Những bài cùng đề tài
Thienvanhoc.org – Cuối tháng năm vừa qua, tại Hồng Kông, Quỹ Shaw đã
xướng danh người đạt Giải Shaw Thiên văn học 2012 là Giáo sư Lưu Lệ Hằng về
những đóng góp của cô trong việc định danh “các vật thể ngoài Hải Vương
tinh” (Trans-Neptunian Objects), viết tắt là TNOs.

Ảnh: ShawPrize
Giáo sư Jane X. Luu (Lưu Lệ Hằng) cùng với người thầy – đồng nghiệp của mình
là Giáo sư David C. Jewitt, Giám đốc Viện nghiên cứu thiên thể (Institute
for Planets and Exoplanets), Đại học California – Los Angeles, Hoa Kỳ đã đạt
giải Shaw với công trình khám phá ra các vật thể ngoài Hải Vương tinh (TNOs)
– những kho báu khảo cổ giúp chúng ta quay ngược thời gian về lúc hình thành
nên hệ Mặt trời và nguồn gốc của các sao chổi chu kỳ ngắn. Giải Shaw danh
giá được ví như là "Giải Nobel của châu Á", được bắt đầu trao tặng từ năm
2004. Giải trao cho các thành tựu nghiên cứu khoa học mới nhất trong các
lĩnh vực: thiên văn học, khoa học sự sống và y học, toán học. Điểm đặc biệt
là giải chỉ được trao cho các nhà khoa học còn sống (cho đến lúc ra quyết
định) giống như Giải Nobel. Giải Shaw mỗi năm gồm 3 triệu đô la Mỹ, chia đều
cho ba lĩnh vực khoa học được xét thưởng. Ngài Run Run Shaw, ông trùm truyền
thông Hồng Kông năm nay 105 tuổi là người bảo trợ cho giải thưởng này.
Nữ chủ nhân của "Giải Nobel Thiên văn học" thế giới
Trước đó, vào tháng 3 vừa qua, tại thủ đô Oslo của Na Uy, Quỹ Kavli cũng đã
công bố Giải Kavli năm 2012 cho bảy nhà khoa học tiên phong thuộc ba lĩnh
vực nghiên cứu hiện đại: vật lý thiên văn học (astrophysics), khoa học nano
(nanoscience) và thần kinh học (neuroscience). Giáo sư Lưu Lệ Hằng, nhà
thiên văn học Mỹ gốc Việt đã là một trong những chủ nhân của giải Kavli
thiên văn học năm nay. Giải Kavli được khởi xướng từ năm 2008 bởi nhà khoa
học người Na Uy Fred Kavli và Quỹ Kavli của ông. Một hội đồng chuyên gia
quốc tế đến từ nhiều viện nghiên cứu khác nhau trên thế giới sẽ lựa chọn và
hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu đoạt giải. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu sẽ
có 1 triệu đô la Mỹ tiền thưởng, chia đều cho các đồng chủ nhân giải thưởng.
Giải Kavli Thiên văn học được mệnh danh là "Giải Nobel Thiên văn học" của
thế giới. Giải thưởng Thiên văn học 2012 được trao cho công trình khám phá
ra vành đai Kuiper của ba nhà thiên văn học: David C. Jewitt, Đại học
California - Los Angeles (UCLA), Hoa Kỳ; Jane X. Lưu (Lưu Lệ Hằng), Phòng
thí nghiệm Lincoln, Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Hoa Kỳ; và
Michael E. Brown, Viện Công nghệ California (Caltech). Giải Kavli Thiên văn
học 2012 ghi nhận công trình khám phá ra vành đai Kuiper và những vật thể
lớn nhất của nó. Công trình này sẽ giúp ta có những bước tiến lớn trong việc
tìm hiểu lịch sử hệ Mặt trời. Một điều đáng chú ý là năm nay, "nóc nhà công
nghệ của thế giới" MIT có tới ba nhà khoa học nữ đoạt giải ở tất cả lĩnh vực
nghiên cứu.

Nhà thiên văn nữ gốc Việt Lưu Lệ Hằng (giữa) - đồng chủ nhân của giải
Kavli Thiên văn học 2012
Ảnh: KavliPrize
Trích:
Bài viết của GS Đàm Thanh Sơn
trên blog của ông sẽ giúp chúng ta có cái nhìn
tổng quan về công trình của GS Lưu Lệ Hằng và cộng sự:
Giả thuyết rằng hệ mặt trời không kết thúc ở Pluto (Diêm vương
tinh – NV) mà ngay rìa của hệ mặt trời còn có một vành đai các
tiểu hành tinh được Edgeworth và Kuiper đưa ra khoảng những năm
1943-1951. (Trung tá quân đội Anh Edgeworth là một nhân vật khá
thú vị, đã viết 4 cuốn sách về kinh tế học với những đầu đề như
Unemployment Can Be Cured, và chỉ bắt đầu nghiên cứu kinh tế học
và thiên văn học sau khi về hưu.) Chỉ đến năm 1992, vật thể đầu
tiên trong vành đai này mới được tìm ra bởi David Jewitt và Jane
Luu. Michael Brown, lúc đó là nghiên cứu sinh ở Berkeley, kể lại
như sau trong cuốn How I Killed Pluto and Why It Had It
Coming (tạm dịch Tôi đã khai tử Diêm vương tinh như thế nào –
NV):
“One afternoon, as on many times previous, after spending too
much time staring at data on my computer screen and reading
technical papers in dense journals and writing down thoughts and
ideas in my black bound notebooks, I opened the door of my
little graduate student office on the roof of the astronomy
building, stepped into the enclosed rooftop courtyard, and
climbed the metal stairs that went to the very top of the roof
to an open balcony. As I stared at the San Francisco Bay laid
out in front of me, trying to pull my head back down to the
earth by watching the boats blowing across the water, Jane Luu,
a friend and researcher in the astronomy department who had an
office across the rooftop courtyard, clunked up the metal stairs
and looked out across the water in the same direction I was
staring. Softly and conspiratorially she said, “Nobody knows it
yet, but we just found the Kuiper belt.”
I could tell that she knew she was onto something big, could
sense her excitement, and I was flattered that here she was
telling me this astounding information that no one else knew.
“Wow,” I said. “What’s the Kuiper belt?”
It’s funny today to think that I had no idea what she was
talking about…”

Vành đai Kuiper – tranh của Don Dixon
Michael Brown sau này tìm thêm nhiều vật thể trong vành đai
Kuiper, trong đó có vật thể còn to hơn Pluto. Sự tìm ra hàng
loạt các vật thể mới dẫn đến việc Pluto không còn được coi là
hành tinh nữa.
Người ta nghĩ là các sao chổi có chu kỳ nhỏ (< 200 năm) có nguồn
gốc từ vành đai Kuiper, còn các sao chổi có chu kỳ cao hơn có
nguồi gốc từ một cái gọi là đám mây Oort (Oort Cloud – NV) xa
mặt trời hơn nhiều (gấp 1000 lần vành đai Kuiper). Đám mây Oort
tới nay vẫn còn là giả thuyết. |
Công trình lịch sử của thiên văn học hiện đại
Bên ngoài quỹ đạo của Hải Vương tinh là vành đai Kuiper (Kuiper Belt hay còn
được biết đến với cái tên vành đai Edgeworth – Kuiper). Đây là một dĩa gồm
hơn 70 ngàn vật thể nhỏ cấu thành bởi đá và băng, có đường kính trên 100km
và quay xung quanh Mặt trời. Giải Kavli Thiên văn học 2012 vinh danh hai nhà
thiên văn đã khám phá ra vành đai Kuiper là GS David Jewitt và GS Lưu Lệ
Hằng; cùng với một nhà khoa học khác – GS Michael Brown đã khám phá ra rất
nhiều vật thể lớn trong vành đai này. Khám phá của các nhà thiên văn học này
là kết quả của những chiến dịch quan sát tinh tế nhằm tìm ra những phân loại
mới cho các vật thể ở xa (hơn các hành tinh) trong hệ Mặt trời. Nghiên cứu
của họ đòi hỏi những thủ thuật đầy sáng tạo, sự kiên trì không mệt mỏi và
một sự cởi mở đón chào những điều không như mong đợi.

Ảnh: KavliFoundation
Các vật thể trong vành đai Kuiper (Kuiper Belt Objects) là những tàn tích
vật chất nguyên sơ của thời kỳ đầu hình thành hệ Mặt trời, khi khí, bụi và
băng đá trong vũ trụ bồi tụ nên những hành tinh khí khổng lồ (Mộc tinh, Thổ
tinh, Thiên vương tinh và Hải vương tinh). Mặc dù những gã khổng lồ này quét
sạch toàn bộ vật chất ban đầu ở xung quanh chúng nhưng người ta nghĩ rằng
vành đai Kuiper nằm khá xa quỹ đạo của những hành tinh khổng lồ và ẩn chứa
những tàn tích hoá thạch sau quá trình hình thành các hành tinh. Do đó,
thành phần cấu tạo và đặc điểm quỹ đạo của chúng cung cấp những bằng chứng
độc nhất vô nhị về các giai đoạn tiên khởi của hệ Mặt trời.
Michael Brown đã thiết kế nên và bổ sung vào đề tài Khảo sát các vùng rộng
lớn (tạm dịch từ Caltech Wide-Area Survey – NV) – công trình quan sát một
vùng rộng đến 20 ngàn độ vuông mặt phẳng của hệ Mặt trời. Ông đã tối ưu hoá
đề tài này để tìm kiếm các vật thể có khối lượng lớn nhất trong vành đai
Kuiper. GS Brown cũng đã khám phá ra Quaoar (năm 2002), Makemake (2005),
Eris (2005) và rất nhiều vật thể lớn khác trong vành đai Kuiper. Điều này
minh chứng rằng Diêm vương tinh không đơn độc, nó là một trong số những đối
tượng ông tìm kiếm. Nhờ các vật thể lớn nhất của vành đai này cũng là một
trong những vật thể sáng nhất nên người ta có thể dùng quang phổ kế để định
lượng thành phần cấu tạo nên bề mặt của chúng.
Một khám phá không kém phần quan trọng khác của GS Brown là vật thể Sedna.
Mất 10 ngàn năm quay quanh Mặt trời, Sedna có một quỹ đạo bị kéo dài và
thuôn nhọn ở hai đầu. Điểm cực cận của Sedna với mặt trời bằng khoảng 76 đơn
vị thiên văn AU (tức bằng 76 lần khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời) và
rộng hơn gấp đôi quỹ đạo của Hải vương tinh. Đã có tranh luận sôi nổi về
nguồn gốc của Sedna và hai giải thuyết thú vị được đưa ra là quỹ đạo của
Sedna có thể đã bị kéo giãn ra bởi một ngôi sao xẹt ngang hoặc nó có thể đã
bị hệ Mặt trời của chúng ta “bắt cóc” từ một hệ mặt trời khác.
Ảnh: NASA/JPL-Caltech/R. Hurt (SSC-Caltech)
Hình vẽ đầu tiên cho chúng ta thấy quỹ đạo của các hành tinh rắn thuộc hệ
Mặt trời (trong đó có Trái đất) và vành đai tiểu hành tinh nẳm giữa Hoả tinh
và Mộc tinh. Trong hình thứ hai, ta có thể thấy Sedna nằm ngoài quỹ đạo của
các hành tinh khí và các vật thể trong vành đai Kuiper. Toàn bộ quỹ đạo của
Sedna được minh hoạ trong hình thứ ba với tỉ lệ tương ứng thực tế cùng vị
trí hiện tại của nó. Sedna đang ở gần điểm cực cận với Mặt trời và quỹ đạo
11,400 năm của nó quanh Mặt trời sẽ còn đưa nó đi xa hơn nhiều. Hình cuối
cùng cho ta cái nhìn xa nhất có thể về một quỹ đạo hình bầu dục, nằm gọn
trong cái mà chúng ta đã từng nghĩ là rìa phía trong của đám mây Oort. Đám
mây Oort là một tập hợp hình cầu của các vật thể băng giá, nằm ở vùng giới
hạn xa nhất lực hấp dẫn của Mặt trời.
Hai giải thưởng hàng đầu thế giới về thiên văn học năm 2012 cùng trao cho
một đề tài về vành đai Kuiper hay rộng hơn là các vật thể ngoài Hải Vương
tinh đã tái khẳng định nghị quyết của Hiệp hội Thiên văn quốc tế (IAU) đưa
ra vào 2006, trong đó đưa ra 3 điều kiện rõ ràng cho khái niệm “hành tinh”
và từ đó “giáng cấp” Diêm vương tinh xuống thành một hành tinh lùn. Đây cũng
là đòn quyết định làm tiêu tan những hy vọng mong manh cuối cùng của luồng ý
kiến phản đối nghị quyết năm 2006 của IAU. Có lẽ những ai phản ứng với việc
“giáng cấp” Diêm vương tinh sẽ phải cất cái tên “Diêm Vương tinh – một trong
9 hành tinh của hệ Mặt trời” vào kỷ niệm. Dù vậy, Diêm vương tinh chắc sẽ
không buồn tí nào vì gia đình “hành tinh lùn” mới toe của nó đã có tới 5
thành viên và chắc chắn sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong thời gian tới.
Trích:

Ảnh: Kavli Foundation
Giáo sư Lưu Lệ Hằng, tên nhập quốc tịch Hoa Kỳ là Jane X. Luu,
sinh năm 1963 và sang Mỹ từ năm 1975. Cô học trò gốc Việt sau đó
giành được học bổng ngành vật lý tại Đại học Stanford. Sau khi
tốt nghiệp vào năm 1984, cô tân cử nhân đã dành mùa hè thảnh
thơi của mình để bắt đầu học lên cao học tại Đại học California
– Berkeley, cùng lúc đó cô làm việc cho Phòng thí nghiệm sức đẩy
phản lực (Jet Propulsion Laboratory) ở Pasadena. Thích thú trước
những bức tường treo đầy hình ảnh các hành tinh do tàu nghiên
cứu không gian Voyager gửi về, Lưu Lệ Hằng quyết định theo đuổi
ngành thiên thể học. Sau khi hoàn thành cao học tại Berkeley, cô
lấy bằng tiến sĩ ở MIT. Trong thời gian ở MIT, cô cùng với
nghiên cứu sinh David Jewitt làm đề tài Khảo sát các vật thể di
chuyển chậm (Slow-Moving Objects) ngoài hệ Mặt trời.
Sau đó Lưu Lệ Hằng tham gia giảng dạy tại Đại học Harvard rồi
chuyển sang Đại học Leiden ở Hà Lan. Khi quay về Mỹ, cô tạm xả
hơi chuyên ngành thiên văn quan sát của mình và công tác tại
Phòng thí nghiệm Lincoln của MIT cho đến nay. Cô hiện đang
nghiên cứu các giải pháp công nghệ cho vấn đề an ninh quốc gia
của Hoa Kỳ. Vào năm 1991, Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ đã trao giải
Annie J. Cannon Award Thiên văn học cho cô. Để ghi nhận công lao
của cô trong việc khám phá ra hơn 30 tiểu hành tinh, người ta
lấy tên cô đặt cho tiểu hành tinh 5430 Luu. Năm nay – 2012 quả
là năm của người phụ nữ gốc Việt khi cái tên Lưu Lệ Hằng được
xướng danh ở cả hai giải thưởng thiên văn học danh giá nhất thế
giới.
Năm 1996, nhà báo khoa học Marcia Bartusiak đã viết về
hành trình tuyệt vời của GS Lưu Lệ Hằng
khi cô còn giảng dạy tại Đại học Harvard. Vì sao lại là "hành
trình tuyệt vời"? Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, cô là Học giả sau
tiến sĩ Hubble (Hubble Postdoctoral Fellowship) - phần thưởng
danh giá nhất cho các nhà nghiên cứu trẻ trình độ sau tiến sĩ.
|
VietAstro
Theo KavliPrize, ShawPrize, Science, MIT
|