Những bài cùng tác giả
Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy
Mà
viết tìm em được ích gì ?
T.T. Kh (Bài thơ cuối cùng)
Vào khoảng giữa
năm 1937, tạp chí "Tiểu thuyết thứ bảy" ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn
"Hoa Ti-gôn" của ký giả Thanh Châu. Đây là một chuyện tình bi đát của chàng
họa sĩ Lê Chất. Vừa mới ra trường, trên đường đi tìm phong cảnh làng quê để
vẽ, anh thấy một cô gái đẹp đang víu một cành hoa ti gôn màu đỏ trước một
biệt thự ven Hà Nội. Mấy ngày liền, anh mê mẩn trở lại nhìn cô ta nhưng đến
một hôm thì hết còn thấy. Chín năm sau, công thành danh toại, anh vẫn không
quên cô gái đẹp thời xưa. Một hôm, trong một buổi dạ vũ ở toà lãnh sự Pháp ở
Vân Nam bên Trung Quốc, anh gặp lại cô gái, nay đã có chồng, một viên chức
cao cấp, mà cô ta không hề yêu thương. Sau kỳ tái ngộ đó, họ tâm sự và quyết
định trốn qua Nhật cùng sống với nhau. Nhưng cuối cùng, cô gái từ chối ra đi
và gởi cho Lê Chất một lá thư kèm một chùm hoa ti gôn. Bốn năm sau, anh nhận
được một lá thư của chồng cô gái báo tin nàng đã mất. Từ đó cho đến suốt
cuộc đời, cứ đến mùa hoa ti gôn nở, buồn đau, anh không quên mua một chùm
hoa trang hoàng phòng làm việc để nhớ đến người yêu xa xưa.
Mấy ngày sau truyện ngắn trữ tình nầy được
đăng báo, một thiếu phụ khoảng 20 tuổi, dáng dấp thùy mị, mang lại toà báo
một bài thơ tựa đề "Hai sắc hoa ti gôn" ký tên T.T.Kh., đề ngày 30.10.1937.
Bài thơ nghe nói bị vứt vào sọt rác, may lấy ra lại được, lột tả những đau
xót của một người con gái phải xa người yêu đi lấy chồng và suốt đời ray rức
như mình là người phụ bạc, càng não nùng qua giọng ngâm của người tốt giọng
như Hoàng Oanh.
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buốn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Sau bài thơ lời
lẽ mộc mạc nầy đã gây xôn xao trong giới yêu văn thơ, tòa soạn nhận được qua
bưu điện một bài thơ khác tựa đề "Bài thơ thứ nhất" cùng tác giả, lời lẽ
tương tự, mô tả kỹ lưỡng hơn mối tình dang dở. Giới văn nghệ lại càng bàn
tán xôn xao. Trong bầu không khí xao động, tờ "Phụ nữ thời đàm" ở Hà Nội
nhận được, cũng qua bưu điện, bài thơ "Đan áo cho chồng" cùng tác giả, cùng
giọng điệu, than vản, oán trách thân phận mình. Bài báo nầy vừa ra mắt thi
tờ "Tiểu thuyết thứ bảy" lại nhận thêm một bài thơ nữa kỳ nầy có tựa đề "Bài
thơ cuối cùng" (1938) cùng tác giả, ý tứ có phần khác ba bài thơ trước và,
như tác giả đã báo truớc, không còn một bài thơ nào khác ký tên T.T .Kh để
độc giả hoang mang không biết nàng là ai.
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà
phương ngoài gió chẳng làm quên
Và
người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại
chính là anh, anh của em.
Trong suốt bốn
bài thơ luôn có nói đến hoa dáng tim vỡ, nhưng, ngoài tên bài "Hai sắc hoa
ti gôn", chỉ trong "Bài thơ cuối cùng" là có chỉ định hoa ti gôn : Trách
ai mang cánh "ti gôn" ấy. Tuy nhiên nội dung ngây thơ của người con gái
lúc đầu gặp gỡ người yêu dưới giàn hoa rồi luôn buồn tưởng tới nhà nghệ sĩ
trong cuộc sống lạnh lẽo bên người chồng… những dữ kiện hoà hợp rất khắng
khít với cốt truyện "Hoa Ti-gôn". Rất dễ hiểu ký giả Thanh Châu khẳng định
tác giả các bài thơ là người yêu của ông. Nhưng ông không phải là người độc
nhất. Nhà thơ Nguyễn Bính, vì cũng đã sống một cuộc tình duyên dang dở tương
tự, cũng cho T.T Kh là người tình vườn xanh xưa cũ của mình : Và tiễn
người đi bến cát xa, Ở lại vườn Thanh có một mình. Bên phần thi sĩ Thanh
Tâm (Nguyễn Tuấn Trình) thì dẫn cớ T.T. là những chữ cái của bút hiệu mình,
còn Kh là hai chữ đầu tên cô Trần Thị Khánh, một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà
Nội, được biết là không cho cưới người yêu mà phải lấy một ông chồng nhiều
tuổi hơn : Khánh ơi, còn hỏi gì anh, Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên
(1940). Trong những bài thơ viết tặng T.T.Kh. có bài "Mẩu máu Tigôn".
Theo nhà thơ lão thành Lương Trúc (1985) có gặp bà Trần Thị Khánh thì
chuyện nầy có thật. Tuy nhiên, sau nầy (1994), qua nhà văn Thế Nhật, có giả
thuyết chữ T đầu là họ nữ sĩ Trần Thị Văn Chung, kết hôn với luật sư Lê Ngọc
Chấn, hiện còn sống ở miền nam nước Pháp; chữ T thứ hai là Thanh, tên ký giả
Thanh Châu, tác giả truyện ngắn ; còn Kh là….khóc, khóc cho mối tình dở
dang !
Rút cuộc, với vẻn
vẹn độc nhất bốn bài thơ não lòng, T.T.Kh. đã gây xốn xao dư luận cả một
thời và đến nay chưa ai biết chắc chắn tung tích tác giả. Theo thi sĩ Nguyễn
Vỹ, cô Khánh không biết làm thơ, những bài ký tên T.T.Kh. là do Thanh Tâm
làm, còn Nhà văn Vũ Hạnh thì cho tác giả những bài thơ nấy là thi sĩ Jean
Leiba ! Nhưng cần chăng biết nàng là ai, và như tác giả một bài sưu tầm tỉ
mỉ (1) đã kết luận, chúng ta cần gì phải thắc mắc, nàng là ai
cũng thế mà thôi, dù nàng là cô Trần Thị Khánh ở Hà Nội hay là cô Trần Thị
Chung ở Thanh Hóa. Điều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ
của T.T.Kh. là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn Việt
Nam. Tuy vậy, cũng nên tìm biết ti gôn là hoa gì, không lý chỉ có trong trí
tưởng tưởng của nhà văn lãng mạn, nhà thi sĩ đa tình ! Thưa không : gần đây
tôi may mắn được đọc
Vườn có những hàng cây yên ả
Mùa Ti-gôn chưa trổ hoa
Nắng nhìn nghiêng lá trổ màu lục
Đôi khi đợi chờ là hạnh phúc
Hồ Đắc Thiếu Anh (Có một mùa Ti-gôn)
Thật ra, ti gôn là một loại hoa nguồn gốc
ngoại lai mà trong Nam nuớc ta thường nôm na gọi là hoa nho hay nho kiểng,
còn ở ngoài Trung và Bắc thông thái phiên âm rút gọn danh từ Tây phương
antigon hay antigone.
Trong thần thoại
Hy Lạp có một bà tên Antigone, con vua Œdipe thành quốc Thèbes (nay là
Thiba) bên nước Hy Lạp và hoàng hậu Jocaste. Vì là con của một cặp loạn
luân, bà đã phải chịu sống một cuộc đời đau khổ, không chồng, không con và
sau cùng bị kết án giam lỏng trong mồ gia đình. Ngay lúc mới sinh, Œdipe bị
cha là Laios đem bỏ vào rừng cho chết đi vì ông tin một lời nguyền rủa bảo
con ông sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Œdipe không chết, được nuôi lớn lên ở
vương triều Corinthe như một đứa con mồ côi. Một ngày trên đường đi, vì một
chuyện xích mích, Œdipe giết Laios mà không biết ông ta là cha mình. Trả lời
là "con người" đúng câu hỏi của quái vật Sphinx, thân phụ nữ mình sư tử, ai
ban sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân, sau khi quái vật
đập đầu vào đá chết đi, Œdipe được dân chúng đón tiếp như một người hùng và
tôn xưng lên ngôi vua. Sau đấy ông cưới hoàng hậu Jocaste làm vợ mà không dè
bà là mẹ mình, vô tình thực hiện lời nguyền rủa. Vào lúc ấy có bệnh dịch
hoành hành và thánh nhân đòi tìm cho ra người đã ám sát Laios may ra cứu
được toàn dân Thèbes. Khám phá ra mình đã giết cha, Oedipe vô cùng đau đớn,
nhổ mắt thành mù, được Antigone dẫn ra khỏi Thèbes làm người ăn xin trước
khi chết ở Colone. Còn Jocaste thì treo cổ tự tử. Ngoài hai con gái,
Antigone và Ismène, Œdipe và Jocaste có hai con trai, Polynice và Etéocle.
Hai anh em thỏa thuận luân phiên nhau thế cha lên ngôi trị vì mỗi người một
năm. Etéocle bắt đầu lên ngôi nhưng một năm sau không chịu nhường ngôi lại
cho Polynice. Trong cuộc chiến huynh đệ tranh ngôi cả hai đều tử trận. Em
của Jocaste là Créon lên nối ngôi, truyền lệnh khâm niệm Etéocle theo nghi
lễ một nhà vua nhưng cấm không được chôn cất Polynice xem như là kẻ phản
bội. Antigone không chịu tuân lời cậu, lại rải một ít đất lên thi hài anh
gọi là lễ tang tối thiểu để linh hồn anh yên giấc ngàn thu, vậy mà Créon lên
án giam cháu. Không chịu sống giam cầm suốt đời, Antigone treo cổ tự tử.
Hémon, con của Créon, người yêu của Antigone, tự sát ngay trên thi hài
Antigone và tiếp theo đó, vợ Créon cũng chết theo con. Rút cuộc người còn
sống trong đau khổ là Créon cùng một lúc mất con, góa vợ, chỉ vì một xử lý
thiếu suy nghĩ của mình. Lời nguyền rủa thấy như còn tiếp tục lâu dài…
Trong bối cảnh
một thế giới đảo điên, con giết cha, anh em giết nhau, cậu giết cháu, Œdipe
không chủ ý phạm tội loạn luân, một hiện tượng sau nầy được nhiều triết gia
biện luận và nhiều soạn giả viết thành bi kịch..., Antigone tỏ ra là một
người con có hiếu vì đã chịu chăm sóc người cha mù cho đến lúc ông chết, lại
là một người em mang một tình thương anh vô tận nên mới đơn thương độc mã
bất tuân lệnh của ông vua cậu. Nhiều học giả đã thấy qua nàng một bi kịch
của những đối lập : một bên là tình thương chị em, mệnh lệnh thần thánh, sự
tận tâm tận tụy, bên kia là ý chí nhà vua, luân lý thành quốc, sự mù quáng
của tuổi già. Lòng hiếu thảo, tình thương của nàng phải chăn được thể hiện
qua một cây leo luôn quấn quít trên những cành cứng, những bụi rậm như cây
antigone thường thấy ở Nam Mỹ, phát xuất từ Mexico, mọc hoang nhiều ở các
tiểu bang California, Arizona bên Hoa Kỳ, ở tỉnh Phan Thiết bên ta. Mang tên
khoa học Antigona leptopus Hook. et Arn. (5,7) (có khi
viết Linn. (8,9) ) thuộc họ Răm Polygonaceae, cây ti gôn
còn được gọi hiếu nữ, Coral vine, Mountain Rose, Queen’s Wreath hay Love’s
chain. Dây leo đa niên nhờ có củ to, thân mảnh, lá có phiến không lông, hình
tim, xanh tươi, dúng. Chùm có vòi, to, ở chót nhánh, hoa hường hay
trắng (var. alba Horst) (*) cho nên T.T.Kh. mới có tựa bài
"Hai
sắc hoa ti gôn". Hoa có 5 tai đỏ, ngoài 3 trong 2, tiểu nhị dính nhau ở
đáy, noãn sào 3 cánh, 3 vòi, nhụy bế quả. Ưa chịu nóng mùa hè và thích nhiều
nước. Vào mùa đông lá rụng nhiều, chỉ ngọn cây chết nhưng chóng phục hồi
(2) .

Là một loại hoa
đẹp, lại được mệnh danh là hoa lòng, hoa máu, hoa ti gôn đã được nhiều nhà
chú ý khảo cứu, nhất là về mặt chất sắc. Nhóm Minocha ở viện Đại học
Allahabad bên Ấn Độ dùng methanol-HCl (1%) chiết xuất được hai anthocyanin
pelargonin và malvin (4). Thay đổi dung dịch, dùng ethanol, họ
đạt được hentriacontan và trimethoxy propanoyl anthraquinon (5),
quercetin, rhamnetin, quercetin glucopyranosid và hydroxy methyl
anthraquinon arabinofuranosyl glucopyranosid (3). Nhóm
Valsakumari ở Trường kỷ sư Tiruchirapalli cũng ở Ấn Độ thì tìm ra được trong
hoa quercetin rhamnosyl rhamnoside (7). Nhóm Kawasaki ở viện Đại
học Shinshu bên Nhật bản phát hiện trong lá 28 cây thuộc họ Răm 33
flavonoid. Quercetin glycosid có mặt trong hầu hết các lá, nhiều nhất là
rhamnodid và glucuronid, còn myrcetin thì hiếm hơn (6). Những
nhà khảo cứu ở viện Đại học Michigan bên Hoa Kỳ dùng methanol thì chiết xuất
được từ tất cả các bộ phận khí sinh của cây, kể cả hoa, hentriacontan,
ferulic acid, hydroxy cinnamic acid, quercetin rhamnosid, kaempherol
glucosid đồng thời với bêta-sitosterol, bêta-sitosterol glucosid và mannitol
(16). Trong một cuộc khảo cứu về các acid béo trên 15 cây đủ loại
mọc ở Rajasthan trong ấy có Antigonon leptopus, tinh dầu hột cống
hiến dimethyl oxazolin (10).
Cây ti gôn không
chỉ phô trương sắc đẹp. Người ta đã tìm ra được trong những phần chiết
methanol các bộ phận khí sinh của cây có tính chất ức chế lipid peroxi hóa
(89%), cycloxygenase (50,4 – 72,5 %) với 250 microgam/mL (16),
phản thrombin (80%) (13). Ở viện Đại học Victoria bên Canada, một
cuộc khảo cứu đã được thực hiện trên các cây dùng để chữa các chứng thuộc
đường niệu cùng bệnh đái đường ở Trinidad và Tobago trong ấy có ti gôn
(15). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đề nghị dùng Antigonon
leptopus cùng nhiều cây khác như kha tử Terminalia chebula, mã
tiền Strychnos nux-vomica, đàn hương Santalum album, thảo đậu
khấu Alpinia katsumadai, nhục đậu khấu Myristica fragrans,
đinh hương Eugenia caryophyllata, ngũ linh chi Facces trogopterpri…
nhờ những tính chất chống đau, chống viêm, chống siêu trùng, bài niệu, giải
độc, để chữa một loạt bệnh viêm : viêm thận, viêm gan, viêm kết tràng,…
(14). Ti gôn đã được dùng làm thức uống (16). Cũng cần biết
thêm nhóm Krishna ở viện Đại học Andhra bên Ấn Độ đã khảo cứu cách đường hóa
và lên men cùng lúc sinh khối ti gôn để sản xuất ethanol với các chủng
Trichoderma reesei và Saccharomyces cerevisiae (8,11)
hỗn hợp với Kluyveromyces fragilis (l2),
bêta-glucosidase (9).
Hoa ti
gôn không thơm tùy loại có hai màu : màu trắng tượng trưng cho lòng trinh
bạch (Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít giây hoa trắng chạnh
lòng ), màu hồng hay đỏ chỉ sự đau khổ trong đời. (Nhưng hồng, tựa
trái tim tan vỡ, Và đỏ như như màu máu thắm phai). Chỉ với hai màu,
T.T.Kh đã trưng bày đủ đời mình, kết liễu với một nỗi nhớ tiếc không nguôi,
ví mình như một loài hoa vỡ, một trái tim phai :
Nếu biết rằng tôi đã lấy
chồng
Trời
ơi, người ấy có buồn không ?
Có
thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa
trái tim phai, tựa máu hồng.
Theo kết quả của
những tìm kiếm, rất có thể T.T .Kh hiện còn sống. Một con người, với một
cuộc đời như vậy, có hảnh diện không khi thấy những bài thơ mộc mạc nhưng
chân thành của mình đã gây náo động khắp nước, cả một thời, không những ở
quốc nội hồi thơ mới được đăng báo, mà còn bây giờ, gần bảy mươi năm sau,
khắp thế giới, bất kỳ ở nơi nào có người Việt, còn người yêu thơ ?
Nghiên cứu và Phát triển 2 (79) 2010
Tham khảo
(*) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam,
Mekong Ấn quán (1991) I, 954
1- Lưu An, TTKh và những khám phá về thân
thế tác giả, khoahocphothong.net/forum/archiv/index.php/t-8504.html
2- Lê Văn Lân, Mùa thu và hoa tim vỡ,
khoahoc.net 20.09.2007.
3- K.P. Tiwari, P.K. Minocha,
Chemical constituents of the flowers of Antigonon leptopus, Indian J.
Chem.section B (5) 19B (1980) 431-2
4- K.P. Tiwari, P.K. Minocha,
Study of anthocyanins from flowers of Antigone leptopus, Vijnana
Parishad Anusandhan Patrika (4) 23 (1980) 305-7
5- P.K. Minocha, M. Masood, K.P.
Tiwari, 1,6,8-Trimethoxy-3-propanoylanthraquinone, a new pigment from the
flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, Indian J. Chem.section B
(3) 20B (1981) 251-2
6- M. Kawasaki, T. Komata, K.
Yoshitama, Flavonoids in the leaves of twenty-eight polygonaceous plants,
Bot. Mag. (Tokyo) (1053) 99 (1986) 63-74
7- M.K. Valsakumari, N.
Sulochana, Phytochemical investigation on the flowers of Antigonon
leptopus Hook and Arn, J. Inst.Chem.(India) (1) 64 (1992)
38
8- S.H. Krishna, Y. Prabhakar,
R.J. Rao, Saccharification studies of lignocellulosic biomass from
Antigonon leptopus Linn, Indian J; Pharm. Sci .(1) 59
(1997) 39-42
9- S.H. Krishna, G.V. Chowdary,
D.S. Reddy, C. Ayyanna, Simultaneous saccharification and fermentation of
pretreated Antigonon leptopus Linn leaves to ethanol, J. Chem. Tech.
Biotech. (11) 74 (1999) 1055-60
10- M.M. Azam, M.R.K. Sherwani,
Chemical investigation of some seed oils from arid zone of Rajasthan,
Oriental J. Chem. (2) 15 (1999) 295-300
11- S.H. Krishna, G.V. Chowdary,
Optimization of simultaneous saccharification and fermentation for the
production of ethanol from lignocellulosic biomass, J. Agri. Food
Chem.(5) 48 (2000) 1971-6
l2- S.H. Krishna, D.S. Reddy, T.
Janardhan, G.V. Chowdary, Simultaneous saccharification and fermentation
of lignocellulosic wastes to ethanol using a thermotolerant yeast,
Biores. Tech. (2) 77 (2001) 193-6
13- N. Chistokhodova, Nguyen Chi,
T. Calvino, I. Kachirskaia, G. Cunningham, M.D. Howard, Antithrombin
activity of medicinal plants from central Florida, J.Ethnopharm.
(2) 81 (2002) 277-80
14- J. Wu, Manufacture of
traditional Chinese medicine with antiviral, anti-inflammatory, and
detoxicating effects, Faming Zhuanli Shanqing Gongkai Shuomingshu
CN 1840147 (2006) 6 tr.
15- C.A. Lans, Ethnomedicines
used in Trinidad and Tobago for urany problems and diabetes mellitus,
J.Ethnobio. Ethnomed. 2 (2006) 45
16- M. Vanisree, R.L.
Alexander-Lindo, D.L. De Witt, M.G. Nair, Functional food components of
Antigonon leptopus tea, Food Chem. (2) 106 (2008) 487-92
|