Sam là một động vật sống cách đây 500 triệu năm, trong rất lâu
chỉ được biết dưới hình thức hóa thạch, phải đợi đến đầu thế kỷ 17 mới bắt gặp
dưới biển. Sự tích cây ginkgo cũng ly kỳ không kém : vết ấn lá cây đã được tìm
ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ thứ hai, nghĩa là trước cả những khủng
long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có nhiều loài
ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa chất,
tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột cây,
chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm) : Ginkgo adiantoides và
Ginkgo gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm,
ginkgo không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất
tích nó. Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy
khác là cây hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những
quả xem như là cổ nhất, làm dây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng
vạn loài cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã
được tìm ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy
núi miền trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã
được dùng làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh
nhưng phải đợị đến 1578 mới được Lý Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản
thảo cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho
một người khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi
sĩ thì đua nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều
đại Tống (960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu,
những nơi có nhiều Phật tử và đồ đệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo
giáo. Bên Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và
được biết qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau,
dùng nó trong giấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống
lâu đời, không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt
sau quả bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần
thoại, hoang đường.
Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người
Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi
đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông có
dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm 1712. Ông
viết : "Cây đạt kích thước một cây hồ đào : thân dài, thẳng, dày, nhiều nhánh ;
vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già ; gỗ cây nhẹ, ít dày đặc,
ít bền ; lõi mềm, xốp… Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa đuôi sóc chứa đầy
một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuống dài bằng ngón tay cái mắc vào
cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích thước, vỏ ngoài sần
sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas : vỏ thịt, giàu, trắng, mùi
vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để úng thối và khuấy trong
nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là ginnau, giống như quả đào
lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh
dẻ ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn
điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng trướng do thức ăn gây
ra : vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bữa ăn. Những quả hạnh
được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng
chúng…." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn
bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp
(Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton
và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông.

Cây ginkgo ở vườn Luxembourg tại Paris
Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing, ta
phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc (abricot d'argent). Người Nhật phiên âm
gin
kyo : có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông miền
bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ nên
xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng sử
dụng nhiều danh từ khác : gingko, ginko, ginkgo, gingo hay
ginkyo. Người Tàu
còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy
mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá cây
(đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda
sinensis Lem.). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl
von Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ
loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia
adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson 1866)
được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng.
Một tác giả Loudon kể chuyện năm
1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu
bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh) ; hôm sau, người
làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền ; ông Pétigny
không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40 êcu
(tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu" (arbre aux quarante écus) . Tên nầy nay rất được
thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt trước cây.
Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì khi lá vàng rụng
xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính chất giữa những
cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng nó. Lúc đầu, người
ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ, nhưng sau thấy cần
phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta.
Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ
Ginkgoaceae, bộ Ginkgoales.

Hoa cây
cái mùa xuân

Hoa cây đực mùa
xuân
Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn
hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy
cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo
là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa trong
trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy phấn
hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái dài 1-2
cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang
(microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái bì
bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử
(macrospore).
Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây
cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào
buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân
chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây
ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên
dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát
triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục
ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một bì
chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong
cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp
ngoài nầy trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi
thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên cơ
thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da. Vì
những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải dùng
găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi dùng. Bì
nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị tiêu hủy
và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài.


Ngoài hạt, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp giâm
cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây theo
giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây cái để
cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến mùa
cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách nhau
rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền với
nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực
mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy
nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao 30-40
m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng già.
Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc thân cây
và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ cây, người
ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi mạch
(trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể (druse)
mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ cây. Đây
là những đặc tính khác của cây ginkgo.
Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người ta
có thể luộc, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo. Chỉ
chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn nhiều
hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự ngộ
độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên
ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm
món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luột, hấp với trứng trong món chawan
mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo,
Pakgor,...
Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho
trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để
nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo
vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da
(28), thuốc
rửa tóc, kích thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát
trùng hay làm phân bón.
Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp
mùa thu, lá tự nó là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã ; hơn nữa
nhờ tính chất diệt trùng, một phần nào nó bảo vệ sách ! Có lẽ bên Nhật hình dáng
lá cây được thấy nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên
bia mộ, huy hiệu các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố Tokyo từ
năm 1989. Nó được dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ
sumo. Trong các viện bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba
bằng kim loại hình lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư
trên ngực các cô, các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm
trổ, chế tạo bàn và con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa
miếu, thùng vận dụng rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái
trong kỹ nghệ làm giấy.

Trái và lá mùa thu
Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây ginkgo.
Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới, giúp
tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại sức
trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang qui tăng cường năng lực tính phái. Nó là
thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, iả chảy,
nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin
nấu chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung
thư, độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có
tính chất ức chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay
nhỏ đem sắc uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc
bai guo ye được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản,
những chứng thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết
áp, bệnh lậu, bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được
đem xông chữa tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được
dùng làm thuốc cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động
mạch ngoại biên gây ra tật đi khập khiễng cách quảng (claudication
intermittente)(1,29). Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó
có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt
nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần
hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và làm chậm sự lão hóa võng mạc
(10). Tác động lên sự lão suy của não, kích thích sự tổng hợp
dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực nhận thức
(22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái hóa
(7)
tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp ích cho
những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng tình dục
(27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ mãn
kinh (17,33).
Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên
muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá,
tưởng có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những
phần chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để
kìm hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn
loạn có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ
kiêm nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành
phần của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho
sản xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó,
hãng Beaufour ở Pháp và nhiều hảng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn
với nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những
tên Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị được ghi nhiều nhất
trong các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24%
glucoflavonoid (quercetin, kaempferol, isohamnetin,…)
(32) và 5-7% terpenolacton (những
ginkgolid, bilobalid) (14,30). Flavonoid là
những chất chống oxy hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid
là những chất ức chế sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B
(16) trong toa thuốc BN-52021 (9). Được Furakawa chiết xuất năm
1932, phải đợi đến 1966 mới thấy Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid
được Corey ở Viện Đại học Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để
nghiên cứu các tính chất chống sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai
năm sau đuợc thưởng giải Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có
kê khai một bảng những hoạt chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa
Kỳ in.
Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy hóa
(19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị
liệu chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên
nền tảng cơ chế bệnh lý gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh
(6),
những biến chứng sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí
giác, vận động, trí nhớ, ngôn ngữ (22), những chứng ù tai, chóng mặt
(2). Phần chiết với ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt
động tiết acetylcholin phụ thuộc cơ chế chứng Alzheimer (5), bảo vệ
màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và tổn thương sau chứng tăng thân
nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì có tác dụng chống đầu độc
tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng chống bệnh thiếu máu cục
bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc, phần chiết chứa
đựng isoginkgetin thi giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút, đồng thời làm
tăng mùi hương (23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá (34).
Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng
chống viêm (13), giảm nhẹ bất an tâm thần
(8,34), ngăn
cản, kềm hãm, giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24).
Trái cây ginkgo được dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid
huyết, bệnh đái đường (36). Một văn bằng Nhật Bản đề nghị một thức
uống hạ huyềt áp, điều hòa máu, tăng miễn dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim,
mạch não (35), bổ sức gồm có ginkgo và nga truật Curcuma zedoaria
(21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo. Năm 1997, số tiền bán
phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá nầy được sản xuất trong
một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở South-Caroline (Hoa Kỳ) của một
công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật
Bản, Hàn Quốc và gần đây Trung Quốc đều có trồng ginkgo. Năm 1990, một đồn điền
ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến 3000 ha. Khí hậu hai nơi gần
giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người Tàu, đem qua máy móc gặt
hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay : những cây trồng nầy không cao quá con
người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại.
Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng
trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân :
Ông
Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở Phân khoa Khoa học, Viện Đại
học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu
thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính
hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật
(archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động :
ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội
Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898) : ở
Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì
giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học,
với những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông
được tặng thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của
ông được chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học,
thành công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó
ông từ chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành
giáo sư ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng
có bài nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù
sao đã để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho
cả một thế hệ thanh niên Nhật Bản.
Nghiên cứu và Phát
triển 3(62) (2007) 61-69
Tham khảo
www.xs4all.nl/~kwanten,
www.passeportsante.net/fr,
www.biologie.uni-hamburg.de/b-online
1- H. Letzel, W.
Schoop, Gingko biloba extract EGB761 and pentoxifylline in intermittent
claudication. Secondary analysis of the clinical effectiveness, VASA
(4) 21 (1992) 403-10
2- C.B. Cano, A.J.
Marco, B. Perez del Valle, P.F.J. Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on
cocheleovestibulary pathology of vascular origin,
A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos (6) 22 (1995)
619-29
3- M. Rosler, W. Retz,
J. Thome, P. Riederer, Free radicals in Alzheimer’s dementia : currently
available therapeutic strategies, J. Neu. Trans. Supp. 54
(1998) 211-9
4- A. Onen, E. Deveci,
S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological assessement of the
prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal ischemia-reperfusion
injury, Acta Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999) 386-9
5- E.K. Perry, A.T.
Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton, N.S.L. Perry, Medicinal plants and
Alzheimer’s disease : from ethnobotany to phytotherapy, J. Pharmacy and
Pharmacology (5) 51 (1999) 527-34
6- S. Kieszek,
Trials and perspectives in pharmacotherapy of Alzheimer’s disease,
Psychiatria Polska (3) 33 (1999) 331-40
7- A. Gajewski, S.A.
Hensch, Ginkgo biloba and memory for a maze, Psychological Rep.
(2) 84 (1999) 481-4
8- D. Pratico, N.
Delanty, Oxidative injury in diseases of the central nervous system : focus
on Alzheimer’s disease, Amer. J. Med. (7) 109 (2000) 577-85
9- J. Westman, K.
Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat
shock protein (HSP 72 kD) response, edema and cell changes following
hyperthermic brain injury. An experimental study using immunohistochemistry in
the rat, Amino acids (1) 19 (2000) 339-50
10- C.P. Juarez, J.C.
Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli, J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna,
Experimental retinopathy of prematury : angiostatic inhibition by nimodipine,
Ginkgo biloba, and dipyridamole, and response to different growth factors,
Eur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000) 51-9
11- M.S. Kobayashi, D.
Han, L. Packer, Antioxidants and herbal extracts protect HT-4 neuronal cells
against glutamate-induced cytotoxicity, Free Rad. Res. (2) 32
(2000) 115-24
12- H.
Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of therapy of Alzheimer’s
disease, Psychiatria Polska, (4) 34 (2000) 623-40
13- A. Wong, S.
Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R. Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer,
G. Munch, Anti-inflammatory antioxidants attenuate the expression of
inducible nitric oxide synthase mediated by advanced glycation endproducts in
murine microglia, Eur. J. Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7
14- K. Nakanishi, K.
Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis of gingolide probes for neuromodulatory
studies, Abs. Papers 223rd ACS Nat. Meet. Orlando, FL, US
7-11(2002)
15- J.H. Gertsch, T.B.
Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo biloba for the prevention of severe acute
mountain sickness (AMS) starting one day before rapid ascent, High Alt.
Med. Biol. (1) 3 (2002) 29-37
16- F. Drago, M.L.
Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks and bioavailability of a
Ginkgo biloba extract, J. Ocular Pharmacological Therapeutics (2)
18 (2002) 197-202
17- H. Xu, D.S.
Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M. Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R.
Farnsworth, A.I. Constantinou, A preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga
species and other botanicals used for women’health, Phytomedicine
(8) 9 (2002) 757-62
18- B.J. Tesch,
Herbs commonly used by women : an evidence-based review, Amer. J.
Obstetrics and Gynecology 188 (5 Suppl) (2003) S44-55
19- O. Lopez, D.
Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F. Bricaire, Could antioxidant
supplementation reduce antiretroviral therapy-induced chronic stable
hyperlactatemia ? , Biomedicine and Pharmacotherapy (3) 57
(2003) 113-6
20- M.M. Cals Grierson,
A. Ormerod, Use with extracts vegetaux to improve the function barrier of the
skin, Fr. Demande FR 2831443 (2003)
21- S. Toyota,
Health beverage preparation from Curcuma rhizome juice, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr.
22- T. Morimasa,
Gingko biloba extracts for treatment of complications after brain infarction,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003095966 (2003) 7 tr.
23- C.W. Cho, C.Y.
Jung, A filtering material for cigarettes composed of ginkgo leaves starch,
spices, and a zeolite, PCT Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr.
24- M.F. Beal, R.J.
Ferrante, J. Ribert, Use of gingko biloba extracts to promote neuroprotection
and reduce weight loss, PCT Int. Appl. WO 0347511 (2003)
25- K.H. Lee, S.I. Han,
G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation of the herbal extract or the effects of
hair-regrowth compared to 3% minoxidil ; elongation of anagen period on C3H mice,
Yakhak Hoechi (1) 47 (2003) 14-9
26- B. Schmitt, T.
Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L. Froelich, Combination therapy in
Alzheimer’s disease : a rewiev of current evidence, CNS Drugs (13)
18 (2004) 827-44
27. D. Wheatley,
Triple-blind, placebo-controlled trial of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d
ue to antidepressant drugs, Hum. Psychopharmacology (8) 19
(2004) 545-8
28- E. Boelsma,
R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van Nesselrooij, L. Roza, Evidence
of the regulatory effect of Ginkgo biloba extract on skin blood flow and study
of its effects on urinary metabolites in healthy humans, Planta Med.(11)
70 (2004) 1052-7
29. M.H. Pittler, E.
Ernst, Complementary therapies for peripheral arterial disease : systematic
review, Atherosclerosis (1) 181 (2005) 1-7
30- K. Nakanishi,
Terpene trilactones from Gingko biloba : from ancient times tothe 21 st century,
Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005) 4987-5000
31- J. Liang,
Cigarette-like product containing leaves of Gingko biloba, Lycium chinense and
Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1559313 (2005) 8 tr.
32- G. Kostalova, D.
Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth,
M. Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced
drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor
(Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23
33 S. Elsabagh, D.E.
Hartley, S.E. File, Limited cognitive benefits in stage+2 postmenopausal
women after 6 weeks of treatment with Ginkgo biloba, J.
Psychophamacology. (2) 19 (2005) 173-81
34- M. Atmaca, E.
Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O. Kirtas, The effect of extract of Ginkgo
biloba addition to olanzapine on therapeutic effect and and antioxidant enzyme
levels in patients with schizophrenia, Psychiatry and Clinical
Neurosciences (6) 59 (2005) 652-6
35- X. Zhao, Vinegar
manufactured from Gingko biloba and Fagopyrum tataricum, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1721521 (2006) 5 tr.
36- L. Weng, Method
for producing pure Gingko biloba beverage, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1803032 (2006) 4 tr.
©