jinkohol đã được tìm ra cạnh jinkoh-ceremol. Với công thức tương tự, các tác giả Trung Quốc
đã chiết xuất những baimuxinol, dihydro baimuxinol, isobaimuxinol,
baimixinal, baimuxinic acid, baimuxifuranic acid, sinanofuranol từ A.
sinensis bên cạnh những hóa chất tương đối thông thường như benzyl
aceton, methoxy benzyl aceton, anisic, palmitic, octadecenoic,
dienoctadecanoic acid trong tổ chức gỗ. Ba chất sau nầy thay đổi thành phần
khi gỗ bị nhiễm nấm Menanotus flavolines, đồng thời cũng xuất hiện
oxoagarospirol. Bước qua sườn guain thì một loạt bảy sesquiterpen được xác
định trong trầm Việt Nam mà quan trọng nhất là guaiadienal đã góp phần lớn
trong mùi hương thanh nhã. Tinh dầu trầm Việt Nam, theo các nhà khảo cứu
Nhật Bản, thì ngoài guaiadienal, còn chứa selinadienol, selinadienon bên
cạnh guaiene, bulnesen, agarofuran, kusunol, karanon, dihydro karanon,
oxoagarospirol cùng các ethyl phenyl chromon đã thấy ở trên (15),
năm eudesman sesquiterpen cùng epoxy norketo guaien, dehydro jinkoh-eremol
và neopetasan (19). Các tác giả nầy cho jinkoh có thể là A.
sinensis, còn kanankoh tức A. agallocha thì có hai loại : một
loại giàu guaien và eudesman đã oxi hóa, loại kia có oxoagarospirol là thành
phần sesquiterpen chính (17). Trước đó, một nhóm khảo cứu viên
Nhật Bản khác đã so sánh tinh dầu hai loại trầm Việt Nam (loại A : A.
agallocha) và Nam Dương (loại B : có thể là A. malaccensis) thì
thấy thành phần và tỷ lệ rất khác nhau (13). Tinh dầu % loại A :
agarofuran (0,6), norketo agarofuran (0,6), agarospirol (4,7), jinkoh-eremol
(4,0), kusunol (2,9), dihydro karanon (2,4), oxoagarospirol (5,8) ; loại B :
agarofuran (1,3), epieudesmol (6,2), agarospirol (7,2), jinkohol (5,2),
jinkoh-eremol (3,7), kusunol (3,4), jinkohol II (5,6), oxoagarospirol (3,1). Ngoài hai loại chromon và sesquiterpen vừa
thấy, một vài hóa chất khác cũng đã được tìm ra : liriodenin, aquillochin
trong thân cây A. agallocha, dibehenyl ferulyl glycerid (0,55%),
decatrienyl phorbol acetat trong vỏ cây A. malaccensis. Trong hai
chất sau nầy, chất thứ nhất có một liều gây chết LD50 0,8
microg/ml chống hệ thống P-388 chứng bạch cầu lympho bào in vitro
nhưng vô hiệu in vivo, liều gây chết LD50 của chất kia là
0,0022 microg/ml in vitro. Đây là lần đầu tiên những chất nầy được
xác định có một hoạt động gây hại tế bào in vitro (11). Về
mặt duợc liệu, tinh dầu chiết xuất từ A. agallocha có một hoạt động
nhỏ trợ tim. Gần đây nhờ có tính chất gia tốc sự cấu tạo collagen, nó được
dùng làm thuốc làm dẻo da, ngừa da nhăn, chữa chấn thương (24),
nhờ tính chất chống melanin cấu tạo nên được dùng làm thuốc bảo vệ da chống
nhiễm sắc tố, vết hoe (25); nó cũng được dùng trong một liều
thuốc gồm có hổ phách, mộc hương, đinh hương, đàn hương, hương phụ,… để làm
thuốc chống co giật đồng thời gây ngủ (27). Bên phần A.
sinensis thì tinh dầu có hoạt động khử những vi khuẩn gam âm và gam
dương (28), hợp với nhiều chất khác để làm thuốc chống béo
(23), chữa gan (22). Thật ra, từ xưa ở nước ta, kỳ nam và
trầm hương đã được dùng làm thuốc giải nhiệt, chống đái, chữa đau bụng, đau
ngực, ỉa chảy, nôn mửa, khí thủng, trị sốt rét, suyển kinh niên (5a)
, bí tiểu tiện, bổ dạ dày nhờ có vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh tỳ, vị và
thận, có tác dụng giáng khí nạp thận hình can tráng nguyên dương. Người ta
dùng chúng dưới dạng bột hay ngâm rượu, ít khi sắc, thường chỉ mài với nước
mà uống. Để chữa nôn mửa, đau bụng, dạ dày, đơn thuốc gồm có trầm hương,
nhục quế, bạch đậu khấu, hoàng liên, đinh hương, tán nhỏ dùng nước nóng
chiêu thuốc, ngày uống ba, bốn lần (*). Ngậm ngải tìm trầm
Tuy vậy, công dụng chính của trầm là hương
thơm. Cả hai loại hóa chất chromon và sesquitepen đều có mùi thơm đặc biệt,
khi đốt nóng mới tỏa ra cùng các chất dễ bốc hơi khác, đặc biệt là những
sesquiterpen carboxylic acid. Một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản đã thử phân
biệt hương thơm của một số sesquiterpen. Họ nhận thấy có khi chỉ vì vị trí
của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi
hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất
kia phảng phất hương bạc hà. Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan,
dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các
nhóm methyl thì có chất thơm mùi gỗ ngọt, có chất nặng mùi khói, có chất lại
phảng phất mùi chua và nhựa thông (19). Mặt khác, những chức
trong phân tử cũng đóng một vai trò : nếu là selinadienon có mùi dịu như hoa
tươi, selinadienol lại thơm mùi gỗ ngọt, trong khi guaiadienal tỏa mùi gỗ
giống mùi của damacenon thêm vào chút long não (15). Các tác giả
nầy cũng có khảo sát khói của hai loại trầm Việt Nam (kamakoh và jinkoh) :
một loại đầy benzaldehyd, acetic acid, vanillin, loại kia chứa toàn hoá chất
hữu cơ vòng thơm nên khi đem đốt mùi hương rất khác nhau (18).
Thơm như vậy nên dùng gỗ cây trầm làm nhang là chuyện dĩ nhiên. Một văn bằng
sáng chế Nhật Bản cho trộn với bột tabu và nước để làm nhang (12).
Để làm tăng hương thơm của tinh dầu trầm, nhất ra để tạo ra một mùi hương
đặc biệt, quyến dũ, người ta cũng đã cho trộn với tinh dầu dạ hương (lấy từ
túi thơm của con cầy hương). Ngoài ra, cây trầm còn có những ứng dụng khác.
Gần đây, một văn bằng Trung Quốc dùng cây A. agallocha trong một hỗn
hợp gồm có nhân sâm, ngải cứu, bạc hà, kinh giới, hoắc hương, ma hoàng để
làm thuốc hút không có thuốc lá và rao là không độc cho cơ thể (20).
Nó cũng được dùng trong một văn bằng để khử những mùi ammoniac,
trimethylamin, methylmercaptan (21). Nhờ không bị sâu mọt phá
hoại và chịu đựng thời tiết, gỗ cây trầm được sử dụng trong ngành chạm trổ.
Sau cùng cũng nên biết bên Ấn Độ, gỗ cây trầm đã được dùng làm giấy viết và
giấy in có chất lượng. Cây trầm rất hiếm quý nên giá bán rất đắt. Có
một dạo, người ta đổ xô đi tìm trầm, phải lặn lội nhiều tháng trong rừng mới
hầu mong bắt gặp. Có khi họ xây lều ngay cạnh để canh giữ. Người xưa bảo đi
tìm trầm phải trong sạch về mặt tinh thần cũng như thể xác, suy tư đứng đắn,
ăn nói đàng hoàng, kiêng cử đàn bà, rượu chè cờ bạc. Nếu đi thành toán thì
không được chuyện trò ồn ào, cãi nhau ầm ỉ. Để tránh thú dữ, beo cọp, họ cầm
roi dâu, vừa đi vừa quất lên cành lá bên đường. Để chống yêu quái, ma quỷ,
họ ngậm ngải để làm bùa hộ thân. "Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ
củ do người Mọi Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong vò
mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Đoạn phải đặt trong
tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết
trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn.
Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Đoạn phải bẫy cho được con
hổ ấy, rối giết và lấy ngải ra. Ngải là một cái bùa thiêng lúc ấy có sức
mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn uống cũng sống được.
Và thú dữ đi sát bên cạnh cũng không thấy mình đuợc. Nhưng hạn trong ba
tháng mươi ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc
lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật… " (1). Một điều đáng ngạc nhiên là một cây hiếm quý
như vậy, đã được sử dụng trong nhiều nước, chưa từng nghe đến một trại nuôi
trồng. Đến nay chỉ thấy khai thác cây trầm mọc hoang, một ngày kia ắt sẽ
tiệt giống như CITES đã lên tiếng kêu cứu. Đứng về mặt sản phẩm hương mùi,
sợ e rồi trầm hương dần dần sẽ nhường chỗ cho các hóa chất nhân tạo tổng hợp
như đã bắt đầu thấy.
Thông tin Khoa học
và Công nghệ 4 (22) (1998) 94-101 có bổ túc
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tái bản lần thứ
5 (1986) 449
(**) Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du
Laos et du Vietnam, Thymélaeacées, Muséum d’Histoire
Naturelle, Paris 26 (1962) 46-49
Tham khảo
1- Thanh Tịnh,Ngậm ngải tìm
trầm trong Quê mẹ, nxb Văn học , Hà Nội tái bản (1983) 64 ; in
lần đầu 1943.
2-A. Pételot, Plantes médicinales du
Cambodge, du Laos et du Vietnam, Archives des Recherches Agronomiques
et Pastorales du Vietnam, Saigon III (1954) 65-99
3- L. Cadière, Croyances et pratiques
religieuses au Vietnam, EFEO Sài Gòn II (1955) 12
4- Mộng Tuyết thất tiểu muội, Nàng Ái Cơ
trong chậu úp, nxb Văn hóa, Hà Tiên-Kiên Giang, tái bán (1996)
27 ; in lần đầu 1960
5- F. Mouton, Le bois merveilleux du Sud,
Imp. Emmanuel Vitte, ,Lyon (1970) 37-9, 44-5
dẫn 4a- Nguyễn Văn Minh, Dược tính chỉ
nam, Sài Gòn, kỳ nam (1964) 102 ; trầm hương (1969) 1481 ; 4b- H.
Lecomte, Sur les graines de Thymeleaceae, Bull. Soc. Bot.
France
(1914) 410
6- M. Jalaluddin, Useful
pathological condition of wood, Econ. Bot. 31 (1977) 222-4
7- Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du
Laos et du Vietnam, Thyméleacées, Muséum national d’Histoire
Naturelle,Paris 26 (1992) 46-9
8- Võ Văn Trực, Hương trầm trong
Những ngày hội dân dã, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội (1997) 111-2
9- Chu Hữu Tín, Cây trầm kỳ nam,
Mua bán trầm hương và kiểm tra mua bán trầm hương, khoahoc.net
21.04.2005, 16.06.2005
10- Thái Thành Lượm, Nghiên cứu chọn
giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) Aquilaria
crassma Pierre 20 năm tuổi trên vùng đạo Phú Quốc Việt Nam,
khoahoc.net 06.09.2007
11- S.P. Guanasekera, A.D.
Kinghorn, G.A. Cordell, N.R. Farnsworth, Plant anticancer agents.
XIX. Constituents of Aquilaria
malaccensis, J. Nat.
Prod.
(5) 44 (1981) 569-72
12- K.K. Yamamoto, Incense
containing chromone derivatives isolated from Aquilaria agallocha,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 59, 106,414 (1984) 10 tr.
13- K. Yoneda, E. Yamagata, T.
Nakanishi, T. Nagashima, I. Kawasaki, T. Yoshida, H. Mori, I. Miura,
Sesquiterpene constituents in agawood. Part 4. Sesquiterpenoids in two
different kinds of agarwood, Phytochem. (9) 23 (1984)
2068-9
14- T. Konishi, Y. Okutani, K.
Iwagoe, S. Kiyosawa, Y. Shimada, Studies on the algalwood "Jinko". IX.
Quantitive analysis of 2-(2-phenylenthyl) chromone derivatives (supplement),
Shoyakugaku Zasshi (1) 43 (1989) 1-6
15- M. Ishihara, T. Tsuneya, M.
S higa, K. Uneyama, Three sesquiterpenes from agarwood, Phytochem.
(2) 30 (1991) 563-6
16- S. Qi, B. Lu, L. Zhu, B.
Li, Formation of oxo-agarospirol in Aquilaria sinensis, Zhiwu
Shenlixue Tongxun (5) 28 (1992) 336-9
17- M. Ishihara, T. Tsuneya, K.
Uneyama, Components of the volatile concentrate of agarwood, J.
Essent. Oil Res.(3) 5 (1993) 283-9
18- M. Ishihara, T. Tsuneya, K.
Uneyama, Components of the agarwood smoke on heating, J. Essent.
Oil Res.(4) 5 (1993) 419-23
19- M. Ishihara, T. Tsuneya, K.
Uneyama, Sesquiterpenes constituents of agarwood. 4. Fragrant
sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (5) 33 (1993)
1147-55
20- J. Liu, Non-toxic
tobaccoless cigaret, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1,111,965 (1995) 4 tr.
21- T. Shimamura, T. Yamada,
Deodorants containing aloe components for indoor air treatment, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 09099045 (1997) 5 tr.
22- Z. Guo, Plaster for
treating liver disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 96,1170585 (1998) 4 tr.
23- P. Yan, Antiobesity
essence compositions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1171236 (1998) 5 tr.
24- M.H. Jin, S.Y. Kim, H.J.
Kim, M.Y. Chagn, S.H. Kang, Skin composition containing collagen
synthesis facilitator, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo
KR 2000018467 (2000)
25- Y. Ochiai, A. Ogawa,
Skin-lightening cosmetics containing tyrosinase inhibitors, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2001316241 (2001) 12 tr.
26- M.A. Deodhar, N.H. Pipalia,
S.M. Karmarkar, Biotransformation of terpenoids : reductive ability of
Paecilomyces varioti, J. Med. Arom. Plant Sci. (1) 24
(2002) 1-5
27- B.S. Koo, D.U. Lee, Y.H.
Shin, Treatment and prevention of insomnia and seizure containing perfume
components of herbal material, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo
KR 2003071213 (2003)
28- J.F. Hu, K. Kuhen, D.
Hafenbradl, J. Li, T .
Chen, J. Harris, N. Gray, P.G. Schultz, Twenty high-grade traditional
Chinese medicines : their anti-Hiv, antibacterial, and anticancer biological
screening, Abst.Pap.229th ACS Nat.Meet.San Diego,CA USA March
13-17 (2005) MEDI-397
© http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Võ Quang Yến |