Nhân chuyến đi thỉnh giảng vào
mùa hè tại Pháp, Giáo Sư Trịnh Xuân Thận đã
trả lời phỏng vấn của báo WEEK-END, Pháp, về các
vấn đề trên đây.
Nguyên bản Pháp ngữ từ http://www.ile-maurice.com/mirror/http/www.lemauricien.com_80/weekend/
03081/vw.htm# Bản dịch Việt ngữ của Đỗ Kim Thêm
và Võ Thị Diệu Hằng.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận rời
Maurice hôm nay sau một tuần lễ thật bận rộn. Nhà
vật lý thiên văn gốc Việt hiện đang sinh sống
tại Hoa Kỳ đã mở ra bốn cuộc hội thảo. Ông nói
về lý thuyết đại bùng nổ (Big Bang) và lịch
sử vũ trụ tại thính đường Octave Wiehé hai lần dành
cho giới trí thức đại học và học sinh lớp 12;
một lần khác ông giới thiệu sự tiến hóa của vũ
trụ tại Trung tâm Văn hóa Pháp Charles Baudelaire
và lần cuối cùng tại Trung tâm Xã hội Marie Reine de
la Paix ông trình bày về sự liên hệ giữa Phật giáo
và Khoa học
WEEK-END đã gặp nhà vật lý thiên
văn này hôm thứ ba vừa qua tại Ðại học
Maurice sau lần hội thảo đầu tiên trong loạt các
hội thảo trên đảo Maurice. Cuộc phỏng vấn mà nhà
khoa học đã chấp thuận cho chúng tôi đề ra sẽ nói
về Vũ trụ học, sự liên hệ giữa niềm tin và khoa
học, đạo Phật trong đó nhà khoa học gắn liền.
Thưa Giáo
sư Trịnh Xuân Thuận, ông trách những nhà
khoa học vì họ bằng lòng dừng lại về sự liên
quan của những sự kiện khoa học mà không có cố
gắng để tổng hợp chúng. Ông không nghĩ là
kiến thức khoa học chỉ dừng lại ở những sự
kiện này và chỉ sự kiện mà thôi?
Tôi đồng ý phương pháp
khoa học thực nghiệm là quan sát, đề ra những
lý thuyết để giải thích những quan sát này. Nhưng
tôi cũng nghĩ rằng nhà khoa học cũng là một con người,
con người tự đặt ra những vấn đề siêu hình và
triết lý. Bên cạnh đó, khoa học đã có soi sáng
một số vấn đề nhất định. Từ sự kiện này, điều
tốt nhất cho nhà khoa học là họ nên nói rõ khi nào
họ vượt quá khuôn khổ khoa học (thực nghiệm), chìm
đắm trong những suy tư khác, mà những điều này đặt
họ trong bối cảnh thí dụ như với vị trí con người
trong vũ trụ, và tạo nên những ý nghĩa siêu hình
lẫn triết lý cho khoa học.
Cuối cùng, theo tôi, cái mà tôi chú ý không
phải chỉ nói rằng trái đất quay quanh mặt
trời hay mặt trời quay quanh trái đất, mà là việc
con người xác định vị trí mình ở trong vũ trụ đó
như thế nào. Chung quy lại, chính nhân loại là vấn
đề mà tôi lưu tâm.
Sau lần gặp ông,
Dominique Leglu có viết rằng ông đã quả quyết
“tổng hợp Thiên văn học với Sinh vật học, Vật
lý hạt tử... mỗi thứ một ít, những gì chúng ta
đã học được trong thế kỷ này”. Phải chăng
đây là một kho trữ liệu quy mô ? Ông có đạt được
việc tổng hợp kiến thức khoa học mà chúng ta
thu lượm được trong thế kỷ XX không?
Sinh vật học, Khảo cổ học, Toán
học hoàn toàn không thuộc lĩnh vực của tôi. Tôi dùng
Toán học như một dụng cụ để diễn tả thiên nhiên
bởi vì ngôn ngữ của thiên nhiên là Toán học. Tôi
trích dẫn từ những bản báo cáo khoa học của
những chuyên gia trong quyển sách mới của tôi. Cuốn
sách này sẽ xuất bản vào tháng 10 sắp tới tại
Paris, tựa đề là Origines [2] . Quyển này không
những chỉ bàn về nguồn gốc vũ trụ, của những
thiên hà, các tinh tú, các hành tinh, mà còn còn đề
cập đến sự sống và ý thức. Nguồn gốc sự
sống và ý thức không phải là lĩnh vực của tôi,
nhưng tôi cũng cố gắng đọc những gì mà các
khoa học gia khác, những nhà khoa học đứng đắn,
muốn nói. Tôi đi dự các hội nghị quốc tế để
nghe những chuyên gia quốc tế nói về đề tài này và
từ đó tôi đưa ra ý kiến và những tổng hợp của
chính tôi. Tôi nghĩ rằng đây là việc cần phải làm.
Ông biết không, đời sống không
phải là một mảnh đời bị xẻ nhỏ. Chúng ta sống
trong sự tiếp nối mà trong đó có tất cả: từ sinh
vật, bầu trời cho đến thi ca. Chúng ta được sinh
ra từ bụi sao. Tại sao lại giam hảm tất cả trong
những ngăn trở giả tạo? Tôi tỏ lòng thán phục
những danh nhân ở thế kỷ thứ XVII hay XVIII như
Leonardo da Vinci, vì ông không những là một
nghệ sĩ tài hoa mà còn là một người có viễn
kiến về khoa học, hoặc là những nhà viết tự điển
bách khoa, mà Diderot là một thí dụ.
Chúng ta thiếu rất nhiều
kiến thức phổ quát. Khoa học càng ngày càng trở
nên chuyên môn hoá. Chuyên gia chỉ biết tất cả
những gì thuộc về chuyên đề mà không biết gì khác,
đó là một điều đáng tiếc. Người ta thấy cây
mà không biết đến rừng. Theo tôi, nhìn thấy
toàn thể là điều trọng yếu. Việc này cần rất
nhiều cố gắng, rất nhiều thời gian. Nếu các chuyên
gia nghĩ rằng thiên hạ bị lầm lần, họ nên bước
ra khõi lảnh vực của minh và trình bày các ý kiến
phê bình. Tôi cố gắng làm việc này, không
những chỉ cho tôi mà còn san sẻ cho người khác.
Bởi vậy tôi cũng viết nữa.
Trong những câu
chuyện vói ông, ông thường đề cập đến
Albert Einstein. Nhà bác học này đã
một lần diễn tả ý tưởng của ông ta về tôn giáo
và Thượng đế như sau: “Tôn giáo của tôi
chỉ là một sự thán phục kính cẩn của tôi
vể Đấng tối cao vô hạn này, Đấng đã hiển
lộ đến những chi tiết nhỏ nhất mà trí óc yếu kém
của chúng ta có thể nhận thức được. Niềm
tin sâu xa đầy ấn tượng về sự hiện hữu của Đấng
quyền năng, ngườì hiển lộ trong vũ trụ khó hiểu
tạo thành ý tưởng của tôi về Thượng đế".
Khoa học có tương hợp với tôn giáo và ý
niệm về Thượng đế không?
Einstein là thần tượng khoa học
của tôi. Ông biết không, khoa học là một cửa sổ
nơi đó người ta nhìn đựơc thực tại. Tôn giáo là
một cửa sổ khác. Có nhiều cửa để ta có thể
hiểu được thực tại. Tôi nghĩ rằng khoa học không
có độc quyền trong việc tìm kiến thực tại. Con người
cần đến tôn giáo và tâm linh. Con ngưòi cũng cần
thi ca. Thơ là một cửa sổ khác. Con người cũng
cần nghệ thuật. Lĩnh vực nào cũng quan trọng.
Thật vậy, nếu hai lĩnh vực khác nhau, thí dụ khoa
học và tín ngưỡng, có ý muốn cùng diễn tả thực
tại, và nếu như cả hai cùng có những hệ
thống suy tư mạch lạc và hợp lý, thì chúng sẽ
gặp nhau ở đâu đó, bởi vì cả hai đều diễn tả
chung một vấn đề. Nếu không, thế nào cũng có
một vấn đề ở đâu đó và một trong những quan
niệm phải sai.
Trong cuộc phỏng
vấn dành cho Dominique Leglu ông nói: "Khi tôi thấy
một thiên hà ở góc kính thiên văn của tôi, tôi không
nghĩ rằng tất cả nét đẹp này ở đây là do tình
cờ”, Ý nghĩ này được bổ sung bởi sự
xác quyết của ông trong tác phẩm “L’infini
dans la paume de la main": "Tôi không thể
quan niệm rằng tất cả nét đẹp, sự hài hòa và
tính nhất thể của thế giới lại chỉ là do
may mắn". Sự xác định của ông nối kết với
lời tuyên bố nổi tiếng của Alfred Kastler,
Nobel Vật lý: "Ý nghĩ rằng thế giới, vũ trụ
vật chất, tự hình thành một mình đối với tôi là
vô lý. Tôi không quan niệm thế giới với chỉ
có một đấng sáng tạo duy nhất, nghĩa là một Thượng
đế". Nhưng cũng trong cuộc phỏng
vấn ông bảo rằng giã thuyết ngẫu nhiên vẫn luôn
có giá trị...
Ðúng như vậy. Ông đặt câu
hỏi về sự ngẫu nhiên và tất yếu, diện vẩn từ
thuật ngữ của Jacques Monod trong tác phẩm nổi
danh của ông ta năm 1971. Khoa học không thể vận hành
giữa sự tình cờ và tất yếu được. Vũ
trụ học hiện đại khám phá ra rằng vũ trụ đã
được điều động một cách vô cùng chính xác để
cho phép sự sống xuất hiện đầu tiên và tiếp theo
là trí thông minh, để cho con người có khả năng
cảm nhận sự hoà điệu và nét thẩm mỹ của vũ
trụ và để tự đặt ra câu hỏi về vũ trụ mình
đang sống. Bởi vì tất cả chúng ta đều sinh ra từ
những bụi sao, chúng ta được sinh ra từ vũ
trụ.
Khoa học thích giải thích sự
việc này hơn bằng cách trưng dẫn sự tình cờ.
Những mô hình của Big Bang chỉ rằng vũ trụ
của chúng ta như là một dấu vết trong muôn trùng
những dấu vết trong muôn nghìn thế giới. Trong tất
cả các vũ trụ khác đều xảy ra đủ loại phối
hợp của hằng số vật lý, của những quy luật
vật lý, của những điều kiện nguyên thủy đang điều
hợp sự tiến hoá vũ trụ. Người ta nhận
thấy nhờ dùng mô hình giả vũ trụ bằng máy vi tính,
bởi vì người ta không thể tái taọ Big Bang trong phòng
thí nghiệm, nếu người ta thay đổi một ít các
vật chất, quy luật vật lý hay hằng số vật lý thì
các tinh tú sẽ không xuất hiện: không có tinh tú, không
có nguyên tố nặng! Không có nguyên tố nặng thì không
có sự sống. Không có sự sống, sẽ không có
ý thức! Chúng ta được cấu tạo bởi carbon, oxygen.
Phải có những nguyên tố nặng mới tạo ra sự
sống và ý thức
Vũ trụ của chúng ta có những
sự phối hợp cho đời sống và sự khôn ngoan. Người
ta thấy rằng khi thay đổi một số ít phối hợp cho
tất cả những vũ trụ khác thì không nảy sinh ra
sự sống. Người ta có thể nói rằng, tình cờ vũ
trụ của chúng ta đã có những sự phối hợp chính
xác và gọi là chúng ta may mắn trúng số. Nhưng tất
cả mọi vũ trụ khác đều hoà toàn
không có sự sống và ý thức. Vậy sự ngẫu
nhiên có thể có trong khoa học, nhưng phải xem đó như
có vô số vũ trụ mà người ta gọi là muôn nghìn vũ
trụ. Khi ông không tin là có vô số vũ trụ, mà lại
tin chỉ có một vũ trụ, thì ông phải giải thích
sự vận hành này bằng cách dùng đến, có thể nguyên
tắc sáng tạo. Khoa học không phân biệt giữa hai
loại này. Muôn nghìn vũ trụ cũng như vũ trụ đều
có thể có trong khoa học. Phải đánh cuộc như Pascal
[3] . Phải đánh cuộc. Còn tôi, tôi cá là có một vũ
trụ duy nhất được điều hành bởi một nguyên
tắc sáng tạo, nhưng bằng sự lương thiện trí
thức, tôi nêu lên rằng khoa học phải kêu gọi thêm
một dụng cụ khác: sự ngẫu nhiên. Là người
nhạy cảm, tôi đánh cá có sự không-tình-cờ, ý nghĩa,
tất yếu.
Thưa Giáo sư, Thiên
văn học là lĩnh vực của ông. Ông đề
ra môt cuộc thảo luận với tiêu đề “Big bang và
sau đó? “. Big Bang đã được bao nhiêu lâu? và
làm thế nào Ông chắc chắn là vũ trụ có sự khai
nguyên?
Dựa theo những đo đạt
gần đây về các bức xạ hóa thạch mà người ta
nghĩ là Big Bang đi ngược về trước 14 tỉ năm.
Bằng cách quan sát người ta kê ra ba lập luận để
chứng minh Big Bang đã xảy ra.
Lập luận thứ nhất do Edwin Hubble, một nhà thiên văn
Mỹ, khai triển năm 1929, liên hệ tới thuyết bành
trướng vũ trụ. Nếu ông tính thời gian để cho
một thiên hà đi từ khởi điểm đến hiện điểm,
ông sẽ tìm ra rằng thời gian sẽ giống y hệt
nhau, bởi vì khoảng cách tỷ lệ với vận tốc.
Bằng chứng được xác minh: thiên hà ở càng xa trái
đất vận tốc di chuyển của nó càng tăng một cách
tỷ lệ.
Lập luận quan sát thứ hai là phù
hợp với sự khám phá về caí còn lại của
nhiệt độ khi tạo dựng, mà người ta gọi là
bức xạ hóa thạch, mà ta thấy khắp nơi trong vũ
trụ.
Bằng chứng thứ ba là tính
đồng thể của các nguyên tố hóa học. Người
ta nghĩ rằng Hydrogen và Helium chiếm 90% vũ trụ, được
hình thành ba phút sau Big Bang. Tất cả mọi nguyên
tố khác đều được hình thành đó trong lòng các ngôi
sao. Từ đó ta suy ra rằng nếu mọi
vật được làm bởi Hydrogen và nhất là Helium, tỷ
lệ hóa học phải đồng nhất khắp nơi. Mọi thiên
hà và tinh tú đều luôn luôn có suýt soát cùng
một tỷ lệ Helium hay Hydrogen.
Người ta có thể
hỏi ông rằng có cái gì trước Big Bang không và vũ
trụ sẽ tồn tại trong bao nhiêu lâu?
Câu hỏi “Có cái gì trước Big Bang không” không
đặt ra đúng lắm, bởi vì tất cả đều xảy
ra đồng thời với Big Bang. Nếu như không có thời
gian thì người ta cũng không thể nói về thời kỳ
trước thời gian được. Trước thời gian không có
thời gian. Dù sao đi nữa, người ta cũng không có
dụng cụ vật lý và toán học cần thiết cho việc này.
Hiện tại có hai thuyết diễn tả vũ trụ là thuyết
vô cùng lớn (thuyết Tương đối tổng quát của
Einstein) và thuyết vô cùng nhỏ (Cơ học lượng
tử), cả hai được nghĩ ra vào đầu thế kỷ
thứ XX. Hai thuyết này hãy còn tách biệt nhau,
phải nhập cho chúng làm một, đó là Trọng lực Lượng
tử, bởi vì trọng lực là căn bản của thuyết Tương
đối tổng quát. Nhưng người ta chưa tiến bộ
mấy trên con đường đưa chúng lại gần nhau. Vũ
trụ tồn tại trong bao lâu? Hiện tại người ta nghĩ
rằng có một vũ trụ phẳng, nghĩa là trương nở
vĩnh viễn.
Ông có chia sẻ mối bi quan
của nhà vật lý Louis Leprince-Ringuet về việc khảo
cứu khoa học, mặc dù có những tiến bộ vẻ
vang và sự phát tiển ngoại hạng của khoa học, người
nghiên cứu hiểu khoa học dễ dàng, nhưng nó không
mang đến một câu trả lời nào cho những vấn đề
trọng đại được đặt ra bời tư duy của con người,
từ khi con người hiện diện? Có phải khoa học bất
lực ở điểm này?
Tôi không chia sẻ ý kiến này. Ngược
lại, tôi nghĩ là chúng ta đã được học rất
nhiều. Lịch sử của Big Bang là một lịch sử
rực rỡ về nguồn gốc của nó, một lịch sử dài
14 tỉ năm mà mọi người, mọi môn khoa học khác
nhau, đều quy tụ nhau để xác minh, tinh lọc, để
viết một bức tranh lịch sử từ đó và đưa chúng
ta đến hôm nay. Và tất cả mọi việc đều
được tinh luyện ở thế kỷ thứ XX. Ngược lại, tôi
nghĩ là sự khảo cứu đã cho ta biết rất nhiều. Tôi
thực sự không chia sẻ mối bi quan này.
Chính ông, ông đã nói ở đâu đó
“Nhân loại chỉ là một hạt cát trên bãi vũ trụ
rộng lớn”. Có phải chăng nó mất giá trị và
đáng sợ?
Vâng, đúng thế. Ðó là phản
ứng mà người ta có thể có. Theo Vũ trụ học hiện
đai, ta phải đương đầu với sự thu hẹp chổ
ở của con người trong vũ trụ. Ðúng vậy, trái đất
chỉ là một trong các hành tinh trong số một trăm
triệu ngôi sao ở trong hàng trăm tỉ thiên hà.
Như vậy nghĩa là tổng cộng có 100 tỉ x 100
tỉ x 10 nếu một sao có 10 hành tinh. Có vô số hành
tinh, và con người đã bị thu nhỏ đi cả thời
gian lẫn không gian. Ta có thể lo lắng mà
la lên như Pascal đã từng than vào thế kỳ XVII:
“Sự im lặng vĩnh cửu của không gian vô tận làm
tôi sợ hãi”. Ông biết không, ngay cả khi người
ta chưa học hỏi được hết những gì từ tiếng thét
của Pascal, nhất là ỏ thế kỷ XX, tôi cũng không
chia sẻ với nỗi bi quan này. Vũ trụ học hiện đại
đã cho ta biết là vũ trụ đã điều khiển
một cách vô cùng chính xác cho sự nảy sinh sự
sống và con người, điều này cho tôi nghĩ rằng chính
chúng ta làm cho vũ trụ có ý nghĩa. Tạo ra
cái tuyệt đẹp và hài hòa để làm gì nếu không có
con người để quan sát nó? Một sự thông minh nào đó
phải xuất hiện, việc này trùng hợp với trường
hợp của chúng ta, bởi ta chưa khám phá ra những thông
minh ngoài trái đất. Từ đó, tôi hân hoan và nói cũng
như Paul Claudel: “Sự
lặng thinh vĩnh cửu của những không gian vô tận không
làm tôi sợ hãi nữa. Tôi đi dạo ở những nơi đó
với niềm tự tin quen thuộc. Chúng ta không
ở một góc mất hút của sa mạc hoang sơ và vô
dụng. Mọi nơi trong vũ trụ đều là anh em một
nhà với chúng ta”
Phật giáo là
một phần của đới sống của ông cũng như
khoa học. Ông thích hợp với mẫu người mà
nhà khoa học Werner von Braun, cha đẻ
của khoa Hàng không vũ trụ: “Con người cần lòng
tin như cần bánh mì, nước và không
khí.” Cùng với Matthieu Ricard, một nhà khoa
học đã nghiên cưú các kinh sách Tây Tạng và
đã quy y theo đạo Phật, Ông đã viết
quyển “L’infini dans la paume de
la main”, một đối thoại về khoa học và
đạo Phật. Sự đối thoại đó dựa trên căn bản
nào? Và cũng nên nêu lên rằng, ngược chiều
vớí cuộc hành trình của Matthieu Ricard, ông là một
Phật tử trở thành nhà khoa học...
Phật giáo không phải là một đức
tin thần khải, đó là một hệ thống tư tưởng
rất duy lý. Ðức Phật không phải là Thượng đế,
Ngài là hướng dẫn viên cho cuộc hành trình. Ngài đã
tìm ra chủ đích, đó là sự Giác Ngộ, và mỗi
con người chúng ta phải tự thể nghiệm lấy. Ðức
Phật nói: “Ðừng bao giờ tin lời ta nói. Phải
thực chứng cho riêng mình” Ta trở lại phương
thức cơ bản của khoa học: thí nghiệm. Phật giáo
rất vững vàng để đương đầu với khoa học.
Ông tự đặt mình
trong hai lãnh vực, bởi vì cả hai, khoa học
và Phật giáo, cùng đòi hỏi thí nghiệm?
Ðúng như vậy. Nhà khoa học làm những
cuộc quan sát, thí nghiệm. Trong Phật giáo, con
người tự thí nghiệm lấy chính mình. Họ tự tìm
lấy con đường của họ. Tôi đã đối
thoại với Matthieu Ricard, nói chung, chúng tôi đã tìm
ra rất nhiều sự đồng nhất. Thí dụ, khái
niệm về sự tương thuộc rất là cơ bản trong tin
ngưỡng Phật giáo. Khái niệm này thể hiện khắp muôn
nơi. Thí dụ trong khoa học hiện đại, người ta xác
định rằng chúng ta là những bụi sao, sinh ra từ ngôi
sao, phụ thuộc vào ngôi sao. Darwin tuyên bố là chúng
ta là bà con với động vật, với động vật linh trưởng,
vân vân.. Chúng ta đích thực là anh em của sư
tử trong đồng cỏ, chúng ta mang cùng chung với vũ
trụ một phả hệ. Một hạt cát mang tất cả lịch
sử vũ trụ và lịch sử này dẫn lối cho chúng ta.
Trong đạo Phật người ta cũng tìm
thấy khái niệm vô thường: tất cả đều chuyển động,
tất cả đếu thay đổi, tất cả đều tiến hóa, thì
đó cũng là thông điệp chính của khoa học. Các ngôi
sao đều có lịch sử riêng của chúng: chúng sinh ra,
sống và chết. Vũ trụ có một sự khai nguyên, một
hiện tại và một tương lai. Chúng ta già,
chúng ta thay đổi, núi mòn. Tất cả đều thay đổi,
tất cả đều chuyển động. Người ta gặp mọi
thứ này trong khoa học. Có sự đồng nhất quan
trọng giữa khoa học và đạo Phật. Như Einstein đã
nói quá đúng: «The religion of the future will be a
cosmic religion. It will have to transcend a personal God and
avoid dogma and theology. Encompassing both the natural and the
spiritual, it will have to be based on a religious sense arising
from the experience of all things, natural and spiritual,
considered as a meaningful unity... Buddhism answers this
description... If there is any religion that could respond to
the needs of modern science, it would be Buddhism.” [4]
Đỗ Kim Thêm kimthem_do@hotmail.com
[1] Tưa đề của người dich
[2] Origines, La Nostalgie des Commencements, Fayard, Octobre
2003
[3] Theo Pascal, người ta có thể đánh cuộc về niềm
tin có sự hiên hữu của Thuợng Ðế hay không
mà không lo sợ phải mất mát gì cà. Nếu ta thắng,
có nghiã là có Thượng Ðế, thì Thượng Ðế sẽ có
về mình; nếu thua, có nghĩa là không có Thượng Ðế,
thì người đánh cuộc cũng chẳng mất mát gì hết.
(Chú thích của người dịch)
[4] Anh ngữ trong nguyên bản (Chú thích của nguời
dich)