Thuật ngữ lỗ đen còn rất mới. Nó được nhà khoa
học người Mỹ John Wheeler đưa ra vào năm 1969 nhằm
mô tả một cách hình tượng một ý tưởng bắt
nguồn ít nhất khoảng 200 năm trước, vào thời mà còn
có hai lý thuyết về ánh sáng: một lý thuyết được
Newton ủng hộ cho rằng ánh sáng được tạo thành
từ các hạt, còn lý thuyết kia cho rằng nó được
tạo thành từ các sóng.
Hiện nay ta biết rằng cả hai lý
thuyết trên đều đúng. Theo quan điểm nhị nguyên sóng/hạt
của cơ học lượng tử, thì ánh sáng có thể xem như
vừa là sóng vừa là hạt. Theo lý thuyết sóng về ánh
sáng thì không rõ nó sẽ phản ứng thế nào đối
với hấp dẫn. Nhưng nếu ánh sáng được tạo thành
từ các hạt thì người ta có thể nghĩ rằng nó sẽ
bị tác động bởi hấp dẫn hệt như các viên đạn
đại bác, tên lửa và các hành tinh. Ban đầu người
ta tưởng rằng ánh sáng truyền với vận tốc lớn vô
hạn và như thế thì hấp dẫn không thể nào làm cho
nó chậm lại được, nhưng phát minh của Roemer cho
thấy ánh sáng truyền với vận tốc hữu hạn, điều
đó có nghĩa là hấp dẫn có thể có tác động quan
trọng.
Dựa trên giải thuyết đó, một
giảng viên của Đại học Cambridge là John Michell đã
viết một bài báo in trên tạp chí “những văn
kiện triết học của Hội Hoàng gia London”
(Philosophical Transaction of the Royal Society of London) vào
năm 1783, trong đó ông chỉ ra rằng một ngôi sao đủ
nặng và đặc có thể có trường hấp dẫn mạnh
tới mức không cho ánh sáng thoát ra được: bất kỳ
ánh sáng nào phát ra từ bề mặt ngôi sao đó cũng đều
bị kéo ngược trở lại trước khi nó kịp truyền
đi rất xa. Michell cho rằng có thể có một số rất
lớn những sao như vậy. Mặc dù
chúng ta không thể nhìn thấy những ngôi sao đó bởi
vì ánh sáng từ những ngôi sao đó không đến được
chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cảm thấy được lực hút
hấp dẫn của chúng. Những đối tượng đó là cái
bây giờ chúng ta gọi là lỗ đen, bởi vì thực tế
chúng là những khoảng đen trong vũ trụ.
Một giả thuyết
tương tự cũng được một nhà khoa học người Pháp
là hầu tước de Laplace đưa ra sau đó ít năm, tất
nhiên là độc lập với Michell.
Một điều khá lý thú là Laplace chỉ đưa ra
giả thuyết này vào lần xuất bản thứ nhất và
thứ hai của cuốn sách “Hệ thống thế giới”, nhưng
rồi lại bỏ đi trong những lần xuất bản sau,
chắc ông cho rằng đó là một ý tưởng điên rồ.
(Cũng như lý thuyết hạt của ánh sáng không được
ủng hộ trong suốt thế kỷ 19, và dường như mọi
chuyện đều có thể giải thích bằng lý thuyết sóng,
nhưng theo lý thuyết sóng thì hoàn toàn không rõ ánh
sáng bị hấp dẫn tác động như thế nào).
Thực tế, xem ánh
sáng như những viên đạn đại bác trong lý thuyết
hấp dẫn của Newton là hoàn toàn không thích hợp
bởi vì ánh sáng có vận tốc cố định.
(Một viên đạn đại bác khi bắn lên từ mặt đất
sẽ bị lực hấp dẫn làm cho chuyển động chậm
lại và cuối cùng sẽ dừng lại và rơi xuống, trong
khi đó hạt photon vẫn phải tiếp tục bay lên với
vận tốc không đổi. Vậy thì lực hấp dẫn của
Newton làm thế nào có thể tác động tới ánh sáng?).
Phải mãi cho tới khi Einstein đưa ra thuyết tương đối
rộng vào năm 1915, ta mới có một lý thuyết nhất quán
cho biết hấp dẫn tác động như thế nào đến ánh
sáng. Và thậm chí ngay cả khi đó cũng phải mất
một thời gian sau người ta mới hiểu được những
hệ quả của lý thuyết đối với các sao nặng.
Để hiểu một lỗ đen có thể được
hình thành như thế nào, trước hết chúng ta phải
hiểu vòng đời của một ngôi sao. Một ngôi sao được
hình thành khi một lượng lớn khí (mà chủ yếu là
hydro) bắt đầu co lại do lực hút hấp dẫn của chính
mình. Và vì khi các khối khí co lại, nên các nguyên
tử khí va chạm nhau thường xuyên hơn và ngày càng có
vận tốc lớn hơn dẫn tới khối khí nóng lên.
Cuối cùng, khối khí sẽ nóng tới mức khi các nguyên
tử hydro va chạm nhau chúng sẽ không rời nhau ra nữa
mà liên kết với nhau thành nguyên tử heli. Nhiệt
giải phóng ra từ phản ứng này - giống như vụ nổ
của bom khinh khí - sẽ làm cho ngôi sao phát sáng. Lượng
nhiệt đó cũng làm tăng áp suất của khối khí cho
tới khi đủ để cân bằng với lực hút hấp dẫn và
khối khí ngừng co lại. Điều này cũng hơi giống
với trường hợp quả khí cầu, trong đó có sự cân
bằng giữa áp suất của không khí bên trong có xu hướng
làm cho quả khí cầu phồng ra và sức căng của vỏ
cao su có xu hướng làm cho nó co lại. Những ngôi sao
sẽ còn ổn định như thế một thời gian dài với
nhiệt từ các phản ứng hạt nhân tỏa ra cân bằng
với lực hút hấp dẫn. Tuy nhiên, cuối cùng rồi các
ngôi sao cũng sẽ dùng hết số khí hydro và các nhiên
liệu hạt nhân của nó. Một điều thật nghịch lý
là các ngôi sao càng có nhiều nhiên liệu lúc bắt đầu
thì sẽ hết càng sớm. Đó là bởi vì ngôi sao càng
nặng thì nó phải càng nóng để cân bằng với lực
hút hấp dẫn. Mà nó đã càng nóng thì sẽ dùng hết
số nhiên liệu của nó càng nhanh. Mặt trời của chúng
ta có lẽ còn đủ nhiên liệu cho khoảng gần năm ngàn
triệu năm nữa, nhưng những ngôi sao nặng hơn có
thể dùng hết nhiên liệu của chúng chỉ trong
khoảng một trăm triệu năm, ít hơn tuổi của vũ
trụ rất nhiều. Khi một ngôi sao hết nhiên liệu, nó
sẽ lạnh đi và co lại. Chỉ cuối những năm 20, người
ta mới hiểu được điều gì xảy ra đối với nó
khi đó.
Năm 1928 một sinh viên Ấn Độ mới
tốt nghiệp đại học tên là Subrahmanyan Chandrasekhar
đã dong thuyền tới nước Anh để theo học nhà thiên
văn ngài Arthur Eddington, một chuyên gia về thuyết tương
đối rộng ở Cambridge. (Theo một số dư luận, thì
một nhà báo vào đầu những năm 20 có nói với
Eddington, rằng ông ta nghe nói cả thế giới chỉ có
ba người hiểu được thuyết tương đối rộng.
Eddington im lặng một lát rồi nói: “Tôi còn đang
cố nghĩ xem người thứ ba là ai”). Trong suốt
chuyến chu du của mình từ Ấn Độ, Chandrasekhar đã
giải quyết được vấn đề: một ngôi sao có thể
lớn tới mức nào để khi đã sử dụng hết nhiên
liệu vẫn chống chọi được với lực hấp dẫn riêng
của nó.
Ý tưởng
của ông như sau:
khi một ngôi sao
trở nên nhỏ, các hạt vật chất sẽ ở rất gần
nhau, và vì vậy theo nguyên lý loại trừ Pauli, chúng
cần phải có vận tốc khác nhau. Điều này
làm cho chúng chuyển động ra xa nhau và vì thế có xu
hướng làm cho sao giãn nở ra. Do đó một ngôi sao có
thể tự duy trì để có một bán kính không đổi
bằng cách giữ cân bằng giữa lực hút hấp dẫn và
lực đẩy xuất hiện do nguyên lý loại trừ, hệt như
ở giai đoạn đầu trong cuộc đời của nó lực
hấp dẫn được cân bằng bởi nhiệt.
Tuy nhiên, Chandrasekhar thấy rằng lực
đẩy do nguyên lý loại trừ tạo ra có một giới
hạn. Lý thuyết tương đối rộng đặt một giới
hạn cho sự khác biệt cực đại về vận tốc của
các hạt vật chất trong các ngôi sao - đó là vận
tốc của ánh sáng. Điều này có nghĩa là khi một ngôi
sao đủ đặc, lực đẩy gây bởi nguyên lý loại
trừ sẽ nhỏ hơn lực hút hấp dẫn. Chandrasekhar tính
ra rằng một ngôi sao lạnh có khối lượng lớn hơn
khối lượng mặt trời chừng 1,5 lần sẽ không thể
tự chống chọi nổi với lực hấp dẫn riêng của nó.
(Khối lượng này hiện nay được gọi là giới hạn
Chandrasekhar). Phát minh tương tự cũng được nhà khoa
học người Nga Lev Davidovich Landau đưa ra vào cùng
thời gian đó.
Điều này có những hệ quả quan
trọng đối với số phận tối hậu của các ngôi
sao nặng. Nếu khối lượng của một ngôi sao nhỏ hơn
giới hạn Chandrasekhar, thì cuối cùng nó cũng có
thể ngừng co lại và yên phận ở trạng thái cuối
cùng khả dĩ như “một sao lùn trắng” với bán kính
chỉ khoảng vài ngàn dặm và mật độ khoảng vài trăm
tấn trong một inch khối. Sao lùn trắng chống đỡ
được với lực hút hấp dẫn là bởi lực đẩy do
nguyên lý loại trừ sinh ra giữa các electron trong
vật chất của nó. Chúng ta đã quan sát được một
số khá lớn những sao lùn trắng này. Một trong
những sao lùn đầu tiên quan sát được là ngôi sao
quay xung quanh sao Thiên Lang (Sirius) - ngôi sao sáng
nhất trên bầu trời đêm.
Landau chỉ ra rằng còn có một trạng
thái cuối cùng khả dĩ nữa cho các ngôi sao có khối
lượng giới hạn cỡ 1 đến 2 lần lớn hơn khối lượng
mặt trời nhưng có kích thước còn nhỏ hơn cả các
sao lùn trắng nhiều. Các sao này chống chọi được
với lực hút hấp dẫn, bởi lực đẩy do nguyên lý
loại trừ tạo ra giữa các neutron và proton lớn hơn
là giữa các electron. Do đó chúng được gọi là các
sao neutron. Chúng có bán kính chỉ cỡ mươi dặm và có
mật độ cỡ vài trăm triệu tấn trên một inch
khối. Khi sao neutron lần đầu tiên được tiên đoán,
người ta không có cách nào quan sát được chúng và
thực tế mãi rất lâu về sau người ta cũng không phát
hiện được.
Trái lại, những
ngôi sao có khối lượng lớn hơn giới hạn
Chandrasekhar lại có vấn đề rất lớn đặt ra khi chúng
đã dùng hết nhiên liệu. Trong một số trường
hợp chúng có thể nổ hoặc điều chỉnh để rút
bớt đi một lượng vật chất đủ để làm giảm
khối lượng của nó xuống dưới giới hạn và như
vậy sẽ tránh được tai họa co lại do hấp dẫn.
Tuy nhiên, thật khó lòng tin được rằng điều này
luôn luôn xảy ra bất kể ngôi sao lớn tới mức nào.
Vả lại, làm sao biết được nó cần phải giảm
trọng lượng? Và cho dù mọi ngôi sao đều biết điều
chỉnh giảm khối lượng đủ để tránh được quá
trình co lại thì điều gì sẽ xảy ra nếu ta thêm
khối lượng cho một sao lùn trắng hoặc sao neutron để
khối lượng của nó lớn hơn khối lượng giới
hạn? Liệu nó có co lại tới mật độ vô hạn không?
Eddington đã bị “sốc” bởi hệ quả đó và ông
đã chối bỏ không tin kết quả của Chandrasekhar.
Eddington nghĩ rằng đơn giản là không thể có một
ngôi sao có thể co lại thành một điểm được. Đó
cũng là quan điểm của đa số các nhà khoa học. Chính
Einstein cũng viết một bài báo trong đó ông tuyên
bố rằng một ngôi sao không thể co lại tới kích thước
bằng 0 được! Trước sự chống đối của các nhà
khoa học khác, mà đặc biệt là Eddington - vừa là
thầy giáo cũ vừa là người có uy tín hàng đầu
về cấu trúc các sao, Chandrasekhar đành bỏ phương hướng
nghiên cứu đó của mình và chuyển sang nghiên cứu
những vấn đề khác trong thiên văn học như sự
chuyển động của các cụm sao. Tuy nhiên, khi ông được
trao giải thưởng Nobel vào năm 1938, thì ít nhất cũng
một phần là do công trình đầu tay của ông về
khối lượng giới hạn của các sao lạnh.
Chandrasekhar đã chứng minh được
rằng nguyên lý loại trừ không thể ngăn chặn được
sự co lại của các ngôi sao có khối lượng lớn hơn
giới hạn Chandrasekhar, nhưng vấn đề hiểu được
điều gì sẽ xảy ra đối với những sao như vậy
theo thuyết tương đối rộng thì phải tới năm 1939
mới được nhà khoa học trẻ người Mỹ là Robert
Oppenheimer giải quyết lần đầu tiên. Tuy nhiên, kết
quả của ông cho thấy rằng không có một hệ quả
quan sát nào có thể phát hiện được bằng các kính
thiên văn thời đó. Rồi chiến tranh thế giới thứ
2 xảy ra, và chính Oppenheimer lại cuốn hút vào dự
án bom nguyên tử. Sau chiến tranh, vấn đề sự co
lại do hấp dẫn bị lãng quên vì đa số các nhà
khoa học bắt đầu lao vào các hiện tượng xảy ra
trong quy mô nguyên tử và hạt nhân của nó. Tuy nhiên,
vào những năm 60 sự quan tâm tới các vấn đề ở
thang vĩ mô của thiên văn học và vũ trụ học lại
sống dậy vì số lượng cũng như tầm quan sát thiên
văn tăng lên rất lớn, do việc áp dụng những công
nghệ hiện đại. Công trình của Oppenheimer khi đó
lại được phát hiện lại và được mở rộng thêm
bởi nhiều người khác.
Phần II
[...] Kỳ dị luôn luôn nằm
ở tương lai chứ không bao giờ nằm ở quá khứ
của anh ta. Giả thuyết kiểm duyệt vũ trụ mạnh phát
biểu rằng trong nghiệm hiện thực thì các kỳ dị
luôn luôn hoặc hoàn toàn nằm trong tương lai (như các
kỳ dị do quá trình co lại do hấp dẫn) hoặc hoàn
toàn nằm trong quá khứ (như vụ nổ lớn). [...]
Bức tranh mà hiện nay chúng ta có
từ công trình của Oppenheimer như sau: trường hấp
dẫn của ngôi sao làm thay đổi đường truyền
của các tia sáng trong không-thời gian. Các nón ánh
sáng - chỉ đường truyền trong không-thời gian
của các chớp sáng được phát ra từ đỉnh của nón
- sẽ hơi bị uốn vào phía trong, phía gần với
bề mặt của sao. Điều này có thể thấy được
theo quỹ đạo cong của tia sáng phát từ những ngôi
sao xa trong quá trình nhật thực. Vì ngôi sao nặng
đang co lại, nên trường hấp dẫn ở bề mặt
của nó ngày càng mạnh và nón ánh sáng càng bị
uốn cong vào phía trong. Điều này làm cho tia sáng
ngày càng khó thoát khỏi ngôi sao, và ánh sáng sẽ
ngày càng mờ đi và đỏ hơn đối với người quan
sát từ xa.
Cuối cùng, khi
ngôi sao đã co tới một bán kính tới hạn nào đó,
trường hấp dẫn ở bề mặt của nó trở nên
mạnh tới mức nón ánh sáng bị uốn vào phía trong
nhiều đến nỗi ánh sáng không thể thoát ra được
nữa

|
Khi ngôi sao đã co tới một bán
kính tới hạn nào đó, trường hấp dẫn ở
bề mặt của nó trở nên mạnh tới mức nón
ánh sáng bị uốn vào phía trong nhiều đến
nỗi ánh sáng không thể thoát ra được
nữa. |
(hình 6.1). Theo thuyết tương đối thì không có gì
có thể chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Vì vậy,
nếu ánh sáng không thể thoát ra được, thì cũng
không có gì có thể thoát được ra; tất cả đều
bị trường hấp dẫn kéo lại. Do đó, ta có một
tập các sự cố, tức là một vùng trong không-thời
gian, mà không có gì có thể thoát ra từ đó để
đến được với người quan sát từ xa. Vùng này
chính là cái mà người ta gọi là lỗ đen. Biên
của vùng này được gọi là chân trời sự cố, và
nó trùng với đường truyền của các tia sáng vừa
chớm không thoát ra được khỏi lỗ đen.
Để hiểu được điều mà bạn sẽ
thấy nếu bạn đang quan sát sự co lại của một ngôi
sao để tạo thành lỗ đen, thì cần nhớ rằng trong
thuyết tương đối không có khái niệm thời gian
tuyệt đối. Mỗi một người quan sát có độ đo
thời gian riêng của mình. Thời gian đối với người
ở trên một ngôi sao sẽ khác thời gian của người
ở xa, do có trường hấp dẫn của các ngôi sao. Giả
sử có một nhà du hành vũ trụ quả cảm ở ngay trên
bề mặt một ngôi sao đang co lại vào phía trong của
nó, cứ mỗi một giây theo đồng hồ của anh ta lại
gửi về con tàu đang quay quanh ngôi sao đó một tín
hiệu. Ở thời điểm nào đó theo đồng hồ của anh
ta, ví dụ lúc 11 giờ, ngôi sao co lại dưới bán kính
tới hạn - kích thước mà ở đó trường hấp dẫn
bắt đầu mạnh tới mức không gì có thể thoát được
ra, - và như vậy, các tín hiệu của nhà du hành không
tới được con tàu nữa. Khi tới gần 11 giờ, các đồng
nghiệp của nhà du hành quan sát từ con tàu thấy
khoảng thời gian giữa hai tín hiệu liên tiếp do nhà
du hành gửi về ngày càng dài hơn, nhưng trước 10
giờ 59 phút 59 giây hiệu ứng đó rất nhỏ. Họ
chỉ phải đợi hơn một giây chút xíu giữa tín
hiệu mà nhà du hành gửi về lúc 10 giờ 59 phút 58 giây
và tín hiệu anh ta gửi về lúc đồng hồ anh ta chỉ
10 giờ 59 phút 59 giây, nhưng họ sẽ phải đợi vĩnh
viễn viễn tín hiệu gửi lúc 11 giờ. Các sóng ánh sáng
được phát từ bề mặt ngôi sao trong khoảng thời
gian giữa 10 giờ 59 phút 59 giây và 11 giờ theo đồng
hồ của nhà du hành sẽ được truyền qua một
khoảng thời gian vô hạn, nếu đo từ con tàu.
Khoảng thời gian giữa hai sóng ánh sáng liên tiếp
tới con tàu mỗi lúc một dài hơn, do đó ánh sáng
từ ngôi sao mỗi lúc một đỏ và nhợt nhạt hơn. Cuối
cùng, ngôi sao sẽ mờ tối tới mức từ con tàu không
thể nhìn thấy nó nữa; tất cả những cái còn lại
chỉ là một lỗ đen trong không gian. Tuy
nhiên, ngôi sao vẫn tiếp tục tác dụng một lực
hấp dẫn như trước lên con tàu làm cho nó vẫn
tiếp tục quay xung quanh lỗ đen.
Thực ra, kịch bản này không phải hoàn
toàn là hiện thực vì vấn đề sau: Lực hấp dẫn càng
yếu khi bạn càng ở xa ngôi sao, vì vậy lực hấp
dẫn tác dụng lên chân nhà du hành vũ trụ quả cảm
của chúng ta sẽ luôn luôn lớn hơn lực tác dụng lên
đầu của anh ta. Sự khác biệt về lực đó sẽ kéo
dài nhà du hành vũ trụ của chúng ta giống như một
sợi mì hoặc xé đứt anh ta ra trước khi ngôi sao co
tới bán kính tới hạn, tại đó chân trời sự cố
được hình thành! Tuy nhiên, chúng ta tin rằng trong vũ
trụ có những vật thể lớn hơn rất nhiều, chẳng
hạn như những vùng trung tâm của các thiên hà, cũng
có thể co lại do hấp dẫn để tạo thành các lỗ
đen; một nhà du hành vũ trụ ở trên một trong các
vật thể đó sẽ không bị xé đứt trước khi lỗ
đen được tạo thành. Thực tế, anh ta sẽ chẳng
cảm thấy gì đặc biệt khi đạt tới bán kính tới
hạn, và có thể vượt điểm-không-đường-quay-lại
mà không nhận thấy. Tuy nhiên, chỉ một ít giờ sau,
khi vùng đó tiếp tục co lại, sự khác biệt về
lực hấp dẫn tác dụng lên chân và đầu sẽ lại
trở nên mạnh tới mức nó sẽ xé đứt người anh
ta.
Công trình mà Roger Penrose và tôi tiến
hành giữa năm 1965 và 1970 chứng tỏ, rằng theo
thuyết tương đối rộng, thì cần phải có một kỳ
dị với mật độ và độ cong không-thời gian vô
hạn bên trong lỗ đen. Điều này khá giống với vụ
nổ lớn ở điểm bắt đầu, chỉ có điều ở đây
lại là thời điểm cuối của một vật thể cùng nhà
du hành đang co lại. Ở kỳ
dị này, các định luật khoa học và khả năng tiên
đoán tương lai đều không dùng được nữa. Tuy nhiên,
một người quan sát còn ở ngoài lỗ đen sẽ không
bị ảnh hưởng bởi sự mất khả năng tiên đoán đó
vì không một tín hiệu nào hoặc tia sáng nào từ điểm
kỳ dị đó tới
được anh ta. Sự kiện đáng chú ý đó đã
dẫn Roger Penrose tới giả thuyết về sự kiểm
duyệt vũ trụ - một giả thuyết có thể phát biểu
dưới dạng “Chúa căm ghét sự kỳ dị trần
trụi”. Nói một cách khác, những kỳ dị được
tạo ra bởi sự co lại do hấp dẫn chỉ xảy ra ở
những nơi giống như lỗ đen - nơi mà chúng được
che giấu kín đáo bởi chân trời sự cố không cho người
ngoài nhìn thấy. Nói một cách chặt chẽ thì đây là
mới là giả thuyết về sự kiểm duyệt vũ trụ
yếu: nó bảo vệ cho những người quan sát còn ở
ngoài lỗ đen tránh được những hậu quả do sự
mất khả năng tiên đoán xảy ra ở điểm kỳ dị,
nhưng nó hoàn toàn không làm được gì cho nhà du hành
bất hạnh đã bị rơi vào lỗ đen.
Có một số nghiệm của các phương trình
của thuyết tương đối rộng, trong đó nó cho phép
nhà du hành của chúng ta có thể nhìn thấy điểm
kỳ dị trần trụi: như vậy anh ta có thể tránh không
đụng vào nó và thay vì anh ta có thể rơi qua một cái
“lỗ sâu đục” và đi ra một vùng khác của vũ
trụ. Điều này tạo ra những khả năng to lớn cho
việc du hành trong không gian và thời gian, nhưng thật
không may, những nghiệm đó lại rất không ổn định;
chỉ cần một nhiễu động nhỏ, ví dụ như sự có
mặt của nhà du hành, là đã có thể làm cho chúng
thay đổi tới mức nhà du hành không còn nhìn thấy
kỳ dị nữa cho tới khi chạm vào nó và thời gian
của anh ta sẽ chấm hết. Nói
cách khác, kỳ dị luôn luôn nằm ở tương lai chứ
không bao giờ nằm ở quá khứ của anh ta. Giả
thuyết kiểm duyệt vũ trụ mạnh phát biểu rằng
trong nghiệm hiện thực thì các kỳ dị luôn luôn
hoặc hoàn toàn nằm trong tương lai (như các kỳ dị
do quá trình co lại do hấp dẫn) hoặc hoàn toàn nằm
trong quá khứ (như vụ nổ lớn). Người ta
rất hy vọng một trong hai giả thuyết kiểm duyệt là
đúng, bởi vì ở gần các kỳ dị trần trụi sẽ có
thể chu du về quá khứ. Trong khi điều này thật
tuyệt vời đối với các nhà viết truyện khoa học
viễn tưởng thì nó cũng có nghĩa là cuộc sống
của bất kỳ ai đều không an toàn: một kẻ nào đó
có thể mò về quá khứ giết chết bố hoặc mẹ
của bạn trước khi bạn được đầu thai!
Chân trời sự cố, biên của vùng không
- thời gian mà từ đó không gì thoát ra được, có tác
dụng như một màng một chiều bao quanh lỗ đen: các
vật, tỷ như nhà du hành khinh suất của chúng ta, có
thể rơi vào lỗ đen qua chân trời sự cố, nhưng không
gì có thể thoát ra lỗ đen qua chân trời sự cố
(cần nhớ rằng chân trời sự cố là đường đi
trong không-thời gian của ánh sáng đang tìm cách thoát
khỏi lỗ đen, và không gì có thể chuyển động
nhanh hơn ánh sáng). Có thể dùng lời của thi sĩ
Dante nói về lối vào địa ngục để nói về chân
trời sự cố: “Hỡi những người bước vào đây hãy
vứt bỏ mọi hy vọng!”. Bất kỳ cái gì hoặc bất
kỳ ai, một khi đã rơi qua chân trời sự cố thì
sẽ sớm tới vùng có mật độ vô hạn và, chấm
hết thời gian.
Thuyết tương đối rộng tiên đoán
rằng các vật nặng khi chuyển động sẽ phát ra sóng
hấp dẫn - những nếp gợn trong độ cong của không
gian truyền với vận tốc của ánh sáng. Những sóng
này tương tự như các sóng ánh sáng, là những gợn
sóng của trường điện từ, nhưng sóng hấp dẫn khó
phát hiện hơn nhiều. Giống như ánh sáng, sóng hấp
dẫn cũng mang năng lượng lấy từ các vật phát ra nó.
Do đó, hệ thống các vật nặng cuối cùng sẽ an bài
ở một trạng thái dừng nào đó bởi vì năng lượng
ở bất cứ dạng vận động nào đều được các sóng
hấp dẫn mang đi. (Điều này gần tương tự với
việc ném một cái nút xuống nước. Ban đầu, nó
dập dềnh khá mạnh, nhưng rồi vì các gợn sóng mang
dần đi hết năng lượng của nó, cuối cùng nó an bài
ở một trạng thái dừng). Ví dụ, chuyển động
của trái đất xung quanh mặt trời tạo ra các sóng
hấp dẫn. Tác dụng của việc
mất năng lượng sẽ làm thay đổi quỹ đạo trái đất,
làm cho nó dần dần tiến tới gần mặt trời hơn,
rồi cuối cùng chạm mặt trời và an bài ở một
trạng thái dừng. Tuy nhiên, tốc độ mất năng lượng
của trái đất và mặt trời rất thấp: chỉ cỡ đủ
để chạy một lò sưởi điện nhỏ.
Điều này có nghĩa là phải mất gần một ngàn
triệu triệu triệu triệu năm trái đất mới đâm vào
mặt trời và vì vậy chúng ta chẳng có lý do gì để
lo lắng cả! Sự thay đổi quỹ đạo của trái đất
cũng rất chậm khiến cho khó có thể quan sát được,
nhưng chính hiện tượng này đã được quan sát
thấy ít năm trước trong hệ thống có tên là PSR
1913+16 PSR là tên viết tắt của một pulsar (pulsar là
chuẩn tinh: một loại sao neutron đặc biệt có khả năng
phát đều đặn các xung sóng radio). Hệ thống này
gồm hai sao neutron quay xung quanh nhau và sự mất năng
lượng do phát sóng hấp dẫn làm cho chúng chuyển động
theo đường xoắn ốc hướng vào nhau
Trong quá trình co lại do hấp dẫn
của một ngôi sao để tạo thành một lỗ đen, các
chuyển động sẽ nhanh hơn nhiều và vì vậy tốc độ
năng lượng được chuyển đi cũng cao hơn nhiều. Do
vậy mà thời gian để đạt tới sự an bài ở một
trạng thái dừng sẽ không quá lâu. Vậy cái giai đoạn
cuối cùng này nhìn sẽ như thế nào? Người ta cho
rằng, nó sẽ phụ thuộc vào tất cả các đặc tính
của ngôi sao. Có nghĩa là, nó không chỉ phụ thuộc
vào khối lượng và tốc độ quay, mà còn phụ
thuộc vào những mật độ khác nhau của các phần
tử khác nhau của ngôi sao và cả những chuyển động
phức tạp của các khí trong ngôi sao đó nữa. Và
nếu các lỗ đen cũng đa dạng như những đối tượng
đã co lại và tạo nên chúng thì sẽ rất khó đưa
ra một tiên đoán nào về các lỗ đen nói chung.
Tuy nhiên, vào năm 1967, một nhà khoa
học Canada tên là Werner Israel (ông sinh ở Berlin, lớn
lên ở Nam Phi, và làm luận án tiến sĩ ở Ireland) đã
tạo ra một bước ngoặt trong việc nghiên cứu các
lỗ đen. Israel chỉ ra rằng, theo thuyết tương đối
rộng thì các lỗ đen không quay là rất đơn giản;
chúng có dạng cầu lý tưởng và có kích thước
chỉ phụ thuộc vào khối lượng của chúng; hai lỗ
đen như thế có khối lượng như nhau là hoàn toàn đồng
nhất với nhau.
Thực tế, những lỗ đen này có thể
được mô tả bằng một nghiệm riêng của phương trình
Einstein đã được biết từ năm 1917, do Karl
Schwarzchild tìm ra gần như ngay sau khi tuyết tương đối
rộng được phát minh. Thoạt đầu, nhiều người,
thậm chí ngay cả Israel, lý luận rằng, vì các lỗ
đen cần phải có dạng cầu lý tưởng nên chúng
chỉ có thể được tạo thành từ sự co lại của
đối tượng có dạng cầu lý tưởng. Mà một ngôi
sao chẳng bao giờ có thể có dạng cầu lý tưởng
được, nên nó chỉ có thể co lại để tạo thành
một kỳ dị trần trụi mà thôi.
Tuy nhiên, có một cách giải thích khác
cho kết quả của Israel mà Roger Penrose và đặc biệt
là John Wheeler rất ủng hộ. Họ lý luận rằng,
những chuyển động nhanh trong quá trình co lại có
nghĩa là các sóng hấp dẫn do nó phát ra sẽ làm cho
nó có dạng cầu hơn và vào thời điểm an bài ở
trạng thái dừng nó có dạng chính xác là cầu. Theo
quan điểm này thì một ngôi sao không quay, bất kể hình
dạng và cấu trúc bên trong phức tạp của nó, sau
khi kết thúc quá trình co lại do hấp dẫn đều là
một lỗ đen có dạng cầu lý tưởng với kích thước
chỉ phụ thuộc vào khối lượng của nó. Những tính
toán sau này đều củng cố cho quan điểm này và
chẳng bao lâu sau nó đã được mọi người chấp
nhận.
Kết quả của Israel chỉ đề cập trường
hợp các lỗ đen được tạo thành từ các vật thể
không quay. Năm 1963 Roy Kerr người New Zealand đã tìm
ra một tập hợp nghiệm của các phương trình của
thuyết tương đối mô tả các lỗ đen quay. Các lỗ
đen “Kerr” đó quay với vận tốc không đổi, có kích
thước và hình dáng chỉ phụ thuộc vào khối lượng
và tốc độ quay của chúng. Nếu tốc độ quay bằng
không, lỗ đen sẽ là cầu lý tưởng và nghiệm này
sẽ trùng với nghiệm Schwarzchild. Nếu tốc độ quay
khác 0, lỗ đen sẽ phình ra phía ngoài ở gần xích
đạo của nó (cũng như trái đất và mặt trời đều
phình ra do sự quay của chúng), và nếu nó quay càng
nhanh thì sự phình ra sẽ càng mạnh. Như vậy, để
mở rộng kết quả của Israel cho bao hàm được cả
các vật thể quay, người ta suy đoán rằng một vật
thể quay co lại để tạo thành một lỗ đen cuối cùng
sẽ an bài ở trạng thái dừng được mô tả bởi
nghiệm Kerr.
Năm 1970, một đồng nghiệp và cũng là
nghiên cứu sinh của tôi, Brandon Carter đã đi được
bước đầu tiên hướng tới chứng minh suy đoán trên.
Anh đã chứng tỏ được rằng với
điều kiện lỗ đen quay dừng có một trục đối
xứng, giống như một con quay, thì nó sẽ có kích thước
và hình dạng chỉ phụ thuộc vào khối lượng và
tốc độ quay của nó. Sau đó vào năm 1971,
tôi đã chứng minh được rằng bất kỳ một lỗ đen
quay dừng nào đều cần phải có một trục đối
xứng như vậy. Cuối cùng, vào năm 1973, David Robinson
ở trường Kings College, London đã dùng kết quả của
Carter và tôi chứng minh được rằng ước đoán nói
trên là đúng. Những lỗ đen như vậy thực sự là
nghiệm Kerr. Như vậy, sau khi co lại do hấp dẫn, lỗ
đen sẽ an bài trong trạng thái có thể quay nhưng không
xung động. Hơn nữa, kích thước hình dạng của nó
chỉ phụ thuộc vào khối lượng và tốc độ quay
chứ không phụ thuộc vào bản chất của vật thể
bị co lại tạo nên nó. Kết
quả này được biết dưới châm ngôn: “lỗ đen không
có tóc”. Định lý “không có tóc” này có
một tầm quan trọng thực tiễn to lớn bởi nó hạn
chế rất mạnh các loại lỗ đen lý thuyết. Do vậy,
người ta có thể tạo ra những mô hình chi tiết
của các vật có khả năng chứa lỗ đen và so sánh
những tiên đoán của mô hình với quan sát. Điều này
cũng có nghĩa là một lượng rất lớn thông tin về
vật thể co lại sẽ phải mất đi khi lỗ đen được
tạo thành, bởi vì sau đấy tất cả những thứ mà
ta có thể đo được về vật thể đó chỉ là khối
lượng và tốc độ quay của nó. Ý nghĩa của điều
này sẽ được thấy rõ ở chương sau.
Phần III
Các lỗ đen chỉ là một trong số rất
ít các trường hợp trong lịch sử khoa học, trong đó
lý thuyết đã được phát triển rất chi tiết như
một mô hình toán học trước khi có những bằng
chứng từ quan sát xác nhận nó là đúng đắn.
Thực tế, điều này đã được dùng
như một luận cứ chủ yếu của những người phản
đối lỗ đen: làm sao người ta có thể tin rằng có
những vật thể mà bằng chứng về sự tồn tại
của nó chỉ là những tính toán dựa trên lý thuyết
tương đối rộng, một lý thuyết vốn đã đáng
ngờ? Tuy nhiên, vào năm 1963, Maarten Schmidt, một nhà
thiên văn làm việc ở Đài thiên văn Palomar,
Caliornia, Mỹ, đã đo được sự chuyển dịch về phía
đỏ của một đối tượng mờ tựa như sao theo hướng
một nguồn phát sóng radio có tên là 3C273 (tức là
số của nguồn là 273 trong catalogue thứ 3 ở
Cambridge). Ông thấy sự chuyển dịch này là quá
lớn, nếu xem nó do trường hấp dẫn gây ra: nếu đó
là sự chuyển dịch về phía đỏ do trường hấp
dẫn gây ra thì đối tượng đó phải rất nặng và
ở gần chúng ta tới mức nó sẽ làm nhiễu động
quỹ đạo của các hành tinh trong Hệ mặt trời. Điều
này gợi ý rằng sự chuyển dịch về phía đỏ này
là do sự giãn nở của vũ trụ và vì vậy đối tượng
đó phải ở rất xa chúng ta. Để thấy được ở
một khoảng cách xa như thế vật thể đó phải rất
sáng hay nói cách khác là phải phát ra một năng lượng
cực lớn. Cơ chế duy nhất mà con người có thể nghĩ
ra để miêu tả một năng lượng lớn như thế, là
sự co lại do hấp dẫn không phải chỉ của một ngôi
sao mà của cả vùng trung tâm của thiên hà. Nhiều đối
tượng “tương tự sao” (chuẩn tinh), hay nói cách
khác là các quasar, cũng đã được phát hiện. Tất
cả đều có chuyển dịch lớn về phía đỏ. Nhưng
tất cả chúng đều ở quá xa, khó quan sát để cho
một bằng chứng quyết định về các lỗ đen.
Sự cổ vũ tiếp
theo cho sự tồn tại của các lỗ đen là phát minh
của Jocelyn Bell, một nghiên cứu sinh ở Cambridge, về
những thiên thể phát các xung radio đều đặn.
Thoạt đầu, Bell và người hướng dẫn của chị là
Antony Hewish, nghĩ rằng có lẽ họ đã liên lạc được
với một nền văn minh lạ trong thiên hà! Thực tế,
trong buổi seminar khi họ thông báo phát minh của họ,
tôi nhớ là họ đã gọi bốn nguồn phát sóng radio
đầu tiên đó là LGM 1-4 với LGM là viết tắt của
“Little Green Men” (những người xanh nhỏ). Tuy nhiên,
cuối cùng họ và mọi người đều đi đến một
kết luận ít lãng mạn hơn cho rằng những đối tượng
đó - có tên là pulsar - thực tế là những sao neutron
quay, có khả năng phát các xung sóng radio, do sự tương
tác phức tạp giữa các từ trường của nó với
vật chất xung quanh. Đây là một tin không mấy vui
vẻ đối với các nhà văn chuyên viết về các
chuyện phiêu lưu trong vũ trụ, nhưng lại đầy hy
vọng đối với một số ít người tin vào sự tồn
tại của lỗ đen thời đó: đây là bằng chứng xác
thực đầu tiên về sự tồn tại của các sao
neutron. Sao neutron có bán kính
chừng mười dặm, chỉ lớn hơn bán kính tới hạn
để ngôi sao trở thành một lỗ đen ít
lần. Nếu một sao có thể co lại tới
một kích thước nhỏ như vậy thì cũng không có lý
do gì mà những ngôi sao khác không thể co lại tới
một kích thước còn nhỏ hơn nữa để trở thành
lỗ đen.
Làm sao chúng ta có thể hy vọng phát
hiện được lỗ đen, khi mà theo chính định nghĩa
của nó, nó không phát ra một tia sáng nào? Điều này
cũng na ná như đi tìm con mèo đen trong một kho than.
May thay vẫn có một cách. Như John Michell đã chỉ
ra trong bài báo tiên phong của ông viết năm 1983,
lỗ đen vẫn tiếp tục tác dụng lực hấp dẫn lên
các vật xung quanh. Các nhà thiên văn đã quan sát
được nhiều hệ thống, trong đó có hai sao quay
xung quanh nhau và hút nhau bằng lực hấp dẫn. Họ cũng
quan sát được những hệ thống, trong đó chỉ có
một sao thấy được quay xung quanh sao đồng hành
(không thấy được). Tất nhiên, người ta không
thể kết luận ngay rằng sao đồng hành đó là
một lỗ đen, vì nó có thể đơn giản chỉ là
một ngôi sao phát sáng quá yếu nên ta không thấy
được. Tuy nhiên, có một số trong các hệ thống
đó, chẳng hạn như hệ thống có tên là Cygnus X-1

|
Hệ thống Cygnus X-1 có nguồn phát
tia X mạnh (mũi tên trắng). |
(hình 6.2) cũng là những nguồn phát tia X rất
mạnh. Cách giải thích tốt nhất cho hiện tượng này
là vật chất bị bắn ra khỏi bề mặt của ngôi
sao nhìn thấy. Vì lượng vật chất này rơi về phía
đồng hành không nhìn thấy, nên nó phát triển thành
chuyển động theo đường xoắn ốc (khá giống như
nước chảy ra khỏi bồn tắm) và trở nên rất nóng,
phát ra tia X (hình 6.3). Muốn cho cơ chế này hoạt
động, sao đồng hành không nhìn thấy phải rất
nhỏ, giống như sao lùn trắng, sao neutron hoặc lỗ
đen. Từ quỹ đạo quan sát được của ngôi sao nhìn
thấy, người ta có thể xác định được khối lượng
khả dĩ thấp nhất của ngôi sao đồng hành không
nhìn thấy. Trong trường hợp hệ thống Cygnus X-1
sao đó có khối lượng lớn gấp 6 lần mặt trời.
Theo kết quả của Chandrasekhar thì như thế là quá
lớn để cho sao không nhìn thấy là một sao lùn
trắng. Nó cũng có khối lượng quá lớn để là
sao neutron. Vì vậy, nó dường như phải là một
lỗ đen...
Cũng có những mô
hình khác giải thích rằng Cygnus X-1 không bao gồm
lỗ đen, nhưng tất cả những mô hình đó đều rất
gượng gạo. Lỗ đen là cách giải thích thực sự
tự nhiên duy nhất những quan trắc đó. Mặc
dù vậy, tôi đã đánh cuộc với Kip Thorne ở Viện
kỹ thuật California, rằng thực tế Cygnus X-1 không
chứa lỗ đen! Đây chẳng qua chỉ là sách lược
bảo hiểm cho tôi. Tôi đã tốn biết bao công sức
cho những lỗ đen và tất cả sẽ trở nên vô ích,
nếu hóa ra là các lỗ đen không tồn tại. Nhưng khi
đó tôi sẽ được an ủi là mình thắng cuộc và điều
đó sẽ mang lại cho tôi bốn năm liền tạp chí
Private Eye. Nếu lỗ đen tồn tại thì Kip được 1 năm
tạp chí Penthouse. Khi chúng tôi đánh cuộc vào năm
1975 thì chúng tôi đã chắc tới 80% rằng Cygnus là
lỗ đen. Và bây giờ tôi có thể nói rằng chúng tôi
đã biết chắc tới 95%, nhưng cuộc đánh cuộc vẫn
chưa thể xem là đã ngã ngũ.
Giờ đây chúng ta cũng có bằng chứng
về một số lỗ đen khác trong các hệ thống giống
như Cygnus X-1 trong thiên hà của chúng ta và trong hai
thiên hà lân cận có tên là Magellanic Clouds. Tuy
nhiên, số các lỗ đen chắc còn cao hơn nhiều; trong
lịch sử dài dằng dặc của vũ trụ nhiều ngôi sao
chắc đã đốt hết toàn bộ nhiên liệu hạt nhân
của mình và đã phải co lại. Số các lỗ
đen có thể lớn hơn nhiều so với số những ngôi
sao nhìn thấy, mà chỉ riêng trong thiên hà của chúng
ta thôi số những ngôi sao đó đã tới khoảng một
trăm ngàn triệu. Lực hút hấp dẫn phụ thêm của
một số lớn như thế các lỗ đen có thể giải thích
được tại sao thiên hà của chúng ta lại quay với
tốc độ như nó hiện có: khối lượng của các sao
thấy được không đủ để làm điều đó. Chúng ta
cũng có một số bằng chứng cho thấy rằng có một
lỗ đen lớn hơn nhiều ở trung tâm thiên hà của chúng
ta với khối lượng lớn hơn khối lượng của mặt
trời tới trăm ngàn lần. Các ngôi sao trong thiên hà
tới gần lỗ đen đó sẽ bị xé tan do sự khác
biệt về hấp dẫn ở phía gần và phía xa của nó.
Tàn tích của những ngôi sao đó và khí do các sao khác
tung ra đều sẽ rơi về phía lỗ đen. Cũng như trong
trường hợp Cygnus X-1, khí sẽ chuyển động theo đường
xoắn ốc đi vào và nóng lên mặc dù không nhiều như
trong trường hợp đó. Nó sẽ không đủ nóng để phát
ra các tia X, nhưng cũng có thể là các nguồn sóng
radio và tia hồng ngoại rất đậm đặc mà người ta
đã quan sát được ở tâm thiên hà.
Người ta cho rằng những lỗ đen tương
tự hoặc thậm chí còn lớn hơn, với khối lượng
khoảng trăm triệu lần lớn hơn khối lượng mặt
trời có thể gặp ở tâm các quasar. Vật chất rơi vào
những lỗ đen siêu nặng như vậy sẽ tạo ra một
nguồn năng lượng duy nhất đủ lớn để giải thích
lượng năng lượng cực lớn mà các vật thể đó phát
ra. Vì vật chất chuyển động xoáy ốc vào lỗ đen,
nó sẽ làm cho lỗ đen quay cùng chiều tạo cho nó
một từ trường khá giống với từ trường của trái
đất. Các hạt có năng lượng rất cao cũng sẽ được
sinh ra gần lỗ đen bởi vật chất rơi vào. Từ trường
này có thể mạnh tới mức hội tụ được các hạt
đó thành những tia phóng ra ngoài dọc theo trục quay
của lỗ đen, tức là theo hướng các cực bắc và
nam của nó. Các tia như vậy thực tế đã được
quan sát thấy trong nhiều thiên hà và các quasar.
Người ta cũng có
thể xét tới khả năng có những lỗ đen với khối
lượng nhỏ hơn nhiều so với khối lượng mặt
trời. Những lỗ đen như thế không thể
được tạo thành bởi sự co lại do hấp dẫn, vì
khối lượng của chúng thấp hơn giới hạn
Chandrasekhar: Các sao có khối lượng thấp đó tự nó
có thể chống chọi được với lực hấp dẫn thậm
chí cả khi chúng đã hết sạch nhiên liệu hạt nhân.
Do vậy, những lỗ đen khối lượng thấp đó chỉ có
thể được tạo thành nếu vật chất của nó được
nén đến mật độ cực lớn bởi một áp lực rất
cao từ bên ngoài. Điều kiện như thế có thể xảy
ra trong một quả bom khinh khí rất lớn: nhà vật lý
John Wheeler một lần đã tính ra rằng nếu ta lấy toàn
bộ nước nặng trong tất cả các đại dương thì ta
có thể chế tạo được quả bom khinh khí có thể nén
được vật chất ở tâm mạnh tới mức có thể
tạo nên một lỗ đen. (Tất nhiên sẽ chẳng còn ai
sống sót mà quan sát điều đó!). Một khả năng khác
thực tiễn hơn là các lỗ đen có khối lượng thấp
có thể được tạo thành dưới nhiệt độ và áp
suất cao ở giai đoạn rất sớm của vũ trụ. Mặt
khác những lỗ đen chỉ có thể tạo thành nếu vũ
trụ ở giai đoạn rất sớm không trơn tru và đều
đặn một cách lý tưởng, bởi vì chỉ cần một vùng
nhỏ có mật độ lớn hơn mật độ trung bình là có
thể bị nén theo cách đó để tạo thành lỗ đen. Nhưng
chúng ta biết rằng nhất thiết phải có một số
bất thường như vậy, bởi vì nếu không vật chất
trong vũ trụ cho tới nay vẫn sẽ còn phân bố đều
một cách lý tưởng thay vì kết lại thành khối
trong các ngôi sao và thiên hà.
Những bất thường đòi hỏi phải có
để tạo ra các ngôi sao và thiên hà có dẫn tới
sự tạo thành một số đáng kể “lỗ đen nguyên
thủy” hay không còn phụ thuộc vào chi tiết của
những điều kiện ở giai đoạn đầu của vũ trụ.
Vì vậy, nếu hiện nay chúng ta có thể xác định
được có bao nhiêu lỗ đen nguyên thủy thì chúng ta
sẽ biết được nhiều điều về những giai đoạn
rất sớm của vũ trụ. Các lỗ đen nguyên thủy với
khối lượng lớn hơn ngàn triệu tấn (bằng khối lượng
của một quả núi lớn) có thể được phát hiện
chỉ thông qua ảnh hưởng hấp dẫn của chúng lên các
vật thể khác là vật chất thấy được hoặc ảnh
hưởng tới sự giãn nở của vũ trụ. Tuy nhiên, như
chúng ta sẽ biết ở chương sau, các lỗ đen xét cho
cùng cũng không phải quá đen: chúng phát sáng như
những vật nóng, và các lỗ đen càng nhỏ thì chúng
phát sáng càng mạnh. Và như vậy một điều thật
nghịch lý là các lỗ đen càng nhỏ thì càng dễ phát
hiện hơn các lỗ đen lớn.
|