Một ngành khoa học cơ bản,
thực nghiệm và ứng dụng
Tại các nước tiên tiến, khoa học cơ bản thường được phát triển
song song với khoa học thực nghiệm và ứng dụng. Tách rời những
lĩnh vực này và chỉ quan tâm đến phát triển công nghiệp có
thể dẫn đến tình trạng mất cân bằng khiến cho sự phát triển
khoa học phải phụ thuộc vào nước ngoài. Để có được sự độc
lập về mặt khoa học, giáo dục và đào tạo chính là một nền
tảng quan trọng.
Thiên văn học là một ngành khoa học, tuy là cơ bản, nhưng có
những ứng dụng cụ thể liên quan đến sự sinh hoạt thường ngày
cuả con người. Nhờ có những định luật cơ học cuả Newton và
Kepler mà các nhà khoa học mới tính được quỹ đạo để phóng
những vệ tinh phục vụ ngành vô tuyến viễn thông, như vô tuyến
truyền hình và hệ thống điện thoại di động. Hệ định vị toàn
cầu nhằm xác định vị trí cuả tàu bè trên biển, máy bay trên
không gian và hướng dẫn người lái xe hơi len lỏi để tìm đường
phố trong những đô thị, có thể đạt được độ chính xác rất cao,
nếu thuyết tương đối cuả Einstein được áp dụng. Kỹ thuật hiện
đại làm kính thiên văn được dùng trong ngành y để chẩn đoán
bệnh trong võng mạc ở đáy mắt.
Thiên văn học cũng giải đáp được phần nào những thắc mắc siêu
hình và triết lý mà nhân loại ấp ủ từ thời xa xưa. Quan sát
bầu trời là để tìm hiểu nguồn gốc của vũ trụ và của loài
người, là để phát hiện những thế giới văn minh khác, nếu có,
trên những hành tinh xa xôi ở ngoài hệ mặt trời. Tại Việt Nam,
kiến trúc cuả quần thể Văn Miếu - Quốc tử Giám được coi là
dựa trên những quy luật của vũ trụ quan thiên văn - địa lý đời
xưa. Giếng Thiên Quang là cái gương phản chiếu ánh sáng mặt
trời và các vì sao trong vũ trụ. Giếng tượng trưng trái đất
vuông vắn như cái bàn cờ, theo quan niệm vũ trụ cổ xưa. Cửa sổ
hình tròn cuả Khuê Văn Các cũng có thể là để gợi hình
ảnh mặt trời hay bầu trời. Sao Khuê là một trong 28 chòm sao mà
người ta thường gọi là “Nhị thập bát tú”, rọi xuống trái đất
nhiều khí tốt lành. Do đó, trung tâm văn hóa Văn Miếu - Quốc tử
Giám được coi là nơi quy tụ những tinh hoa của vũ trụ.
Mục tiêu đầu tiên cuả ngành thiên văn vẫn là nghiên cứu những
hiện tượng trên bầu trời, sự sinh tử cuả những ngôi sao, của
những thiên hà và sự tiến hóa cuả toàn thể vũ trụ. Xác định
những điều kiện lý-hóa trong phòng thí nghiệm thiên nhiên vũ
trụ cũng là một đề tài không kém quan trọng cuả ngành thiên
văn vật lý. Vì bức xạ của những thiên hà xa xôi thu được trong
kính thiên văn và antenne rất yếu, nên các nhà thiên văn phải
dùng những kính thiên văn quang học và vô tuyến thật lớn cùng
những thiết bị điện tử tối tân để thu từng hạt photon. Họ còn
phóng vệ tinh lên không gian để tránh hiện tượng hỗn loạn trong
bầu khí quyển của trái đất làm hình những thiên thể kém phần
sắc nét. Kỹ thuật xây những kính thiên văn vừa lớn vừa nhẹ và
chế ra những máy điện tử thu tín hiệu ngày càng nhạy đã góp
phần vào sự phát triển ngành công nghệ tiên tiến.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các kỹ sư trước
kia đã từng làm nghĩa vụ quân sự phòng không và phát hiện tàu
chiến trên biển bằng radar, nay trở thành những nhà khoa học
tiên phong xây những antenne và máy điện tử để thu tín hiệu vô
tuyến trong vũ trụ. Ngành thiên văn vô tuyến đã được phát
triển, chính là nhờ những nỗ lực cuả các chuyên gia kỹ thuật
radar. Nhiều khám phá thiên văn quan trọng, như sự phát hiện bức
xạ phông vũ trụ, một bằng chứng thiết yếu củng cố thuyết Big
Bang, đã được thực hiện trên bước sóng vô tuyến. Sự cộng sinh
giữa khoa học cơ bản và khoa học kỹ thuật là yếu tố cần
thiết trong quá trình phát triển cuả ngành thiên văn hiện đại.

(a)

(b)
Hình 1: (a)
Hệ kính thiên văn vô
tuyến đặt tại Nançay, vùng đồng quê Sologne
(180 km về phía nam Paris), có 2 antenne khổng lồ đặt cách
xa nhau 460 m. Phía bên trái hình là antenne phẳng (kích thước
200 m
x 40 m) quay xung quanh một trục ngang
và phản chiếu tín hiệu vô tuyến vũ trụ vào antenne cong
(phía bên phải hình, kích thước 300 m
x
35 m). Tín hiệu được hội tụ vào
tiêu điểm (toà nhà thấp màu trắng ở giữa 2 antenne), nơi có
máy quang phổ thu và phân tích tín hiệu. (b) Hình
antenne cong, ở phía bên phải trong hình (a), được phóng to ra.
Hệ kính Nançay, thuộc Đài Thiên văn Paris, được dùng để thu tín
hiệu vô tuyến phát từ những pulsar, nhân cuả những ngôi sao đã
nổ, cùng những thiên hà xa xôi. Kính thiên văn vô tuyến Nançay đã
được Tổng thống Pháp, Charles de Gaulle, khánh thành mùa xuân năm
1965 (Hình Trung tâm thiên văn vô tuyến Nançay).


Các nhà thiên văn dùng những lý thuyết vật lý mới nhất cùng
những kết quả thu được bằng kính thiên văn để tìm hiểu nguồn
gốc và sự tiến hóa cuả vũ trụ. Những công trình quan sát đại
trà và những mô hình lý thuyết chạy liên tục hàng tháng trong
những siêu máy tính đã giúp các nhà thiên văn mô phỏng được
cấu trúc cuả toàn thể vũ trụ.

Hình 2:
Toàn cảnh của vũ trụ quan
sát trên bước sóng hồng ngoại: vũ trụ không đồng đều, những
thiên hà (những đốm xanh đỏ) quan sát trong vũ trụ tập trung
thành từng chùm chằng chịt như dây mạng nhện. Những chùm thiên
hà được hình thành từ những đám khí trong vũ trụ nguyên thủy:
trường hấp dẫn làm đám khí sập sụp và trở nên đặc dần.
Những thiên hà tượng trưng bằng những đốm đỏ ở xa hơn những
thiên hà tượng trưng bằng những đốm màu xanh. Vệt phẳng sáng
nằm ngang chính giữa là Dải Ngân hà (Hình T. Jarrett, IPAC,
Caltech).
Phổ biến khoa học cũng là một trong những nhiệm vụ cuả các
nhà khoa học. Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa cuả Liên hiệp Quốc) đã công bố năm 2009 là Năm Thiên văn
Quốc tế để kỷ niệm một sự kiện xẩy ra đúng 400 năm trước, khi
Galileo Galilei trở thành người đầu tiên sử dụng một chiếc kính
thiên văn để quan sát bầu trời. Nhân dịp này, UNESCO đã phối
hợp với Hội Thiên văn Quốc tế IAU (International Astronomical
Union) để tổ chức những hoạt động phổ biến thiên văn học trên
toàn cầu. Những thành viên trong Hội Thiên văn Quốc tế đều là
những nhà thiên văn chuyên nghiệp thuộc 87 quốc gia. Đối với
UNESCO, công việc giáo dục trong lĩnh vực khoa học vũ trụ là
động cơ thúc đẩy sự phát triển bền vững và sự tăng trưởng
kinh tế thế giới. Thiên văn học thường bị coi là một ngành khoa
học xa vời và các nhà thiên văn là những nhà khoa học tự
“nhốt” mình trong tháp ngà. Vậy nên qua những hoạt động phổ
biến thiên văn, dân chúng có thể ý thức được tác động thiết
thực cuả ngành thiên văn đối với đời sống thường ngày.
Nghiên cứu và giảng dạy môn
khoa học vũ trụ tại Pháp
Hiện nay trên thế giới, đặc biệt là nước Pháp, thiên văn học
không những là một môn khoa học cơ bản mũi nhọn đang được phát
triển mà còn được phổ biến rộng rãi thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng. Trước thời đại phát triển công nghiệp,
bầu trời ban đêm chưa bị ô nhiễm bởi ánh đèn cuả các đô thị,
nên đài thiên văn thường được xây tại những chốn phồn hoa đô
hội, nơi tập trung nhiều nhà khoa học. Tại nước Pháp nơi có
một truyền thống văn hóa và khoa học lâu đời, Đài Thiên
văn Paris đã trở thành trung tâm nghiên cứu vũ trụ cổ kính nhất
ở phương Tây. Đài được xây từ thế kỷ XVII dưới triều Vua Mặt
trời (Louis XIV). Vua đã triệu tập những nhà khoa học danh tiếng
ở châu Âu hồi đó, như nhà thiên văn kiêm nhà toán học người Ý,
Jean Dominique (JD) Cassini, để đến Đài Thiên văn Paris làm việc.
JD Cassini là vị giám đốc đầu tiên cuả Đài Thiên văn Paris. Trong
suốt một thế kỷ ròng rã, bốn thế hệ Cassini liên tục công tác
tại Paris và đã để lại nhiều công trình nghiên cứu thiên văn
làm rạng rỡ nền khoa học Pháp. Cũng tại đây, nhà vật lý nổi
tiếng người Pháp ở thế kỷ 19, Léon Foucault, đã áp dụng một
phương pháp độc đáo để đo tốc độ ánh sáng. Kết quả chỉ sai
khoảng 0,5% so với kết quả đo được bằng những thiết bị
hiện đại. Lần đầu tiên, Foucault cũng đã thực hiện tại Đài
Thiên văn Paris cuộc thí nghiệm dùng một quả lắc để chứng minh
là trái đất tự quay.

Hình 3:
Bảo tàng cuả Đài Thiên
văn Paris trưng bầy những kính thiên văn và những thiết bị
quang học cổ xưa.
Ngày nay, mỗi thành phố lớn ở Pháp đều có một đài thiên văn.
Đài Thiên văn Meudon ở ngoại thành Paris đã được sát nhập với
Đài Thiên văn Paris. Đài Thiên văn Paris - Meudon trở thành một
trong những đài thiên văn lớn nhất trên thế giới về mặt nhân
lực cũng như về mặt khoa học. Một phần ba các nhà thiên văn
Pháp công tác tại nơi đây. Đài Paris - Meudon không những là một
trung tâm nghiên cứu mà còn là một đại học đào tạo sinh viên
từ trình độ thạc sĩ đến tiến sĩ. Đài có những bộ môn liên
quan đến rất nhiều lĩnh vực, cả lý thuyết lẫn thực nghiệm,
như các môn nghiên cứu sự tiến hóa cuả mặt trời, cuả những
ngôi sao và những thiên hà, tìm hiểu nguồn gốc của vũ
trụ, phát hiện những siêu địa cầu và dấu vết cuả sư sống
trong Dải Ngân hà. Đài Thiên văn Paris - Meudon còn là nơi chế
tạo những thiết bị quang học để trang bị kính thiên văn. Những
buổi thuyết trình và những đêm quan sát bầu trời bằng kính
thiên văn cũng được tổ chức thường xuyên để phổ biến ngành
thiên văn cho quảng đại quần chúng.
Đài Thiên văn Paris còn được trao nhiệm vụ quản lý hệ thống
giờ quốc tế. Chu kỳ tự quay cuả trái đất được dùng để
đo thời gian. Tuy nhiên, các nhà thiên văn, khi sử dụng những
đồng hồ nguyên tử hiện đại cực kỳ chính xác, đã nhận thấy
là trái đất quay chậm dần. Lý do là vì trái đất bị ảnh
hưởng cuả trường hấp dẫn, chủ yếu là cuả mặt trăng và mặt
trời. Hiện tượng này hoạt động như một cái phanh. Do đó, hệ
giờ quốc tế dựa trên chu kỳ quay của trái đất có thể thay
đổi. Một hệ 250 đồng hồ nguyên tử trên thế giới, kể cả đồng
hồ của Đài Thiên văn Paris, được dùng làm chuẩn thời gian. Lần
cuối cùng giờ được điều chỉnh là vào những giây phút cuối
của năm 2008. Đúng 23 giờ 59 phút 59 giây (giờ quốc tế) ngày 31
tháng 12 năm 2008, đồng hồ đã được vặn chậm lại một giây: năm
2008 dài thêm một giây đồng hồ. Tuy sự thay đổi một giây là
không đáng kể và không có ảnh hưởng đến công việc thường ngày
của mọi người, nhưng đối với nhà thiên văn quan sát những thiên
thể trên bầu trời lại thành tối quan trọng.
Bầu trời ban đêm ở thành phố Paris cũng như ở đa số các đô thị
đều bị ô nhiễm bởi ánh đèn. Các trạm quan sát thiên văn trên
thế giới được đặt tại những vùng núi cao hẻo lánh rải rác
khắp năm châu. Các nhà thiên văn, không phân biệt quốc tịch, có
thể sử dụng những kính thiên văn lớn, nếu họ có những công
trình quan sát chính đáng được hội đồng các chuyên gia quốc tế
chấp nhận.
Phát triển thiên văn vật lý
tại Việt Nam
Việt Nam đ̣ã trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài trong
nhiều thập niên, nên đã phải có những biện pháp khẩn cấp để
đối phó với tình huống kinh tế khó khăn trong thời hậu chiến.
Đến nay, sự chấn hưng nền giáo dục và khoa học là điều cần
thiết và đã được bàn đến rất nhiều trong cộng đồng các nhà
khoa học trong và ngoài nước.
Vốn là một nhà thiên văn vật lý, tôi chỉ nêu lên một số vấn
đề liên quan đến lĩnh vực này. Vũ trụ là một môi trường trong
đó có đủ các hiện tượng lý-hóa mà chúng ta cần quan sát và
nghiên cứu để cũng thực hiện được trong phòng thí nghiệm trên
trái đất. Các nhà thiên văn tìm thấy trong Dải Ngân hà chất
hữu cơ HC11N thuộc loại cyanopolyyne, một hóa chất có
những chuỗi cacbon dài liên kết với nhau. Các nhà hóa học, khi
muốn tìm hiểu trong phòng thí nghiệm cơ chế hình thành cuả
cyanopolyyne, đã tình cờ chế ra chất fullerene có cấu trúc như
một quả bóng đá vi mô chứa toàn là nguyên tử cacbon. Chất
fullerene có độ bền rất cao và được dùng trong công nghệ nano.
Tìm hiểu cơ chế phát ra năng lượng trong lòng mặt trời và
những ngôi sao cũng giúp các nhà vật lý thực hiện được những
phản ứng nhiệt hạch giải phóng ra nhiều năng lượng hơn cả
những phản ứng phân hạch trong lò nguyên tử.
Việt Nam không nhất thiết phải xây những đài thiên văn đắt tiền
và những kính thiên văn lớn để quan sát vũ trụ. Các nhà thiên
văn toàn cầu là một cộng đồng không phân biệt biên giới. Trong
thời gian đầu chưa có thiết bị, các nhà thiên văn Việt Nam có
thể cộng tác với những đồng nghiệp nước ngoài và sử dụng
những kính thiên văn sẵn có trên thế giới. Họ không cần phải
đến tận đài quan sát, nhưng có thể theo dõi những buổi quan
sát từ xa trên máy tính và xử lý số liệu trong phòng thí
nghiệm trong nước. Họ cũng có thể dùng máy tính để lập ra
những mô hình lý thuyết nhằm giải thích những kết quả thu
được.
Điều cốt yếu là đào tạo đủ chuyên gia, dù phải gửi ra nước
ngoài, để sau khi về nước họ thành lập được một đội ngũ thiên
văn đầu ngành. Trước đây, ngành thiên văn vật lý ở Tây Ban Nha
hầu như không phát triển đáng kể. Nhưng chỉ trong ba thập niên,
họ đã gửi sinh viên đi du học tại các nước láng giềng có
truyền thống thiên văn, như Pháp và Đức. Hiện nay, Tây Ban Nha đã
có một đội ngũ thiên văn vô tuyến trẻ rất năng động và có uy
tín.
Hành trang cuả các nhà thiên văn vật lý rất đa dạng nên có
thể giúp họ hoạt động trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau.
Với sự hỗ trợ cuả Hội Thiên văn Quốc tế, chúng tôi đã tổ
chức những khoá học thiên văn vật lý tại Việt Nam. Từ năm 1996
đến năm 2005, chúng tôi đã vận động chính phủ Pháp để trao học
bổng cho sinh viên Việt Nam sang Đại học Paris 6 và Đài Thiên văn
Paris thực tập và làm luận án tiến sĩ về môn thiên văn vật
lý. Họ đã trở về nước công tác, trong số đó có những sinh
viên đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Paris. Tuy
nhiên, họ không tập trung ở một cơ quan để cùng cộng tác và
cũng không đủ đông để thành lập một bộ môn nghiên cứu thiên văn.
Đài thiên văn Phủ Liễn ở Kiến An, thành phố Hải Phòng, đã
được chính quyền Pháp xây vào đầu thế kỷ trước, chủ yếu là
để dự báo thời tiết và quan sát mặt trời. Giáo sư Nguyễn
Xiển là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên được cử làm giám đốc
Đài Phủ Liễn. Trong thời chiến, kính thiên văn và thiết bị
quang học đã được chuyển đi nơi khác. Hiện nay, nhiệm vụ chính
của Đài Phủ Liễn là theo dõi khí tượng. Khí hậu nhiệt đới
ẩm thấp ở Việt Nam không thuận lợi cho sự quan sát bầu trời
trong lĩnh vực quang học và trên những bước sóng ngắn milimet vô
tuyến. Đa số kính thiên văn vô tuyến hiện đại trên thế giới
hoạt động trên bước sóng milimet. Tuy nhiên, sóng vô tuyến trên
những bước sóng dài từ 10 cm trở lên có khả năng truyền tới
kính thiên văn, ngay cả khi có mưa, mà không bị khí quyển ẩm
ướt hấp thụ. Do đó, ngành thiên văn vô tuyến cũng có thể được
phát triển tại Việt Nam. Những nước ở vùng nhiệt đới như Ấn
Độ cũng đã xây những hệ giao thoa vô tuyến hoạt động trên những
bước sóng dài để thu bức xạ cuả nguyên tử hydro rất phổ biến
trong vũ trụ. Do sự dãn nở cuả không gian vũ trụ, vạch hydro
phát trên bước sóng 21 cm từ những thiên hà xa xôi đều dịch
chuyển về phía những bước sóng dài. Những kết quả quan sát
này giúp các nhà thiên văn tìm hiểu vũ trụ ở thời đại nguyên
thủy. Ấn Độ cũng là nơi sinh viên Việt Nam có thể thực tập
trong ngành thiên văn vô tuyến.
Cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là người đã quan tâm đến ngành thiên
văn nước nhà. Giáo sư là một nhà học giả uyên thâm, không những
chỉ trong lĩnh vực khoa học và làm lịch, mà còn đối với
những vấn đề văn hóa. Chúng tôi đã có dịp trao đổi với Giáo
sư Hãn về lịch sử thiên văn phương Đông để viết và xuất bản
những tác phẩm phổ biến khoa học.

(a)

(b)
Hình 4: (a)
Một cuộc gặp gỡ với cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (đứng bên phải)
nhân buổi Giáo sư đến tham quan Đài Thiên văn Paris - Meudon vào
năm 1987. Mái vòm cuả đài quan sát có đường kính 18 m đặt trên
nóc một tòa lâu đài cổ kính. (b) Dưới mái vòm có chiếc
kính thiên văn dài 16 m gồm hai thấu kính có đường kính 83 cm
và 62 cm. Kính thiên văn này hoạt động từ cuối thế kỷ 19 và
là một trong những kính thiên văn lớn nhất trên thế giới hồi
đó.
Trong khuôn khổ hợp tác khoa học giữa Đại học Quốc gia Hà Nội
với Đại học Paris, Pierre và Marie Curie, và Đài Thiên văn Paris,
chúng tôi đã tổ chức vào đầu tháng 11 năm 2010 một hội thảo
về môn khoa học vũ trụ và khí hậu học tại Việt Nam, nhân dịp
Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các nhà khoa học đầu ngành
của Pháp trình bày những kết quả mới nhất thu được bằng kính
thiên văn đặt trên mặt đất và phóng lên không gian, cùng khả năng
phát triển thiên văn học tại Việt Nam. Các nhà khoa học nhận
định rằng khí thải công nghiệp làm trái đất ngày càng nóng
lên và có khả năng biến thành một hành tinh khô cằn. Kỹ thuật
thám hiểm vũ trụ cũng được dùng để tiên đoán những diễn biến
cuả khí hậu.
Những cuộc thí nghiệm khoa học đơn giản và những buổi trình
diễn thiên văn dưới vòm nhà chiếu hình vũ trụ là những biện
pháp để nâng cao dân trí. Đã có một đề án Việt - Pháp để xây
tại thủ đô Hà Nội một Cung khoa học trong đó có nhà chiếu
hình vũ trụ, nhằm phổ biến khoa học cho quảng đại quần chúng.
Chúng tôi đã tham gia hoạt động tích cực trong nhiều năm nhằm
thực hiện đề án này. Nhưng cho đến nay, công trình xây dựng Cung
khoa học vẫn hãy còn tồn tại dưới dạng đồ án thiết kế.

Hình 5:
Đồ án xây Cung khoa học tại
thủ đô Hà Nội.
Sự thành công rực rỡ của ngành toán học Việt Nam là động cơ
thúc đẩy sự phát triển những ngành khoa học khác. Ngay từ bây
giờ, chúng ta cần đầu tư nhiều hơn trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, trước hết là để đuổi kịp các nước láng giềng và
sau là để đạt được đỉnh cao trong khoa học trên trường quốc tế.
Nguyễn Quang Riệu
Nguyên Giám đốc Nghiên cứu Emeritus tại Trung tâm Nghiên cứu CNRS
và Đài Thiên văn Paris
Bài cuả Nguyễn Quang
Riệu đăng trong Kỷ Yếu Humbold (Nhà Xuất bản Tri Thức, 2011) và
trong Diễn Đàn.