Vũ trụ được coi là nảy sinh từ hiện tượng Big Bang
cách đây 13,7 tỷ năm. Theo thuyết Big Bang, vũ trụ ở những khoảnh
khắc đầu tiên là một môi trường nóng tới hàng nghìn tỷ độ, nên
chỉ chứa những tia xạ gamma cùng những hạt cơ bản và phản hạt.
Tia gamma là một loại ánh sáng có năng lượng cao không nhìn thấy
được và có khả năng tự hủy để tạo ra hạt và phản hạt. Ngược
lại, hạt và phản hạt khi gặp nhau cũng bị hủy và biến thành
tia gamma. Tia gamma và hạt cùng phản hạt cạnh tranh nhau để tồn
tại trong vũ trụ nguyên thủy. Vũ trụ dãn nở làm nhiệt độ giảm
xuống dần. Một giây đồng hồ sau khi ra đời, vũ trụ hãy còn nóng
tới một chục tỷ độ, nên những phản ứng tổng hợp những hạt
proton và nơtron có thể tiến hành và tạo ra những hạt nhân đơteri
(deuterium, khối lượng nguyên tử 2). Tuy nhiên, đơteri ngay sau khi
được tạo ra lại bị phân ly bởi những tia gamma và chỉ tồn tại
bắt đầu từ khoảng một phút sau Big Bang, khi vũ trụ bớt nóng.
Sự tổng hợp những hạt nhân đơteri với proton hay nơtron được tiến
hành để tạo ra những hạt nhân nhẹ như hêli (helium, khối lượng
nguyên tử 4) và một ít liti (lithium, khối lượng nguyên tử 7).
Những phản ứng hạt nhân trên đây diễn ra dồn dập chỉ trong vòng 3
phút đầu tiên, theo một kịch bản nhanh đến chóng mặt. Sự tổng
hợp nguyên tố trong vũ trụ nguyên thủy đến đây chấm dứt nên không
sản xuất ra được những nguyên tử nặng hơn liti. Bởi vì vũ trụ
dãn nở nên không còn đủ nóng để thực hiện những phản ứng tổng
hợp hêli và đơteri với nhau. Phải đợi hàng trăm triệu năm sau, khi
những ngôi sao đầu tiên xuất hiện thì những phản ứng tổng hợp
hạt nhân mới lại tiếp tục tiến hành trong tâm những ngôi sao.
Tuy không chứng kiến trực tiếp những sự kiện xẩy
ra trong vũ trụ nguyên thủy, nhưng các nhà thiên văn dùng kính
thiên văn quang học và vô tuyến ngày càng lớn để quan sát các
thiên hà xa xôi thế hệ đầu tiên. Họ nghiên cứu bức xạ phông vũ
trụ, tàn dư cuả Big Bang, nhằm đi ngược dòng thời gian tới gần
thời điểm Big Bang. Các nhà vật lý sử dụng những máy gia tốc
phóng những dòng proton lao vào nhau với tốc độ xấp xỉ tốc độ
ánh sáng, nhằm tái tạo những điều kiện lý-hóa tương tự như
trong vũ trụ nguyên thủy. Khi vũ trụ hãy còn là một môi
trường ion hóa (plasma) rất nóng, electron bị tách ra khỏi
nguyên tử và va chạm với photon nên khuếch tán bức xạ làm vũ
trụ mờ đục. Khoảng 400 nghìn năm sau Big Bang, khi nhiệt độ xuống
tới ~ 3000 độ Kelvin thì electron mới tái hợp được với proton và
làm vật chất chuyển từ trạng thái ion hoá sang trạng thái trung
hoà. Khi đó, electron không còn tồn tại nhiều để khuếch tán bức
xạ. Vũ trụ trở nên trong suốt, đồng thời dãn nở và nguội dần
và phát ra bức xạ phông vũ trụ, mà các nhà thiên văn quan sát
thấy ngày nay trên bước sóng vi ba. Diện mạo cuả bức xạ này là
hình ảnh cuả vũ trụ khi vừa mới thoát ra khỏi trạng thái mờ
đục. Tuy nhiên, phải đợi hàng trăm triệu năm sau, khi những ngôi sao
đầu tiên xuất hiện thì vũ trụ mới bắt đầu sáng. Chính là trong
thời đại tối tăm mà mầm mống cuả những thiên hà và những ngôi
sao đã được âm thầm hình thành trong vũ trụ. Những đám khí trong
vũ trụ nguyên thủy được tập trung và thu hút vật chất dưới tác
động cuả trường hấp dẫn để tạo ra những cấu trúc ngày càng
rộng lớn. Những đám khí khổng lồ tiếp tục đọng đặc thành
những chùm thiên hà và những ngôi sao. Vì vũ trụ dãn nở nên
nhiệt độ hiện nay cuả bức xạ phông vũ trụ chỉ thấp ~ 2,7 độ
Kelvin.
Quá trình hình thành những ngôi sao đầu tiên kéo
dài trong khoảng 500 triệu năm, nhưng cũng chỉ là một khoảnh khắc
so với 13,7 tỷ năm tuổi cuả vũ trụ. Những ngôi sao thế hệ đầu
tiên là những thiên thể kếch xù nặng bằng hàng nghìn lần mặt
trời, nên tiêu thụ quá nhanh nhiên liệu và chỉ tồn tại trong
khoảng một triệu năm rồi bùng nổ. Những ngôi sao thế hệ sau có
khối lượng tối đa bằng vài trăm lần khối lượng mặt trời, nhưng
lại “sống” được tới một chục tỷ năm. Khoảng một tỷ năm sau Big
Bang, những hệ thiên hà và những thiên thể cực kỳ sáng và đặc
gọi là “quasar” (nhân cuả một số thiên hà) bắt đầu được
hình thành. Vũ trụ dãn nở liên tục làm ánh sáng cuả những
thiên hà xa xôi đỏ lên, theo định luật Doppler trong vật lý.
Các nhà thiên văn đã có những chương trình quan sát đại trà không
những để phát hiện những thiên hà xa xôi mà còn để đo “độ
dịch chuyển về phía đỏ” (redshift) cuả thiên hà. Sau đó, họ
sử dụng công thức Doppler và Hubble để tính khoảng cách cuả thiên
hà và hình dung ra được sự phân bố ba chiều (3-D) cuả những thiên
hà trong vũ trụ. Những mô hình lý thuyết cũng được lập ra đề mô
phỏng quá trình hình thành những thiên hà. Các nhà thiên văn
phải giải những bài toán rất phức tạp trong đó có một chục tỷ
hạt vật chất tương tác với nhau thông qua lực hấp dẫn. Họ sử
dụng những siêu máy tính hiện đại nhất, hoạt động liên tục trong
hơn một tháng trời. Kết quả quan sát cùng với mô hình cho thấy
vũ trụ không đồng đều, những phôi thiên hà và những thiên hà
được sắp đặt thành từng chùm chằng chịt xung quanh những khoảng
không trống rỗng, giống như một cái lưới mạng nhện khổng lồ
(Hình 2). Độ dịch chuyển về phía đỏ z = 6 tương ứng với
khoảng cách cuả những quasar xa xôi nhất mà các nhà thiên
văn quan sát thấy. Những thiên thể này được hình thành từ khi vũ
trụ mới có ngót một tỷ năm tuổi.

(Hình 2)
Kịch bản miêu tả quá trình
hình thành những cấu trúc rộng lớn (những chùm phôi thiên hà
và thiên hà) và mô phỏng bằng siêu máy tính, từ khi vũ trụ mới
có khoảng 700 triệu năm tuổi (độ dịch chuyển về phía đỏ z=6)
đến ngày nay 13,7 tỷ năm tuổi (z=0). Những chùm phôi thiên hà và
thiên hà dần dần được hình thành và tập trung chằng chịt xung
quanh những khoảng không trống rỗng trông như cái lưới mạng nhện
(V. Springel et al..; The Max Planck Institute for Astrophysics, MPA).
Kết quả tính theo mô hình sẽ được đối chiếu với
kết quả quan sát bức xạ phông vũ trụ bằng vệ tinh Planck, mà tên
lửa Ariane cuả Cơ quan Không gian Châu Âu (ESA) phóng ngày 14 tháng 5
năm 2009. Vệ tinh Herschel hoạt động trên những bước sóng hồng
ngoại cũng được phóng cùng chuyến với vệ tinh Planck để quan sát
phôi cuả những thiên hà và cuả những ngôi sao hãy còn chưa đủ
năng lượng để phát ra ánh sáng. Cả hai vệ tinh là những thiết
bị giúp các nhà thiên văn đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu
sự hình thành cuả những thiên thể.
Trích từ "Kỷ Yếu tập 1: "400 năm Thiên văn học và
Galileo Galilei", chủ biên: Chu Hảo, Nguyễn
Quang Riệu, Trịnh Xuân Thuận, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân
Yêm, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2010.