Những bài cùng tác giả
Quân vương tuyệt tận ở Giang Đông
Tiện thiếp làm sao nhập Hán phòng.
Máu xanh hóa có bên sông lạnh,
Như đóa đỗ quyên nở cánh hồng.
Ngu Mỹ Nhân - Hứa Thị, Văn Phạm dịch
Rhododendron indicum
(ảnh Võ Quang Yến)
"… Thuở ấy, có hai vợ chồng trẻ sống dưới động Truồi. Họ rất yêu nhau. Thế
rồi tự nhiên chàng trai trở bệnh, thuốc thang không khỏi mà ngày càng nặng
thêm. Có người mách bảo lên động Bạch Mã tìm loại cây thuốc giống như cây
kim giao toàn thân màu trắng, uống vào sẽ cải tử hoàn sinh. Người vợ đã lên
đường tìm linh dược cho chồng nhưng qua mấy ngày lặn lội trong rừng, cô
chẳng tìm ra thuốc. Đói lạnh làm cô kiệt sức, cô ngã xuống bên một dòng
suối, đầu va vào tảng đá. Máu cô hòa vào dòng suối, chảy đến đâu liền xuất
hiện đến đó một loài cây cỏ thân gầy guộc, có màu hoa đỏ như máu gọi là đỗ
quyên… Loại hoa nầy chỉ sống trọn vẹn trong mùa xuân, vươn mình lên kẽ đá và
soi mình đỏ rực xuống dòng suối…" (1)
Thật ra, hoa đỗ quyên Rhododendron, còn có tên đỗ quyên ấn, hồng thụ
ấn (*), thạch nam (**), thuộc họ cùng tên Đỗ quyên Ericaceae, ngày
nay với kỹ thuật hợp lai phổ biến rộng rãi, không chỉ toàn một màu đỏ thắm
mà tùy nơi còn mang nhiều sắc trắng, tím, tía, son qua hồng nhiệt, đỏ thẫm,
đỏ gạch, đỏ hồng, đỏ xanh, đỏ cam, đỏ vàng,… Nguồn gốc núi cao châu Á nhiệt
đới (Nhật Bản, Myanmar, Nepal) ngày nay nó mọc hoang và được trồng khắp nơi,
ở châu Á (Nhật Bản, Myanmar, Nepal), cũng như ở châu Âu, châu Mỹ. Là một cây
trang trí rất được ưa thích, nó đã được pha giống thành hằng trăm loại đủ cở
lớn, nhỏ, đủ màu sắc lộng lẫy. Hoa R. simsii Planch. (tức R.
indicum Sweet var. simsii Maxim, hay var. ignescens Sweet,
hay Azalea indica Sims. non Linn) màu đỏ hồng, R. kaempferi
Planch. màu đỏ cam tươi, R. obtusum Planch. màu trắng, đỏ gạch, đỏ
tía, đều thuộc chủng của R. indicum Sweet (*).
Môn phân tích hóa học giúp ta biết được nguyên do màu đỏ ở hoa đỗ quyên là
các chất sắc anthocyanin. Hai chất chính cyanidin glucosid và cyanidin
diglucosid thường gặp bên cạnh peonidin diglucosid. Hoa màu tía chứa đựng
malvidin diglucosid, màu tím là do myricetin methyl ether mà ra, còn
quercetin, azaleatin, methoxy kaempferol chuyển màu đỏ xanh. Lượng các
cyanidin hay flavonol, mà nhiều nhất là azaleatin rhamnosyl gucosid, làm
thay đổi màu hoa từ đỏ thẫm, đỏ xanh qua hồng nhiệt, đỏ cam, đỏ vàng. Càng
ít cyanidin glucosid, màu đỏ càng chuyển qua xanh. Cyanidin còn hiện ra dưới
các thể galactosid, arabinosid, galactosid glucosid, araginosid. Trong số
các flavon khác, đã xác định được những pelargonidin, delphinidin,
petunidin, còn flavonol glycosid thì có quercetin galactosid, rhamnosid,
azaleatin galactosid, malvidin glucosid, delphinidin glucosid. Hai chất sau
nầy nhuộm hoa màu tía (3), còn caroten hiến màu vàng trong hoa
R. japonicum f. flavum (21).
Song song với hoa, thân, lá , rễ cây đỗ quyên R. simsii cũng được
khảo cứu. Rễ cây chứa đựng những flavon như quercetin, kaempferol, hyperin
cùng sitosterol. Bên cạnh amin acid, những kim loại Zn, Fe, Cu, Co, Se, Mn
và Cr đã được xác định (mg/100g) trong thân cây : 7,09, 21,37, 1,14, 0,31,
0,03, 6,62, 0,02 và trong rễ cây : 7,42, 28,69, 1,29, 0,32, 0,01, 0,99,
0,02. Trong lá cây, cùng với triterpen, flavonon glycosid và chất phản oxy
hóa "matteucinol", những flavonoid aglycon như quercetin, kaempferol đã được
trích chiết làm rượu thuốc Jinjuan (2).
Về mặt ứng dụng, lá cây đỗ quyên chứa đựng vitamin C. Lượng sinh tố có nhiều
về mùa hè so với mùa đông, có nhiều ở chỗ nóng so với trong bóng râm, tăng
lên trước khi mặt trời mọc rồi giảm dần (7,8). Phần chiết chứa
đựng nhiều flavonoid ở liều lưọng 300 mg/kg chữa bệnh viêm phế quản mạn tính
rất hiệu nghiệm (4). Nước chiết từ cây cống hiến một chất thuốc
có khả năng ức chế trùng VSH-II (6). Những flavon glucosid ở lá
cây R. anthopogonoid, cấu chất của anthorhododendrin, có tác dụng
long đờm trên chuột. Đằng khác, nó gây co thắt các mạch máu ở chân ếch và
tai thỏ đồng thời làm duỗi khí quản heo cùng các bắp thịt cánh chậu trơn
nhẵn. Nó rất hiệu nghiệm trong cuộc trị liệu viêm phế quản nhưng nên ghi
nhận LD50 ở chuột là 0,40 g/kg (12). Phần chiết nhiều
cây đỗ quyên khác cũng có tính chất long đờm (5) nhờ những chất
farrerol, astragalin, kaempferol, scopoletin, hay ngừa ho nhờ hyperin và
quercetin (13). Chất quercetin nầy còn có khả năng ức chế những
hoại tử khối u ở đại thực bào (20). Dầu lá cây R. dauricum
chứa đựng flavon được dùng chữa ho hen và bệnh suyễn (15).
Dùng methanol chiết lá thì được một chất thuốc làm giảm đau, hiệu nghiệm 40%
với 50 mg/kg nhưng cũng trở nên độc trên 150 mg/kg (14). Chiết
với ethanol 95%, cây R. cephaluntum cống hiến một chất chromen có
khả năng ức chế hoạt động của 5-lipoxygenase và được dùng chống viêm, dị
ứng, hen suyễn (19).
Ở vùng núi miền Hắc hải bên Turkey cũng như ở Nhật Bản, Nepal, Brazyl, và
ngay ở châu Âu và châu Mỹ, các loại hoa đỗ quyên R. ponticum, R.luteum
chứa một chất độc, grayantoxin, được ong hút về cùng nhựa hoa làm
mật, ăn vào có thể bị nôn mửa, hôn mê, vú nứt (22) hay huyết áp
giảm xuống, nhịp chim chậm lại (11,16,17). Chất độc nầy tác động
lên cuộc gián phân bạch huyết bào con người (18). Mang tên
andromedotoxin, được phát hiện ở R. hunnewellianum (9) hay
acetylandromedol (11) ở R. chrysanthum, R. campylocarpum
và các hoa đỗ quyên khác cùng họ Đỗ quyên Ericaceae, đồng thời tác
dụng lên tim, nó còn kích thích da cùng các màng nhầy (10).
Trong Đông y, đỗ quyên vị đắng tính bình, hơi độc vào can thận, có tác dụng
dưỡng thận khí, bổ thận khu phong, trị âm suy liệt dương, chân yếu lưng mỏi,
di tinh, phối hợp với các vị khác. Chữa tiết tinh, lạnh tinh, liệt dương :
lá thạch nam, ba kích, nhục thung dung, tỏa dương , sơn thù, mỗi vị 12-20g,
sắc uống, hòa thêm 10 g cao ban long càng tốt. Chữa can thận hư, phong hàn
thấp, chân tê yếu : thạch nam, tật lê, hà thủ ô, ba kích, ngũ gia bì, thỏ ty
tử (quả hạt tơ hồng), uy linh tiên, mỗi vị 12-20 g, sắc uống (**).

Khóm đỗ quyên trên sườn đồi núi Alpes
(ảnh Võ Quang Yến)
Tôi đã có dịp lên Bạch Mã nhưng không may mắn gặp được mùa đỗ quyên trỗ hoa.
Nghe nói đẹp lắm. "Khi mặt trời rọi những tia nắng ấm xuống Bạch Mã, dòng
suối đã mang hết nước về xuôi, hoa đỗ quyên rực rỡ một vùng. Sắc đỗ quyên
đỏ thắm như máu, nồng nàn như mời gọi mà không rực rỡ, xót xa như phượng
vĩ…" (1) Tuy nhiên, tôi lại được đi dạo ở miền núi Alpes bên
Pháp, một chiều đầu hè, mặt trời tuy cao nhưng hết còn nóng, gió nhẹ thổi
vương chút nắng tàn, hoa đỗ quyên cũng đỏ thắm huy hoàng cả một triền núi
xanh thấp thoáng dưới bầu trời lửng lơ mây trắng.. Tôi cảm thấy khoan khoái,
dễ chịu do khí trời mát mẻ, không khí trong sạch đã đành, mà cũng có lẽ vì
nhẹ bước giữa những khóm đỏ quyên tươi thắm như hân hoan đón rước kẻ đi dạo
rừng. Khó mà so sánh với Bạch Mã, tuy ở đây cũng có chim nhưng không phải
chim đỗ quyên, cũng có thác nhưng không phải thác Đỗ Quyên. Thôi thì tạm vui
nơi phong cảnh xứ người, có khi may mắn được nghe giọng hát ví von của ca sĩ
Đỗ Quyên khuây khỏa thời gian chờ đợi về tắm ao ta.
Nghiên cứu và Phát triển 2(45) (2004) 68-72 có bổ túc
(*) Trần Hợp, Cây
cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TPHồChíMinh (1993) 342
(**) Lê Trần Đức,
Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội (1997) 1097
Tham khảo
|