Những bài cùng tác giả
Từ thời xa xưa, nhân loại quan sát bầu trời để phát hiện những
hiện tượng thiên văn mà họ cho là liên quan đến số mệnh con người.
Vũ trụ được thần thánh hóa, mỗi ngôi sao sáng trên trời là một
vị thần và tương ứng với một bậc vĩ nhân trên trần gian. Đối với
các nhà thiên văn Trung Quốc, vùng trời xung quanh Thiên cực Bắc
trong đó có những ngôi sao tượng trưng những nhân vật cuả hoàng
thất, chính là hình ảnh cuả Tử Cấm Thành xây trên trái đất từ
đời nhà Minh. Trong hàng chục thế kỷ, ranh giới giữa thiên văn học
và ngành chiêm tinh không được phân biệt rõ rệt. Cuốn “Đại Việt Sử
ký toàn Thư” kể lại những sự kiện lịch sử xen lẫn với những
hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng cùng với
những thiên tai xẩy ra trên trái đất. Các nhà thiên văn đời xưa quan
sát tỉ mỉ bầu trời và phát hiện cả những ngôi sao đột nhiên xuất
hiện và chỉ nhìn thấy bằng mắt thường trong một vài tháng. Họ
gọi những ngôi sao phù du này là “sao khách”, dường như tạt qua thăm
trái đất rồi lại biến đi. Thật ra, đây là những “sao siêu mới” đang
kết liễu cuộc đời thông qua những vụ nổ làm ngôi sao bỗng sáng
trưng trên bầu trời. Những dữ liệu liên quan đến hiện tượng sao siêu
mới trong thời gian vừa mới bùng nổ đã cung cấp những thông tin
quý giá cho các nhà thiên văn vật lý ngày nay để nghiên cứu quá
trình tiến hóa cuả những ngôi sao (Hình 1).

Hình 1
Vết tích cuả ngôi sao siêu mới do các nhà thiên văn Trung Quốc phát
hiện năm 1054. Hồi đó, ngôi sao bùng nổ nên bỗng xuất hiện giữa ban
ngày trong 3 tuần lễ liền. Sự kiện thiên văn này xẩy ra cách xa
trái đất khoảng 6000 năm ánh sáng và đã được ghi chép tường tận
trong những sách sử phương Đông. Ngày nay, tàn dư cuả vụ nổ sao năm
1054 được phát hiện trong kính thiên văn dưới dạng một tinh vân (Tinh
vân con Cua). Ngôi sao nay đã tắt, nhưng vẫn phóng ra những luồng khí
sáng ngời với tốc độ hàng nghìn kilomet/giây cùng với những hạt
electron chuyển động nhanh gần bằng ánh sáng. Tinh vân con Cua tiếp
tục phát ra những bức xạ vô tuyến và quang học rất mạnh, tương tự
như những bức xạ trong máy gia tốc synchroton (Hình Hubble Space
Telescope, HST).
Các nhà thiên văn thời xưa căn cứ vào sự chuyển động tuần hoàn
cuả những thiên thể để làm lịch. Những thuyết vũ trụ quan cũng
được đề cập tới trong bộ sách “Thiên văn Lục” cuả Trung Quốc viết
vào thế kỷ 5, tuy hãy còn đượm tính siêu hình. Thiên văn học phương
Đông, chủ yếu dựa trên những quan sát bằng mắt thường, đã đạt
được rất sớm những thành tích đáng kể, nhưng bị chững lại vì
không có cơ sở vững chắc cuả toán học và cuả những kết quả quan
sát bằng kính thiên văn.
Tại Châu Âu, thuyết “địa tâm” cho trái đất là trung tâm cuả vũ trụ
được coi là phù hợp với tư tưởng cuả Thiên Chúa giáo, nên đã
thống trị trong hơn một chục thế kỷ. Phải đợi đến thế kỷ 16 khi
ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển, Copernicus mới đề xuất
thuyết “nhật tâm”, cho mặt trời là thiên thể nằm ở trung tâm cùng
với trái đất và các hành tinh diễu hành xung quanh. Thuyết này tỏ
ra là đúng, nhưng lại mâu thuẫn với quan niệm cuả Nhà thờ Thiên
Chúa Giáo hồi đó nên bị gán là dị giáo.
Cách đây 400 năm, Galileo Galilei là người tiên phong sử dụng kính
thiên văn để quan sát bầu trời. Tuy chiếc kính hãy còn đơn sơ, nhưng
đã giúp Galileo đạt được những kết quả làm đảo lộn quan niệm vũ
trụ quan ở thế kỷ 17. Vũ trụ hóa ra không phải là bất di bất
dịch, hệ mặt trời cũng chỉ là một trong vô vàn hệ sao quay xung
quanh tâm cuả Thiên hà cuả chúng ta (Ngân Hà). Qua kính thiên văn cuả
Galileo, mặt trăng hiện ra lỗ chỗ như tổ ong do đã từng bị những
thiên thạch bắn phá. Bề mặt mặt trời lốm đốm những “vết đen”
(sunspot) như những nốt ruồi, nơi xuất phát những vụ bùng nổ báo
hiệu những thời kỳ mặt trời hoạt động tối đa. Thiên thể mà chúng
ta thường gọi là Sao Mộc thật ra chỉ là một hành tinh có những
vệ tinh quay xung quanh. Những phát hiện cuả Galileo củng cố thuyết
nhật tâm cuả Copernicus. Kepler cũng lập ra những định luật động
học (kinematics) dùng để tính quỹ đạo cuả các hành tinh quay xung
quanh mặt trời. Newton đề xuất luật “hấp dẫn phổ biến” trong động
lực học (dynamics) để xác định sự chuyển động cuả các vật thể.
Những khám phá trên đây trong lĩnh vực thiên văn là những bước đầu
cuả sự phát triển khoa học và văn hoá trong thế kỷ 17-18 mà người
ta thường gọi là “Thế kỷ Ánh sáng”.
Sự sử dụng những kính thiên văn ngày càng lớn và những mô hình
lý thuyết dựa trên thuyết tương đối cuả Einstein đã mở một kỷ
nguyên mới cho sự nghiên cứu vũ trụ ở thế kỷ 20. Sự phát hiện ra
hiện tượng vũ trụ dãn nở cùng với thuyết Big Bang, kết hợp với
những định luật cuả ngành vật lý hạt cơ bản, đã giúp các nhà
thiên văn xây dựng được một vũ trụ quan khá nhất quán. Ánh sáng
cuả những thiên hà càng phát từ xa, càng mất nhiều thời gian để
truyền tới trái đất. Thăm dò thật sâu trong vũ trụ là quan sát
những thiên thể được hình thành từ khi vũ trụ còn non trẻ. Những
máy gia tốc lớn cũng có thể tái tạo được phần nào một môi
trường tương tự như vũ trụ ở thời đại nguyên thủy. Thiên văn học
phối hợp với vật lý học đã giúp chúng ta hiểu được sự chuyển
động cuả những thiên thể và sự tiến hoá cuả toàn thể vũ trụ.
Các thiên thể trong vũ trụ không những chỉ phát ra ánh sáng mà
còn phát ra những bức xạ không nhìn thấy trên những bước sóng
ngắn gamma, X, tử ngoại và trên những bước sóng dài hồng ngoại và
vô tuyến. Các nhà thiên văn quan sát nhiều miền phổ để nghiên cứu
cơ chế phát bức xạ và xác định những điều kiện lý-hóa trong vũ
trụ. Họ sử dụng những kính thiên văn phóng lên không gian để tránh
khỏi màn khí quyển bao quanh trái đất làm nhiễu hình cuả các
thiên thể.
Ngành thiên văn vô tuyến mới được phát triển sau khi Chiến tranh Thế
giới thứ II kết thúc. Nhà thiên văn vô tuyến người Anh, Sir Bernard
Lovell, kể lại: vào tháng 2 năm 1942 trong khi chiến tranh đang diễn
ra quyết liệt, chiến hạm cuả Đức cứ ngang nhiên đi lại trên eo biển
Manche mà không bị rađa cuả Anh phát hiện ! Những rađa phòng không
cũng không hoạt động bình thường, nhất là ban ngày khi hướng về
phía mặt trời. Cũng trong thời gian này, các nhà thiên văn cuả Đài
Royal Greenwich Observatory quan sát thấy có nhiều vết đen trên mặt
trời. Đây là triệu chứng báo hiệu mặt trời đang trong thời kỳ
hoạt động tối đa và phát ra nhiều hạt mang điện tích (charged
particles) và nhiều bức xạ làm nhiễu tín hiệu vô tuyến, khiến rađa
cuả quân đội Anh bị bão hòa. Các nhà khoa học không ngờ họ đã
tình cờ phát hiện được bức xạ vô tuyến cuả mặt trời. Hồi đó họ
đang bận tâm bảo vệ tổ quốc, nên tạm dẹp một sự kiện khoa học mà
sau này tỏ ra có tầm quan trọng lớn trong công việc nghiên cứu vũ
trụ. Sau chiến tranh, các chuyên gia đã từng phục vụ trong ngành
rađa mới bắt đầu sử dụng những ăngten ngày càng lớn để thu tín
hiệu vô tuyến phát ra từ vũ trụ.
Một trong những khám phá đầu tiên đáng ghi nhớ trong ngành thiên văn
vô tuyến là sự phát hiện bức xạ cuả nguyên tử hyđrô trung hòa
(neutral hydrogen). Nguyên tử hyđrô phát ra một vạch phổ trên bước
sóng 21 xentimet, mỗi khi “spin” cuả cặp electron-proton trong nguyên
tử chuyển từ trạng thái song song (parallel) sang trạng thái
đối
song (antiparallel). Sự thay đổi trạng thái spin cuả hyđrô là một
hiện tượng rất hiếm, cứ 11 triệu năm mới xẩy ra một lần. Tuy
nhiên, vì hyđrô là nguyên tố phổ biến nhất trong vũ trụ nên cường
độ cuả bức xạ hyđrô vẫn rất lớn. Sự tồn tại cuả vạch phổ hyđrô
trong vũ trụ đã được các nhà thiên văn tiên đoán bằng lý thuyết.
Họ làm ra ăngten và máy thu tín hiệu, mới đầu chủ yếu là để tìm
thấy vạch phổ này. Các nhà thiên văn quan sát vạch hyđrô trên bước
sóng 21 xentimet để phát hiện được cấu trúc xoắn ốc cuả Ngân Hà
và để tìm kiếm những thiên hà xa xôi. Sau này, “bức xạ phông vũ
trụ”, bộ mặt cuả vũ trụ nguyên thủy, cũng được phát hiện trên
những bước sóng vô tuyến.
Các nhà thiên văn vô tuyến tìm thấy trong Dải Ngân Hà rất nhiều
hoá chất, kể cả những phân tử hữu cơ có khả năng dẫn đến sự
hình thành axit amin. Loại phân tử sinh học này có vai trò trọng
yếu trong quá trình hình thành cuả sự sống trên trái đất và cũng
có thể cả trên những hành tinh khác. Sự tìm kiếm axit amin trong
vũ trụ là một đề tài hấp dẫn, không những về mặt khoa học mà
cả về mặt triết học. Trong vũ trụ bao la, chẳng lẽ chỉ có sự
sống duy nhất trên hành tinh trái đất này hay sao? Thuyết cuả
Charles Darwin giải thích quá trình tiến hoá cuả sự sống bằng
hiện tượng chọn lọc tự nhiên giữa các chủng loài và sự thích
nghi cuả chúng đối với môi trường, chứ không phải là do một thực
thể siêu nhiên nào điều hành. Như vậy thì trên các hành tinh khác
cũng có khả năng có sự sống thích nghi được với những điều kiện
lý-hoá không nhất thiết phải giống như trên trái đất. Hành tinh
cuả chúng ta được hình thành cách đây đã 4,6 tỷ năm, nhưng sự sống
nguyên thủy dưới dạng sinh vật sơ khai mới nảy sinh một tỷ năm về
sau. Từ đó, quá trình tiến hoá đã làm biến đổi sự sống từ dạng
vi sinh vật đơn bào đến những sinh vật đa dạng có nhiều tế bào.
Loài người hiện đại mới xuất hiện cách đây khoảng 200 nghìn năm.
Sự hình thành ra loài người quả là một quá trình phức tạp và
lâu dài, nên sự sống có khả năng hiểu biết cũng có thể là một
hiện tượng hiếm hoi trong vũ trụ.
Những trạm quan sát tự động được phóng vào vũ trụ để thám hiểm bề
mặt những hành tinh láng giềng trong hệ mặt trời. Con tàu vũ trụ
Cassini-Huygens đã thả một trạm tự động xuống Titan, vệ tinh lớn nhất của
hành tinh Thổ, để thăm dò khí quyển và bề mặt Titan. Thiên thể này có
điều kiện lý-hoá phong phú nên có khả năng làm nảy sinh ra sự
sống. Hiện nay các nhà thiên văn còn tìm thấy hàng trăm hành tinh
nằm ở hẳn bên ngoài hệ mặt trời, nhưng phần lớn lại là những
khối khí khổng lồ nặng hơn cả hành tinh Mộc, hành tinh lớn nhất
trong hệ mặt trời. Họ bắt đầu sử dụng những kỹ thuật quan sát
hiện đại có độ nhạy cao, nhằm phát hiện loại hành tinh có vỏ
đá, rắn và nhỏ như trái đất trên đó có thể có sự sống. Sự phát
hiện những hành tinh xa xôi ở ngoài hệ mặt trời là điều kiện tiên
quyết để tìm kiếm những nền văn minh trong Dải Ngân Hà, bởi vì sự
sống trường tồn như trên trái đất chỉ tồn tại trên những hành tinh
có vỏ rắn và trong những điều kiện lý-hoá không quá khắt khe cuả
khí quyển.
Môn nghiên cứu nguồn gốc và sự tiến hoá cuả vũ trụ, gọi là “vũ
trụ học” (cosmology), chỉ là một trong nhiều môn cuả ngành thiên văn
vật lý. Vũ trụ học đã trở nên không xa lạ đối với công chúng,
bởi vì môn khoa học này gợi ra những khái niệm liên quan đến triết
học, siêu hình học, thậm chí cả đến tôn giáo. Vũ trụ học đã
được phổ biến rộng rãi trong nhiều cuốn sách và bằng những phương
tiện truyền thông đại chúng. Những câu hỏi hay được đặt ra thường
liên quan đến hiện tượng Big Bang khai sinh ra vũ trụ. Những lý
thuyết vũ trụ học, tuy dựa trên những tính toán mô hình phức tạp,
nhưng đôi khi vẫn còn thấm đượm màu sắc tư biện.
Trong bài tổng quan này, ngoài vũ trụ học tác giả còn trình bầy
một số đề tài ít được phổ biến, nhưng rất hấp dẫn và đang được
thịnh hành trong cộng đồng các nhà thiên văn trên thế giới.
Trích từ "Kỷ Yếu tập 1: "400 năm Thiên văn học và
Galileo Galilei", chủ biên: Chu Hảo, Nguyễn
Quang Riệu, Trịnh Xuân Thuận, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân
Yêm, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2010.
|