Những năm lịch sử của ngành Thiên văn

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng

.

 

Platon Ptolémée  Copernic  Halley Hubble  Newton

 

Kepler Galilée Herschel    La Place  Kant

 

Năm 1800 trước CN: 

Người Babylone  thành lập một cuốn lịch dựa trên sự di chuyển của mặt Trời và những tuần Trăng. Những bảng chữ hình góc (cunéiforme) chứng tỏ rằng họ biết tiên đoán những hiện tượng như những nhật, nguyệt thực với sai số chừng  vài phút!

Năm 400 trước CN:

Dưới ảnh hưởng của Platon, người Hy Lạp được sự giải thích về vũ trụ: trái Ðất ở trung tâm và  những hành tinh quay chung quanh theo đường tròn.

Năm 200 trước CN: 

Ératosthène de Cyrene điều khiển thư viện Alexandrie. Trong khi quan sát bóng của hai cây cắm thẳng đứng cùng một thời điểm nhưng ở hai thành phố khác nhau ông hiểu rằng quả đất tròn. Từ một cuộc thí nghiệm khác, ông đã có thể tính được chu vi quả Ðất với độ chính xác không ngờ!

Năm 100

Ptolémée, nhà Thiên văn, Ðịa lý và Toán đã viết một chuyên luận (traité) về Thiên văn tên Almageste. Ðó là một tập gom nhặt những kiến thức xưa và đã dùng cho đến thời kỳ Phục Hưng (nguyên thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVII). Nhưng trái Ðất vẫn còn đứng yên một chỗ và ở trung tâm vũ trụ.

Năm 1543 

Nicolas Copernic (1473-1543) cho là mặt Trời ở trung tâm vũ trụ chớ không phải là trái Ðất như Platon.

Năm 1596 

Johannes Kepler bảo vệ hệ  thống của Copernic. Vì những công trình của ông và vì ông theo Tin Lành (protestant) , ông nghi ngờ nhà Thờ và trốn tránh, ở bên cạnh nhà thiên văn Ðan Mạch Tycho Brahe (1546-1601).  Nhờ  những quan sát của ông này mà Kepler chứng minh được rằng quỹ đạo những hành tinh có hình bầu dục chớ không hình tròn. Mặt Trời  có mặt ở tâm của  một trong những quỹ đạo này.

Năm 1609 

Galilée (1564-1642) cho xây cái kính   lấy tên ông  và  ông quay nó về mặt Trời. Ông khám phá những dấu vết nơi mặt Trời, những hình nổi trên mặt Trăn, những vệ tinh Jupiter đầu tiên và những pha của Vénus.

Năm 1619 

Kepler  phát biểu định luật cuối cùng trong ba định luật nổi tiếng dưới tên của ông: Ðịnh luật Kepler

Năm 1672 

Sir Isaac Newton (1643-1727)  sáng chế ra viễn vọng kính

Viễn vọng kính của Newton

 

Năm 1682 

 

Sau lần sao chổi đi qua năm 1680,  từ đó  nó  mang tên ông, sao chổi Halley. 

Edmund Halley (1656-1742) nghiên cứu quỹ đạo của các thiên thể và nhận thấy rằng có thiên thể thì định kỳ, có cái thì không. Ông tiên đoán rằng chu kỳ của sao chổi Halley là 76 năm và  sẽ trở lại năm 1758.

Sao chổi Halley

 

Năm 1687 

Qua những công trình của Kepler, Newton phát biểu định luật hấp dẫn vũ trụ.

Nhà lý thuyết kiêm Thiên văn Thomas Wright giải thích rằng giải Ngân Hà  gồm hằng hà sa số ngôi sao lan ra xa

Nhà Triết học Emmanuel Kant cho rằng rằng những tinh vân có dạng  hình ellip gồm những ngôi sao giống y như giải Ngân Hà vậy

Năm 1710 

Halley (1656-1742) so sánh vị trí của sao mà ông quan sát trên bầu trời với vị trí của Ptolémée trong danh mục của ông (catalogue). Từ đó ông suy ra là những ngôi sao không cố định; chúng có những  chuyển động riêng của chúng, có thể quan sát trên nhiều năm.

Năm 1781 

Sir William Herschel (1738-1822) xây một viễn vọng kính và khám phá ra Uranus

Năm 1796 

Hầu tước De la Place (1749-1827) cho ra giả thuyết nơi đó hệ thống mặt trời hình thành do khối tinh vân đang quay.

 Năm 1846 

Galle (1812-1910) khám phá ra Neptune

Năm 1860 

Ngành vật lý Thiên văn ra đời với sự phát minh ra kính quang phổ (spectroscopie). Sự phan hủy ánh sáng thành những băng màu giúp xác định thành phần hóa học của những hành tinh (khí quyển của chúng) và những ngôi sao

Năm 1925 

Edwin Powell Hubble (1889-1953) chứng tỏ sự bành trướng vũ trụ bằng cách đo khoảng cách và vận tốc  của những thiên hà đang tách rời xa