Black is beautiful
1. Nàng Lọ Lem của
thế kỷ 21
Khi nói đến than, tức
khắc một hình ảnh đen đúa, nhếch nhác, đầu tắt mặt tối
hiện ra. Dường như, trong thi văn cũng như trong âm nhạc
không có thơ ca nào ca tụng "than", bồ hóng hay... lọ
nồi. Thậm chí, cái phố Hàng Than đen đủi nơi mà Huy Cận
đã từng trú ngụ vào thời sinh viên, cũng chỉ được
ông thốt lên qua những "nỗi sầu", "Phố không cây thôi
sầu biết bao chừng... Buồn vạn lớp trên mái nhà dợn
sóng"! Có đẹp chăng thì nhiều lắm là câu chuyện đồng
thoại "công chúa Lọ Lem" với hồi kết cuộc quá hiển
nhiên để làm vừa lòng các độc giả nhí.
Người ta hiểu một cách
bình thường than chỉ là một vật liệu đốt. Đốt ra tro,
rồi than vẫn hoàn than. Không có gì phải nói. Nhưng với
cặp mắt tò mò quan sát kỹ hơn thì than đốt là một kết
hợp vô định hình (amorphous) của nguyên tố carbon. Than
có một người "anh em" cùng họ rất quí phái, đó là kim
cương. Cái lấp lánh lung linh của kim cương đã làm cho
phái tóc dài, bất luận già trẻ sang hèn, xúc động, mê
mẩn, mê man từ ngàn xưa. Nhưng rất ít người biết rằng
trong cái đống tro than, bụi than từ những quặng mỏ vĩ
đại chứa những lớp than đen, trong đám bụi vũ trụ của
các thiên hà bao la, đến bồ hóng của lò sưởi hay lọ nồi
đóng trên soong chảo của cái bếp nhà quê khiêm tốn, ta
có một dạng khác của than. Đó là quả bóng đá fullerene C60
chứa 60 nguyên tố carbon và ống than nano (carbon
nanotube).
Ống than nano có thể
gọi là một vật liệu thần kỳ; một nàng Lọ Lem của của thế
kỷ 21 đang khuynh đảo cộng đồng nghiên cứu khoa học và
cũng đã làm biết bao trí tuệ khoa học phải ngắm nhìn,
xem xét và "tương tư". Ống than nano là một trong những
ngòi nổ cùng với những vật liệu nano khác dẫn đến cuộc
"nổ lớn" vô tiền khoáng hậu của nền công nghệ nano ở đầu
thập niên 90 của thế kỷ trước. Một nhà khoa học đã đặt
tên cho phong trào nghiên cứu ống nano là một "cuộc đổ
xô tìm ống nano" (nanotube rush) để so sánh với cuộc "đổ
xô tìm vàng" (gold rush) tại Mỹ và Úc vài thế kỷ
trước. Cuộc đổ xô nano này vẫn còn đang tiếp diễn, và
rất sôi động.
Người viết mạo muội
dùng cụm từ "vật liệu thần kỳ" với ý nghĩa là trong lịch
sử khoa học chưa có một vật liệu nào có một đặc tính vô
cùng đa dạng, tiềm năng ứng dụng cực kỳ phong phú như
ống than nano. Một trong những đặc tính khác thường của
ống than nano là cơ tính và lý tính. Ống than nano có độ
cứng (stiffness), độ bền (strength) siêu việt và truyền
nhiệt tốt. Cấu trúc của ống có thể được thiết kế để thay
đổi độ dẫn điện từ mức độ của kim loại đồng đến chất bán
dẫn. Quang tính, điện tính (bao gồm điện, điện tử, quang
điện tử) của ống than nano cho thấy những tính chất mới
lạ chưa từng thấy trong các loại vật liệu hữu cơ lẫn vô
cơ. Những đặc tính này đã thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học và giới công nghiệp doanh thương. Ngoài các
đặc tính vĩ mô, những hiện tượng lượng tử của ống nano
như thông tin lượng tử, spintronic và ngay đến hiệu ứng
siêu dẫn cũng đang được khảo sát.
Nói về cơ tính, ống
than nano bền và cứng hơn thép. Diễn tả một cách ví von,
ống nano mang một sức bền có thể treo vài chục chiếc xe
tăng khi ống được phóng đại có đường kính to bằng cây
viết chì. Nếu được khai triển đúng mức, đây là một vật
liệu gia cường (reinforcement) quý giá cho các polymer
gia dụng. Nói về các đặc tính điện tử và quang điện tử
(opto-electronics), ống nano có tiềm năng ứng dụng vượt
trội có thể thay thế nguyên tố silicon và các chất bán
dẫn khác hiện nay đang thống trị thương trường máy vi
tính và các linh kiện điện tử. Giữa thái độ lạc quan,
lắm lúc chủ quan, của các nhà nghiên cứu hàn lâm và thái
độ đầu tư thận trọng thường thấy của doanh thương, sự
phát triển của ống than nano sẽ đi theo một chiều hướng
ra sao, phải vượt qua những rào cản kỹ thuật nào, để tạo
ra cú hích kinh tế, làm thay đổi bộ mặt xã hội, chế
tạo sản phẩm làm ra lợi nhuận cho nền kinh tế quốc gia,
nâng cao an ninh quốc phòng và sự tiện ích cho cuộc sống
con người?
Đã có nhiều bài viết
đại chúng trên báo chí và các mạng điện tử (tiếng Anh
cũng như tiếng Việt) biến ống than nano gần như một
huyền thoại. Hy vọng bài viết này mang ống than nano trở
về vị trí thực sự của nó và sẽ cho người đọc một vài
nhận định cơ bản.
2. Từ cái lò luyện
thép
Mãi cho đến gần đây,
hầu như tất cả những bài viết và báo cáo khoa học liên
quan đến ống than nano đều cho tiến sĩ Sumio Iijima là
người đầu tiên khám phá ra vật liệu này. Sự kiện này gây
ra không ít tranh luận về việc ai là người được mang cái
danh dự "đầu tiên" trong việc khám phá ống than nano. Để
có sự đồng thuận trong cộng đồng nghiên cứu khoa học,
người ta đã đi ngược dòng thời gian tra tìm những tư
liệu và báo cáo nghiên cứu về sợi (fibre, filament)
carbon.
Công trình nghiên cứu
sợi carbon đã có từ hơn 100 năm nay và vào năm 1889 hai
ông T. V. Hughes và C. R. Chambers đã có đăng ký quá
trình phát minh tạo sợi carbon qua sự phân hủy của
methane (U.S. Patent 405480) [1]. Phương pháp dùng khí
methane giống như phương pháp hiện nay tạo ống than
nano. Cũng vào thời gian này, đăng ký phát minh của bóng
đèn điện trở cũng được trao cho Thomas Edison. Điều này
cho thấy công trình nghiên cứu sợi carbon cũng có lịch
sử lâu đời như cái bóng đèn điện. Bẵng đi một thời gian
dài hơn 60 năm, nghiên cứu sợi carbon dần dà trở lại.
Vào đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, hai nhà khoa học
Nga, L. V. Radushkevich và V. M. Lukyanovich, tuyên bố
việc chế tạo ống than nano lần đầu tiên trong bài báo
cáo đăng trên tạp chí "Hóa học Vật lý" tiếng Nga
[1]. Vì là tiếng Nga và ảnh hưởng chính trị do chiến
tranh lạnh gây ra đương thời, sự giao lưu thông tin khoa
học bị giới hạn nên bài báo chìm vào quên lãng. Hai mươi
năm sau, giáo sư Endo và cộng sự đã đăng hình ảnh của
ống than nano trong Journal of Crystal Growth
[2]. Một lần nữa, bài báo không tạo được sự kích thích
vào cộng đồng nghiên cứu khoa học vì lúc đó người ta
đang tập trung nghiên cứu việc chế tạo và sản xuất đại
trà sợi carbon (carbon fibres) từ sự nhiệt phân
(pyrolysis) của polyacrylonitrile [3] mà hiện giờ là một
sản phẩm gia cường phổ biến trên thương trường cho các
loại composite. Ngoài ra, một đăng ký phát minh Mỹ (US
Patent 4 663 230, 1987) của nhà phát minh H. G. Tennent
thuộc công ty Hyperion Catalyst Intenational (Mỹ) đã
tuyên bố cách sản xuất ống than nano trước Iijima vài
năm.
Sợi nano carbon (carbon
nanofibres) đã được biết từ lâu nhưng không phải là một
đối tượng nghiên cứu hấp dẫn, vì chỉ là những sản phẩm
phụ của công nghiệp than và luyện thép. Các nhà nghiên
cứu trong ngành than và thép nhiều năm qua đã khảo
sát các cụm than chứa sợi carbon ngắn nằm xen lẫn giữa
các mảng bồ hóng đen đúa trong lò luyện thép nhằm loại
trừ sự thành hình phiền toái của chúng trong quá trình
luyện thép [1]. Sợi nano carbon (có thể là ống than
nano) đã bị các nhà luyện kim hất hủi như những đứa con
hoang! Khi Iijima khảo sát fullerene C60
trong bồ hóng bằng kính hiển vi điện tử thì ông tình cờ
quan sát được người "anh em" của C60 - ống
than nano. Sự "khám phá" tình cờ của tiến sĩ Sumio
Iijima được đăng tải trên tạp chí Nature năm 1991
với tựa đề "Helical microtubules of graphitic carbon"
(Vi mao xoắn của than graphit) [4] đã gây ra một chấn
động trong ngành khoa học than và cũng tạo ra nhiều dư
chấn đến những bộ môn khác.
Bài báo của Iijima xuất
hiện vào đúng thời điểm "thiên thời, địa lợi, nhân hòa"
và nó hoàn toàn thay đổi cục diện nghiên cứu và lề lối
suy nghĩ của các nhà khoa học về bộ môn "than" và nguyên
tố carbon. "Thiên thời" là khi mà nghiên cứu về
fullerene C60 còn đang sôi sục và nền công
nghệ nano vừa manh nha xuất hiện. Cũng như nàng công
chúa Lọ Lem, cái lộng lẫy kiêu sa và cái nhếch nhác lam
lũ được định đoạt bởi một thời khắc quan trọng. Bài báo
cáo được chấp nhận đăng trên tạp chí quyền uy Nature,
là một "địa lợi" tuyệt vời. Và "nhân hòa" là khi các nhà
khoa học không còn xem "than" như là một loại bồ hóng vô
dụng mà bây giờ là một vật liệu vô cùng quan trọng của
nền công nghệ nano.
Trở lại việc xác nhận
ai là người đầu tiên trong việc phát hiện ra ống than
nano, thì có lẽ hai nhà khoa học người Nga, L. V.
Radushkevich và V. M. Lukyanovich, xứng đáng với danh dự
này. Tuy nhiên, ta phải nhìn nhận rằng bài báo cáo của
Iijima là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và
triển khai ống than nano. Kể từ năm 1991, nghiên cứu về
ống than nano bùng phát như bão lửa. Gần như một thông
lệ, đối với những vật liệu đã từng có một thời gian sôi
nổi như chất siêu dẫn, polymer dẫn điện hay fullerene C60, thì
sau khoảng 10 năm kể từ lúc được phát hiện, những công
trình nghiên cứu có khuynh hướng trầm lắng xuống và các
nhà khoa học cũng như doanh nhân sẽ nhìn lại toàn bộ vấn
đề để quyết định một hướng đi áp dụng. Tuy nhiên, cho
đến ngày hôm nay (2009) đã 18 năm, việc nghiên cứu cơ
bản và triển khai ứng dụng của ống than nano vẫn không
giảm tốc. Số bài báo cáo đăng trên các tạp chí chuyên
ngành và các đăng ký phát minh (patent) vẫn gia tăng
theo hàm số lũy thừa. Ống than nano càng lúc càng cho
thấy những đặc tính mới lạ và nhiều chức năng ưu việt,
từ đó đưa đến nhiều tiềm năng ứng dụng sâu xa với khả
năng thay thế vật liệu hiện có hay đề xuất một ứng dụng
hoàn toàn mới.
3. Cơ tính siêu
việt
Tập hợp của nguyên tố
carbon thường được biết có ba dạng: than vô định hình
(than đốt, bồ hóng), than chì (graphite) thường dùng làm
lõi bút chì và kim cương. Quả bóng đá fullerene C60
được khám phá vào năm 1985 (giải Nobel Hóa học năm 1996)
là dạng thứ tư của than. Ống than nano là một biến dạng
của dòng fullerene (Hình 1).

Hình 1:
Tám dạng
carbon
theo thứ tự từ trái sang phải: (a) Kim cương, (b) Than
chì, (c) Lonsdaleite, (d) C60, (e) C540, (f) C70, (g)
Carbon vô định hình (h) Ống nano carbon (Nguồn:
Wikipedia).
Ống than nano giống như
một quả mướp dài với đường kính vài nanomét (nm) và
chiều dài có thể dài đến vài trăm micromét (10-6
m), và trong điều kiện thí nghiệm thích nghi có thể
dài đến milimét. Ống nano là một phân tử rỗng và rất
dài. Trong vài trăm triệu hợp chất hóa học từ trước đến
nay, chưa có một phân tử nào có hình dạng giống như ống
nano. Với đường kính vài nanomét ống nano carbon nhỏ hơn
bề dày sợi tóc 100.000 lần. Việc chế tạo ống nano có thể
được thực hiện bằng cách phóng điện hồ quang (arc
discharge) hoặc dùng laser (laser ablation) bắn vào chất
rắn carbon để tạo phân tử khí carbon, hoặc hoặc phun khí
chứa carbon (chẳng hạn như khí carbon monoxide, CO,
methane, CH4, acetylene, C2H2
v.v…) qua một lò nung (furnace) ở nhiệt độ 800 - 1200
°C
(chemical vapour deposition, CVD). Khí sẽ phân giải ra
các phân tử carbon. Những phân tử này sẽ tụ trên một bề
mặt phủ những hạt kim loại như Fe, Co, Ni có kích cỡ
nanomét. Hạt kim loại là những chủng tử xúc tác từ
đó phân tử carbon sẽ chồng chập lên nhau tạo thành ống
nano (Hình 2). Đường kính của hạt kim loại cũng là đường
kính của ống. Sự thành hình ống nano không phức tạp,
nhưng tạo ra những ống nano giống nhau có cùng đặc tính,
cấu trúc, kích thước trong những đợt tổng hợp và sau đó
tinh chế để gạn lọc tạp chất, đòi hỏi những điều kiện
vận hành một cách cực kỳ chính xác.

Hình 2: Quá trình
thành hình cuả ống than nano. (a) Các hạt xúc tác nano
kim loại, (b) Nguyên tố carbon chồng chập phát triển
thành ống đồng thời nâng hạt kim loại lên, (c) Sự thành
hình chấm dứt.
Dù là một sản phẩm của
cùng một phòng thí nghiệm hay nhà máy, tính chất của ống
nano cũng có thể khác biệt tùy theo mảng (batch) sản
xuất. Kinh nghiệm của người viết và các cộng sự cho thấy
đặc tính của ống than nano thay đổi theo từng mảng
(batch) sản xuất mặc dù đã được tinh chế kỹ lưỡng và mua
từ một công ty duy nhất. Điều này khiến cho việc xác
định tính lập lại (reproducibility) của một thí nghiệm
trở nên vô cùng khó khăn. Việc chế tạo ống than nano vẫn
còn là một "nghệ thuật đen" (black art), không thể giải
thích một cách khoa học mà tùy vào thói quen, kinh
nghiệm của người điều hành sản xuất và qui trình sản
xuất của nhà máy hay phòng thí nghiệm. Sản phẩm đại trà
của ống than nano vẫn chưa có sự đồng nhất về chất lượng
vì người ta không kiểm soát hết các chi tiết trong quá
trình chế tạo và chưa có một qui trình kiểm soát chất
lượng (quality control) mang tính khoa học.
Dù là một "nghệ thuật
đen", việc tổng hợp ống nano cũng đạt được một số tiêu
chuẩn nhất định. Tùy vào điều kiện chế tạo, chất xúc tác
kim loại và vật liệu nguồn, người ta có thể tổng hợp ống
nano một vỏ (single-wall carbon nanotube, SWNT), và
nhiều vỏ (multi-wall carbon nanotube, MWNT). MWNT là một
tập hợp của SWNT giống như con búp bê Nga (Russian doll)
(Hình 3). Cấu trúc ống cũng có thể chuyển biến dễ dàng
tùy vào điều kiện chế tạo (Hình 4). Các ống có khuynh
hướng thành hình như những thân cây mọc thẳng tạo thành
một "cánh rừng" ống nano, hay như một "cánh đồng lúa"
(Hình 5). Người ta cũng có thể thay đổi điều kiện tổng
hợp để chế tạo ống than nano vỏ đôi (double-wall carbon
nanotube, DWNT) hay ống có một kích thước và chiều dài
nhất định.


Hình 3: Một phần của
ống than nano nhiều vỏ (MWNT) chụp bằng kính hiển vi
điện tử. Khoảng cách giữa hai vỏ là 0,34 nm và đường
kính của vỏ ngoài cùng là 6,5 nm [4].

Hình 4:
Các cấu trúc khác nhau của ống than nano cho ra các
đặc tính khác nhau.

Hình 5:
Một "cánh đồng" ống than nano [5]
Cho đến ngày hôm nay
(2009), vẫn chưa có một sự đồng thuận và thống nhất về
cơ chế tổng hợp của ống than nano. Đây là một trong
những
nguyên nhân đưa đến sự
không đồng nhất của các mảng sản xuất ở những thời điểm
khác nhau. Người ta vẫn chưa biết phản ứng cuả quá trình
tăng trưởng ống theo một cơ chế động học (kinetics) nào;
chưa giải thích được tại sao khi hạt xúc tác kim loại
nhỏ hơn 1 nm thì ống than nano có khuynh hướng là ống vỏ
đơn (SWNT) và khi lớn hơn 2 nm thì là ống nhiều vỏ
(MWNT). Và trong quá trình tăng trưởng vỏ của MWNT,
nguyên nhân nào tạo ra các vỏ với một khoảng cách giống
nhau (0,1 - 0,5 nm) (Hình 3)?
CVD một là phương pháp
đơn giản, ít tốn kém và thông dụng nhất hiện nay vì nó
có thể quy mô hóa (scale-up) gia tăng sản lượng để sản
xuất đại trà. Ta chỉ cần lò nung cao nhiệt và bình khí
cung cấp carbon nguồn là có thể tổng hợp được những ống
than nano cơ bản. Tổng hợp ống nano bằng CVD là một thực
nghiệm lý tưởng cho sinh viên năm thứ nhất. Hiện nay
(2009), giá cho SWNT và DWNT tinh chế vẫn còn rất cao ở
mức 500 đô-la/g. MWNT dễ tổng hợp hơn SWNT nên giá ở mức
100 đô-la/g cho loại chất lượng cao và trên dưới 1
đô-la/g với chất lượng trung bình. Gần đây Mitsui (Nhật
Bản) và nhiều công ty khác tại Mỹ, Trung Quốc có thể sản
xuất vài trăm tấn MWNT/năm cho nhu cầu công nghệ với giá
100 đô-la/kg.
Độ cứng (stiffness) hay
là mô-đun Young (Young's modulus) là một thông số cần đề
cập trước tiên khi nói đến cơ tính một vật liệu. Nó liên
quan đến độ bền (strength) và độ dai (toughness). Mặc dù
là một lượng vĩ mô (macroscopic quantity) nhưng độ cứng
bị chi phối trực tiếp bởi các loại liên kết hóa học
(chemical bonding) của vật liệu. Liên kết cộng hóa trị
(covalent bond) là liên kết bền nhất so với các nối khác
như nối ion, nối hydrogen và nối van der Waals. Liên kết
trong kim loại và ceramic (gốm sứ), kim cương, phần lớn
là cộng hóa trị nên độ cứng rất cao. Trong vật liệu
polymer, các liên kết là một hỗn hợp của nối cộng hóa
trị, nối ion, nối hydrogen, nối van der Waals nên độ
cứng nhỏ hơn vài trăm lần. Độ cứng của ống than nano rất
cao vì tùy thuộc vào nối cộng hóa trị sp2
(nối σ).
Trong trải nghiệm đời
thường, ta thường phỏng đoán độ cứng hay độ bền một vật
bằng cách bẻ cong hay kéo. Từ những kinh nghiệm
này, cách đo độ cứng và độ bền của vật liệu khối đã được
chuẩn hóa và thông dụng trong các phòng thí nghiệm với
các loại máy đo cơ tính (uốn, bẻ, kéo, ép) chế tạo bởi
công ty Instron hay Shimadzu. Trong trường hợp đo một
ống than nano (nghĩa là một phân tử), phương pháp cũng
không thay đổi nhưng dụng cụ phải ở cấp độ nanomét. Yu
và các cộng sự [6] đưa ra một phương pháp đầy sáng tạo
bằng cách dùng đầu dò của AFM (atomic force microscope,
kính hiển vi lực nguyên tử) để kéo hoặc uốn cong ống
nano, định lượng độ cứng và độ bền của một ống than nano
(Hình 6). Đầu dò AFM có mũi cực nhọn với đường kính vài
nanomét tương đương với đường kính ống nano. Quá trình
định lượng cơ tính của ống than nano với đầu dò AFM được
quan sát bằng kính hiển vi điện tử.

Hình 6: Dùng đầu dò
AFM (1) để đo cơ tính ống nano (2). (a) Bẻ cong và (b)
Kéo thẳng.
Cách đo độ cứng và độ
bền (tensile strength) cũng đã gây nhiều tranh cãi vì
kết quả có một loạt trị số khác nhau (Bảng 1). Lý do là
sự khác nhau trong cách đo đạc và phẩm chất vật liệu tùy
phòng nghiên cứu. Nói một cách chính xác hơn, điều kiện
thí nghiệm chỉ khác nhau đôi chút cũng đủ làm cấu trúc
khác nhau. Ngoài ra còn sự khác nhau về kích thước của
ống, các khuyết tật cấu trúc và chất tạp trong quá trình
sản xuất làm thay đổi các trị số cơ tính. Ta cũng nên
chú ý là trị số cơ tính trong Bảng 1 là của một ống
nano. Sai số của sự đo đạc ở thứ nguyên nano cũng là một
nguyên nhân đưa đến sự khác nhau về kết quả.
Bảng 1 : Cơ tính và mật
độ cuả các loại sợi.
Vật liệu
|
Độ cứng (GPa)* |
Độ bền (GPa)** |
Độ căng (%)*** |
Mật độ (kg/m3) |
Thép |
203 |
0.6 |
- |
7.800 |
Nhôm |
75 |
0.075 |
1.0 |
2.600 |
Sợi carbon# (HS) |
240 |
6.4 |
1.8 |
1.800 |
Sợi carbon #(HM) |
310 |
3.5 |
- |
1.900 |
Sợi carbon
#(UHS) |
825 |
- |
- |
1.900 |
Sợi aramid
(Kevlar) |
180 |
3.5 |
3.0 |
1.440 |
Sợi thủy tinh
(loại E) |
76 |
3.5 |
4.7 |
2.900 |
Sợi thủy tinh
(loại S) |
96 |
4.8 |
- |
2.900 |
Ống than nano |
~ 1000 |
80 - 150
|
- |
1.400 |
Poly(methylmethacrylate) |
2,5 |
0,06 |
0.1 - 1 |
1.200 |
GPa : giga (G) pascal
(Pa), 1 GPa = 109 Pa. Pa (= N/m2)
là lực trên một đơn vị diện tích.
*Độ cứng (stiffness)
còn gọi là mô-đun Young (Young's modulus).
**Độ bền ở điểm đứt
(stress at break).
***Độ căng ở điểm đứt
(strain at break).
# Tham khảo [3].
Tuy nhiên, cũng như
Bảng 1 cho thấy dù các trị số khác nhau nhưng cơ tính
của ống than nano nổi bật so với thép và các loại sợi
gia cường (reinforcing fibres) hiện có trên thương
trường. Nếu ta lấy trị số 1.000 GPa cho độ cứng và 100
GPa cho độ bền, ta thấy ống than nano cứng hơn thép 5
lần, bền hơn thép 160 lần nhưng lại nhẹ hơn thép gần 6
lần. Có thể nói ống than nano là có cơ tính cao nhất so
với các vật liệu người ta biết từ trước đến nay.
Để có một ý tưởng về
sức bền siêu việt này, ta hãy làm một vài thí nghiệm
tưởng tượng. Giả dụ ta có thể phóng đại ống than
nano thành loại ống có đường kính vài cm, thì ta có thể
làm được gì? Với độ bền 100 GPa, nếu ống than có độ lớn
cỡ cây viết chì, thì ống có thể treo vật nặng 1 triệu
kg. Nghĩa là, treo 5 chiếc máy bay Jumbo 747 mỗi chiếc
nặng 200.000 kg, hay 20 chiếc xe tăng mỗi chiếc 50.000
kg (Phụ lục 1)!
Tơ nhện là một loại sợi
bền nhất trong các loại sợi thiên nhiên lẫn nhân tạo.
Một chú ruồi nhặng bay hết tốc độ vẫn không thoát khỏi
lưới nhện. Giáo sư Ray Baughman (University of Texas,
Mỹ) cho biết ống than nano có cơ tính tương tự như tơ
nhện [7]. Phóng đại việc "ruồi mắc lưới nhện" thành một
sự kiện đời thường, con ruồi bây giờ là chiếc 747 nặng
200.000 kg đang thong dong bay ở tốc độ 1000
km/h, liệu ống than nano có thể kéo dừng lại chiếc máy
bay hay không? Theo sự tính toán đơn giản dùng cơ tính
tiêu biểu trong Bảng 1 và phóng đại ống nano thành "dây
thừng" có đường kính 10 cm, một "mạng nhện" 10 dây
ngang, 10 dây dọc, mỗi dây dài 20 m sẽ kéo chiếc máy bay
dừng lại (Phụ lục 2). Một chiếc máy bay 747 bay ở vận
tốc 1000 km/h có sức công phá mãnh liệt, dễ dàng làm sập
tòa nhà chọc trời như ta đã thấy trong sự kiện 9/11. Khả
năng kéo chững lại chiếc máy bay bằng lưới ống than
nano, ít ra trên phương diện tính toán, cũng đã chứng tỏ
một cái gì rất phi thường của vật liệu này.
Xin nhấn mạnh đây chỉ
là thí nghiệm tưởng tượng khi ống nano được phóng đại và
giữ nguyên cơ tính siêu việt của nó. Trên thực tế, ta
phải xe sợi (spinning) hoặc bện thành dây thừng từ những
ống nano li ti để thực hiện thí nghiệm thật. Tiếc rằng,
như sẽ được đề cập ở phần kế tiếp, kỹ thuật hiện nay
chưa chế tạo được sợi ống than nano có cơ tính tuyệt vời
của các ống nano tạo thành.
4. Gia cường
Gia cường các loại
polymer/epoxy là một đề tài nghiên cứu quan trọng trong
các ứng dụng công nghiệp từ nhiều thập niên. Việc triển
khai composite giữa polymer/epoxy và ống than nano là
một hướng đi tất nhiên trong lĩnh vực gia cường. Như
những trải nghiệm hàng ngày cho ta biết những đồ gia
dụng polymer (plastic) rất tiện lợi vì giá rẻ, dễ chế
biến, nhẹ nhưng giòn, dễ gãy nứt. Bảng 1 cho thấy cơ
tính của một polymer tiêu biểu thông dụng, poly
(methylmethacrylate), một loại plastic trong suốt như
kính, chỉ cần 1 % ống than nano cũng đủ làm tăng cơ tính
của polymer nhiều hơn 5 lần. Cần phải nhấn mạnh rằng cơ
tính của ống than nano trong Bảng 1 là của một ống riêng
lẻ (tức là 1 phân tử). Trên thực tế, ống than nano không
hiện hữu từng ống một mà nhiều ống xoắn vào nhau thành
những cụm hay bó (Hình 7). Trong quá trình sản xuất, sự
kết tập của ống thành cụm hay bó xảy ra một cách tự
nhiên vì ống có diện tích bề mặt rất lớn nên lực van der
Waals tạo ra sức hút rất hữu hiệu giữa các ống. Tiếc
rằng, độ cứng (mô-đun Young) của những cụm này chỉ bằng
1/10 và độ bền lắm lúc chỉ còn 1/100 trị số của các
ống nano tạo thành.

Hình 7:
"Cụm tóc rối" ống nano (ảnh của tác giả).
"Cụm tóc rối" hay
bó ống nano thật ra là những hạt ở kích cỡ micromét và
việc gỡ rối cho ra từng ống riêng lẻ để tận dụng tối đa
cơ tính của ống than nano là một trong những công trình
nghiên cứu quan trọng. Các cụm ống than nano được cho
vào dung dịch nước chứa chất hoạt tính bề mặt và sao
đó được đặt vào máy siêu âm [8]. Sự rung phát ra từ máy
siêu âm và tác dụng của chất hoạt tính làm giảm sức căng
bề mặt gỡ rối các cụm ống. Nhưng phương pháp này mang
một khuyết điểm là có khuynh hướng cắt ngắn hay gây
khuyết tật cấu trúc trên các ống nano đưa đến việc giảm
thoái cơ tính của ống. Ngoài ra, tàn dư của chất hoạt
tính bề mặt trên ống nano trở thành chất tạp làm giảm
tác dụng gia cường của ống.
Sự thành bại của
composite giữa polymer và ống than nano tùy thuộc vào
cách tinh chế, gỡ rối và phân tán của các cụm và bó ống
nano [9]. Việc sử dụng siêu âm cho một số thành quả nhất
định nhưng sự gia cường vẫn chưa đạt đến trị số như lý
thuyết đã dự đoán. Điều này chứng tỏ sự gỡ rối và phân
tán ống nano vẫn chưa đạt đến mức mong muốn. Các phương
pháp khác nhau như phay (milling), trộn (blending) với
các chất hoạt tính bề mặt hay với phân tử DNA đã được
khảo sát để tối ưu hóa sự gỡ rối và phân tán [10]. Cho
đến ngày hôm nay (2009), chưa có một phương pháp hữu
hiệu nào để tách các ống than nano hoàn toàn thành những
ống riêng lẻ. Ngoài ra, bề mặt ống nano được gắn với các
nhóm chức (functional group) thích hợp để tạo liên kết
cộng hóa trị giữa chất nền và ống nano nhằm gia tăng sự
gia cường đến mức tối đa.
Một phương pháp
khác tận dụng cơ tính của ống nano cho ứng dụng gia
cường là xe sợi (spinning). Giáo sư Ray Baughman và các
cộng sự là những chuyên gia xe sợi ống nano với những kỹ
thuật hàng đầu trên thế giới. Trong bài báo cáo ngắn với
tựa đề "Super-tough carbon nanotube fibres" (Sợi ống
than nano siêu dai) [7], Baughman cho biết sợi ống than
của nhóm ông có độ dai (toughness) cao hơn thép, sợi
Kevlar và tương đương với tơ nhện; được biết tơ nhện
là loại tơ có độ dai cao nhất trong tất cả loại tơ sợi.
Như vậy, sợi Baughman có khả năng làm áo giáp chống đạn
rất tốt. Nhưng dù nhóm Baughman đã tạo được sợi ống nano
siêu dai, độ cứng và độ bền vẫn chưa đạt đến trị số của
ống nano (độ cứng, độ bền và độ dai là ba khái niệm khác
nhau). Tương tự như "cụm tóc rối", độ cứng của sợi ống
nano chỉ là 80 GPa (bằng khoảng 1/10 của một ống) và độ
bền là 1,8 GPa (gần 1/100 của một ống) (Bảng 1) [7].
Nhóm Baughman tiếp tục
triển khai sợi ống than nano bằng phương pháp trực tiếp
kéo sợi từ "cánh đồng" ống nano [11]. Với phương pháp
này những bó ống nano xoắn xuýt, chồng chéo sẽ được kéo
thẳng ra và tạo thành sợi có đường kính 2
mm
(Hình 8A). Phương pháp kéo của nhóm Baughman còn có thể
tạo ra mạng lưới ống nano thật mỏng và trong suốt với độ
bền khá cao (Hình 8B) [12]. Hiện tại, phương pháp tạo
sợi và mạng có cơ tính đạt đến trị số của từng ống than
cấu thành vẫn còn là một thử thách lớn lao. Tại sao lại
có sự khác biệt to lớn giữa cơ tính sợi/mạng ống nano và
ống nano tạo thành? Đây là một vấn đề nổi cộm trong lĩnh
vực gia cường và màn bí mật của nó vẫn chưa được vén mở.


Hình 8:
(A): Kéo sợi và (B): Kéo mạng từ "cánh đồng" ống than
nano.
5. Vật liệu chống
rung
Các tòa nhà cao tầng
cần có thiết kế chống chấn động gây bởi động đất. Máy
bay, tàu thủy, xe hơi cần những vật liệu chống rung để
giảm tiếng ồn trong khoang và tránh sự gãy đứt bất thần
xảy ra bởi hiện tượng mỏi (fatigue). Bệ phóng tên lửa
trên phi cơ chiến đấu hay tàu chiến cần thiết bị chống
rung để gia tăng độ chính xác truy lùng và nhắm mục
tiêu. Chân vịt tàu ngầm cần được thiết kế với vật liệu
giảm rung để duy trì sự thao tác trong im lìm và sự sống
còn của chiếc tàu ngầm. Cán vợt tennis cũng cần vật liệu
chống rung để gia tăng kỹ năng chơi banh và sức khoẻ của
vận động viên. Sự chống hoặc giảm rung của ống than nano
cho thấy một tiếm năng ứng dụng cực kỳ quan trọng từ các
công trình xây dựng đến cây vợt tennis.
Đã có những phương pháp
xử lý rung qua sự kết hợp của các vật liệu mang tính đàn
nhớt (viscoelastic), đàn hồi, từ tính, tính áp điện
(piezoelectric), các loại chất lỏng điện lưu biến
(electro-rheological) hay từ lưu biến
(magneto-rheological) (chất lỏng có khả năng gia giảm
một cách thuận nghịch độ nhớt dưới ảnh hưởng của điện
trường hay từ trường). Nguyên tắc của sự chống/giảm rung
là vật liệu phải mang một cơ chế hấp thụ năng lượng rung
và cơ chế này khác nhau tùy vào đặc tính của vật liệu.
Những vật liệu trên có khả năng hấp thụ năng lượng rung
rất hiệu quả nhưng khi kết hợp chúng vào một hệ
thống (thân tàu, thân máy bay, thân xe, bệ phóng tên
lửa, chân vịt tàu ngầm, máy móc...) thì có nhiều bất
tiện trong vấn đề thiết kế xảy ra. Những vướng mắc này
trở nên một chướng ngại cho việc hiện thực hóa thiết bị
chống rung.
Giáo sư Pulickel Ajayan
(Rensselaer Polytechnic Institute, Mỹ) là một người tiên
phong trong các nghiên cứu về nanocomposite chứa ống
than nano trên hai thập niên qua. Gần đây, nhóm nghiên
cứu của ông đã xác nhận đặc tính chống rung của ống than
nano [13-15]. Nhóm Ajayan đã chế tạo một phim nano dày
0,05 mm (50 mm)
chứa ống than nano nhiều vỏ (MWNT). Mặc dù rất mỏng
nhưng phim này có tác dụng chống rung rất hiệu quả. MWNT
hấp thụ và tiêu tán (dissipation) năng lượng rung qua sự
biến dạng (deformation) của những cụm ống nano trong
phim và trượt (shear) lên nhau. Ta thấy rõ phim MWNT là
một hệ thống động, nhận năng lượng rung và tiêu tán nó
bằng những biến đổi nội tại.
Một nhóm nghiên cứu
khác của giáo sư Wang [16] đã dựa vào kết quả của nhóm
Ajayan để chế tạo một composite giữa epoxy và ống than
nano vỏ đơn (SWNT). Composite này có tiềm năng ứng dụng
rất cao vì chỉ chứa một lượng nhỏ SWNT (0,5 - 5 %). Hình
9 cho thấy sự giảm rung rất hiệu quả mặc dù lượng SWNT
rất ít. Cơ chế hấp thụ và tiêu tán năng lượng rung là do
sự di động trượt của ống nano và cọ xát với chất nền.
Như vậy theo một lôgic đơn giản, muốn có sự giảm rung
hiệu quả thì ta cần bề mặt tiếp xúc giữa ống nano và
chất nền thật rộng và độ cứng thật cao. Muốn thực hiện
được điều này thì đường kính của chất độn (filler, trong
trường hợp này là ống nano) phải thật nhỏ (Phụ lục 3).
Như đã trình bày (Bảng 1), ống than nano có độ cứng siêu
việt. Trong các loại ống than, SWNT là một loại có đường
kính nhỏ nhất (vài nanomét) so với ống nano vỏ đôi hay
nhiều vỏ (> 5 nm). Vì vậy, dùng SWNT trong composite là
một lựa chọn hợp lý. Ta có thể mường tượng SWNT có tác
dụng như một cây kim cứng trượt tới lui khi bị rung. Sự
trượt khó có thể xảy ra khi vật liệu quá mềm và điều này
có thể lý giải được qua những trải nghiệm thường ngày.

Hình 9:
Độ rung giảm nhanh khi SWNT gia tăng từ 0 đến 1%
trong composite.
Một điều thú vị có
sự khác nhau giữa composite ống nano cho sự gia cường và
sự chống rung. Trong khi ở composite gia cường cần liên
kết cộng hóa trị giữa ống nano và chất nền để sự gia
cường có hiệu quả tối đa, thì ngược lại ở composite
chống rung, liên kết giữa ống nano và chất nền phải yếu
hoặc không liên kết để có sự trượt và cọ xát xảy ra. Các
composite chứa sợi thủy tinh, sợi aramid (Kevlar) hay
sợi carbon không có đặc tính chống rung vì đường kính
sợi ở cấp micromét, vài lần ngàn to hơn ống nano và chưa
đủ cứng để sự trượt xảy ra khi rung động.
Composite giữa polymer
và ống than nano vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Ta
cần phải đợi thêm một thời gian nữa để "gỡ rối" ống nano
và có một thương phẩm composite ống nano thay thế các
composite "cổ điển" gia cường bằng các loại sợi thủy
tinh, Kevlar hay carbon. Ta có thể hy vọng composite ống
nano tương lai sẽ cho nhiều đặc tính như độ cứng, dẫn
điện, dẫn nhiệt, chống rung và hiệu quả "tàng hình" cho
các ứng dụng quân sự.
6. "Bắc thang lên
hỏi ông trời"
Cơ tính tuyệt vời của
ống than nano làm bừng sống giấc mơ "cái thang không
gian" (space elevator) của nhiều nhà khoa học và hiện
thực hóa những điều tưởng tượng của các tác giả tiểu
thuyết khoa học viễn tưởng. Người viết chợt nhớ đến câu
chuyện "Cu Jack và dây leo đậu" (Jack and the
Beanstalk), kể chuyện hạt đậu nở ra thành dây leo to
bằng cổ thụ xuyên thủng trời xanh, mà hằng đêm người
viết vừa đọc vừa vẽ vời tô điểm để đưa các con vào giấc
ngủ. Giấc mơ "thang trời" cũng đã xuất hiện cách đây
hàng ngàn năm. Trong kinh Sáng Thế (Genesis), Jacob nằm
mơ thấy cái thang nối liền quả đất và trời, có những
thiên thần nhộn nhịp lên lên xuống xuống.
Cũng cái chuyện leo lên
trời, người viết lại nghĩ đến cụm từ "bắc thang lên hỏi
ông trời", thỉnh thoảng xuất hiện trong thi ca bình
dân. Dân ta thường thắc mắc những chuyện không đâu nhưng
lại không tìm ra câu trả lời, nên muốn "bắc thang lên
hỏi ông trời". Hay có những kẻ lãng mạn hơn muốn bắc
thang lên cung Nguyệt tìm gặp Hằng Nga. Vào Google đánh
vào cụm từ này, hàng loạt câu hỏi "giải đáp tâm tình",
vấn kế ông trời được đặt ra, chẳng hạn có người viết
rằng: "Bắc thang lên hỏi ông trời. Sao cho con lấy
những người con yêu. Ối dzời mày chớ có liều. Lấy nhiều
tàn mạt tiêu điều nghe con!"... Đại loại như thế.
Dân ta chỉ nghĩ chuyện gặp ông trời nhưng không ai nói
đến phương tiện hay cách làm cái thang. Có lẽ nó lắm vẻ
hoang đường nên dân ta thực tế không cần thiết phải bàn
nhiều hay chăng?
Tuy nhiên, ý tưởng làm
cái thang trời đã manh nha vào cuối thế kỷ 19 từ ý tưởng
một nhà khoa học người Nga, Konstantin Tsiolkovsky. Công
trình cao nhất thời đó là cái tháp Eiffel tại Paris, ông
nhìn tháp nghĩ đến chuyện làm cái thang không gian. Như
Einstein từng nói, sự tưởng tượng đưa con người đi khắp
tất cả mọi nơi. Cái thang không gian xem chừng như là
chuyện không tưởng và ngoài chuyện đồng thoại "Dây
leo đậu" nó đã là đề tài hấp dẫn trong những quyển
tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Nhưng trên quan điểm
khoa học việc xây dựng thang không vi phạm một qui luật
vật lý nào, nếu con người có khả năng thực hiện và sở
hữu một vật liệu thật bền chắc.
Vậy cái thang trời cần
phải cao bao nhiêu thì mới... đụng trời? Tính ra con số
thì phải cao đến 100.000 km, 20 lần dài hơn Vạn Lý
Trường Thành, gấp 2 lần xích đạo của quả đất. Để có một
sự so sánh ta hay tham khảo vài con số, máy bay dân sự
bay ở độ cao 10 km (cao hơn đỉnh Everest khoảng 1 km),
các vệ tinh truyền thông, thời tiết, trinh sát bay ở độ
cao vài trăm đến vài chục ngàn km và khoảng cách từ quả
đất đến mặt trăng là 380.000 km. Cái thang không gian sẽ
lơ lửng giữa trời nhưng nó không cụp xuống, vì ở đỉnh
thang được đặt một khối đối trọng (counterweight) nặng
80 tấn sao cho trọng tâm thang cách mặt đất khoảng
36.000 km (Hình 10). Thang sẽ là một dải băng rôn của
ống than nano. Dải băng rôn than nano lúc nào cũng bị
căng do hai lực: (1) lực kéo xuống hướng về mặt đất do
trọng lực và (2) lực hướng lên do lực ly tâm tác động
lên khối đối trọng gây ra bởi sự quay của quả đất. Hãy
tưởng tượng ta quay một viên đá ở đầu một sợi
giây. Chiếc xe (climber) chuyên chở bám vào thang chạy
lên xuống như những thiên thần trong giấc mơ của Jacob,
mang theo người, dụng cụ làm việc, các loại tải trọng
(payload) như vệ tinh để thả vào không gian.

Hình 10: Khái niệm
của thang không gian. Earth: trái đất, Climber: xe đi
lại, Cable: băng vận chuyển, Center of mass: trọng tâm
của hệ thống thang, Counterweight: đối trọng (Nguồn:
Wikipedia).
Cơ tính ưu việt của ống
than nano đã trở thành một kích thích tố thúc đẩy mạnh
việc xây dựng cây thang vạn lý. Những cuộc hội thảo về
thang không gian được tổ chức thường xuyên đã thu hút
hàng trăm khoa học gia và kỹ sư toàn thế giới trong mỗi
lần họp mặt. Những tin tức về nghiên cứu liên tục xuất
hiện trên báo chí và các phương tiện truyền thông có lẽ
vì sự táo bạo, nửa hiện thực nửa viễn tưởng của nó. Tuy
nhiên, đối với một số nhà khoa học đây là công trình
nghiêm túc, không phải chuyện đùa viễn tưởng phí phạm
tiền thuế nhân dân!
Nếu thành công, việc
phóng vệ tinh vào không gian sẽ giống như ta đứng trên
ban-công mở lồng thả chim bay. Phí tổn để phóng một vật
thể vào không gian bằng tên lửa hay tàu không gian con
thoi (space shuttle) là 100.000 đô-la cho mỗi 0,5 kg.
Dùng thang không gian, phí tổn sẽ giảm xuống còn 100
đô-la 1000 lần ít hơn, tương đương với dịch vụ giao hàng
nhanh của FedEx. Tàu con thoi có thể bị trục trặc nổ
tung khi bay vào không gian cũng như có thể bốc cháy khi
trở về quả đất nếu bay lệch góc khi vào khí quyển. Theo
chuyên gia, thang không gian sẽ an toàn hơn. Khi ra
ngoài không gian không còn ảnh hưởng trọng trường, chiếc
xe bị lực ly tâm tác động và như được chắp cánh thiên
thần có thể leo với vận tốc 30.000 km/h và khi gần đến
mặt đất sẽ lên xuống nhẹ nhàng với tốc độ giảm đến 20
km/h. Ngoài việc "thả" vệ tinh, có một ý nghĩ cực kỳ
điên rồ của các chuyên gia Mỹ cho rằng thang không gian
là phương pháp rẻ tiền và thoải mái nhất để "chôn" các
chất thải hạch nhân bằng cách tống khứ tất cả vào vũ
trụ!
Theo sự tính toán sơ
khởi dùng sức bền là 100 GPa và mật độ 1.400 kg/m3
(Bảng 1), ống than nano thỏa mãn điều kiện bền chắc cho
vật liệu thang không gian. Về hình dạng của thang, có
người bảo chỉ cần tạo một dải ống than nano bề ngang 1 m
mỏng như mảnh lụa đào, rồi thả vào không gian vô tận.
Nhưng để có sự bền chắc tối đa, phân bố ứng suất
(stress) phải giống nhau trên toàn dải băng rôn ống than
nano; bề ngang phải cực tiểu trên mặt đất và cực đại ở
điểm cao 36.000 km (trọng tâm của dải băng rôn). Theo
tiến sĩ Nicola Pugno [17], tỷ số giữa bề ngang cực đại
và cực tiểu của thép là 1033 cho thép và 2,6
x 108 cho Kevlar! Hai con số quá to và không
tưởng cho việc thiết kế. Tuy nhiên, tỷ số này chỉ là 1,9
(cực tiểu 1 m trên mặt đất và 1,9 m ở độ cao 36.000 km)
cho ống nano. Như vậy, đề nghị "dải lụa đào" bề ngang 1
m thả vào không gian tạm thời chấp nhận được vì rất gần
với hình dạng tối ưu. Thật là một điều đáng mừng và thêm
một lần nữa, ống than nano vượt qua một thử thách khác.
Nhưng cái nồng nhiệt
ban đầu từ từ bốc hơi khi những đòi hỏi khe khắt hơn
xuất hiện. Những chi tiết này đã được trình bày trong
bài viết xuất sắc của tiến sĩ Nicola Pugno với tựa đề
"Space elevator: out of order?" (Cái thang máy không
gian: hỏng rồi chăng?) [17]. Theo Pugno, sự lo lắng của
ông có một cơ sở khoa học chắc chắn. Ông áp dụng "cơ học
gãy đứt" (fracture mechanics) ở mức phân tử để tính toán
độ bền của ống than nano. Có thật hay không "Cái thang
máy không gian: hỏng rồi chăng?". Con số tuyệt vời 100
GPa cho độ bền và 1.000 GPa cho độ cứng là cơ tính của
một ống than nano toàn bích không có khuyết tật cấu trúc
(structural defect). Tuy nhiên, nếu 1 ống than nano chỉ
cần mất đi 1 nguyên tử carbon, thì ống sẽ mất ngay 30 %
độ bền. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc thiết
kế thang không gian. Dù các nhà khoa học có thể tạo ra
ống than nano lý tưởng, 100 % không khuyết tật, sự va
đập ngoại vật trong lúc sử dụng và thao tác cũng gây vết
tì, trầy xước. Những yếu tố gây tác hại trong khi sử
dụng như sấm sét đánh vào, sự dao động bởi những trận
cuồng phong gây ra hiện tượng mỏi (fatigue) ở hạ tầng
khí quyển, vẫn thạch vũ trụ va đập vào thang, tia tử
ngoại ngoài không gian là nguyên nhân nghiêm trọng gây
ra sự gãy đứt các liên kết carbon ở mức vi mô cho đến
những tì vết ở mức vĩ mô.
Ngoài ra, như đã đề cập
ở phần trên, hiện nay những sợi vật liệu tạo từ ống than
nano chỉ có độ cứng (mô-đun Young) bằng 1/10 trị số của
ống than tạo thành. Và dựa trên kết quả lý thuyết, khi
độ bền chỉ còn 10 GPa thì tỷ số bề ngang cực đại và cực
tiểu của dải ống nano tăng lên 613; 1 m ở mặt đất và 613
m ở độ cao 35.000 km. Một việc trên thực tế rất khó thực
hiện. Tệ hơn nữa, độ bền sợi ống than nano của kỹ thuật
hiện tại chỉ là 1,8 GPa [7].
Pugno nghĩ như thế nào
về "cây leo" ống than nano? Ông kết luận rằng "Không
thực hiện được! Với kỹ thuật hiện tại, không bao giờ!".
Nhưng cũng có ý kiến lạc quan hơn "Đừng bao giờ nói
không bao giờ" (Never say never) [18]. Công trình
thang không gian vẫn tiếp diễn và các triển khai đạt độ
bền tối đa cho sợi ống nano vẫn là đề tài nghiên cứu
"nóng". Những nỗ lực làm thang không gian trên thế giới
không đâu sôi động bằng Mỹ và Nhật. NASA đã dự trữ vài
triệu đô-la tiền nghiên cứu cho công trình này. Số tiền
không nhiều nhưng cũng là một nỗ lực đáng ghi nhận. Công
ty Mỹ, LiftPort, được thành lập chuyên thiết kế thang
không gian. Chính phủ Nhật Bản đang dự tính đầu tư vài
tỷ đô-la. Nhưng có lẽ vì khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
tạm thời hơn 100 chuyên gia Nhật phải làm công việc khác
kiếm tiền để có thể chu cấp kinh phí tiếp tục công trình
thang không gian [19].
Trong khi đó các cuộc
hội thảo về thang không gian vẫn được tổ chức thường
xuyên, các nhà khoa học, kỹ sư, doanh nhân vẫn tiếp tục
gặp nhau nói chuyện trên trời. Họ là những chuyên gia
nhiệt tình với nghề, đầy ắp niềm tin, mang nhiều hoài
bão hay chỉ là một nhóm người sống trong mơ, xa rời thực
tại. Thời gian sẽ trả lời.
7. Các ứng dụng
điện tử
Ống than nano có đường
kính từ vài nanomét đến vài chục nanomét nhưng có thể
dài đến micromét, thậm chí milimét. Nó lại dẫn điện. Vì
vậy, ống nano có thể xem như một dây dẫn điện có đường
kính cực nhỏ và có thể xem như dây dẫn điện lý tưởng một
thứ nguyên, 1-D (one dimension). Từ điểm xuất phát này
các nhà khoa học nghĩ đến các ứng dụng trong điện tử
(electronics) hay quang điện tử (opto-electronics). Hình
dạng ống lại đưa đến một tính chất đặc biệt rất quan
trọng là sự truyền điện đạn đạo (ballistic conduction).
"Đạn đạo" ở đây không liên quan gì đến vũ khí mà chỉ
dùng để diễn tả quá trình truyền điện trong đó điện tử
(electron) di động thẳng theo một phương hướng nhất định
như tên lửa, không bị vướng mắc và không có sự va chạm
đến các nguyên tử của vật liệu. Sự truyền điện thông
thường trong kim loại thường gây ra nhiệt vì khi di động
điện tử thường xuyên va chạm vào nguyên tử và đó nguyên
nhân của điện trở và nhiệt. Ta có thể mường tượng sự di
chuyển "phi đạn đạo" của các điện tử trong kim loại là
một con đường ngoằn ngoèo, bá vào người này chạm vào
người kia của một người chạy bộ giữa chốn đông người.
Truyền điện đạn đạo khác sự truyền điện siêu dẫn là
truyền đạn đạo không có hiệu ứng từ tính Meissner và khi
tắt nguồn điện dòng điện triệt tiêu, nhưng trong chất
siêu dẫn dòng điện vẫn tiếp tục hiện hữu [20].
Bằng những thiết kế thí
nghiệm tinh vi và sáng tạo, nhóm de Heer (Georgia
Institute of Technology, Mỹ) đã xác định sự truyền điện
đạn đạo trong SWNT và MWNT [21-22]. Điểm nổi bật rất
quan trọng của ống than nano là sự truyền điện đạn đạo
có thể xảy ra ở nhiệt độ bình thường, trong khi nhiều
vật liệu khác hiện tượng này chỉ xảy ra ở nhiệt độ âm
vài trăm độ C. Một điểm nổi bật khác là ống than nano có
thể tải điện ở mật độ rất cao 109 - 1010 Ampere/cm2,
hay là 1000 lần cao hơn đồng [23]. Điều này cho thấy một
tiềm năng ứng dụng rất đa dạng trong lĩnh vực điện tử,
quang điện tử khi linh kiện và mạch điện càng lúc càng
thu nhỏ đến mức nanomét.
Con người đang ở thời
đại của cách mạng tin học. Chiếc máy vi tính, điện thoại
cầm tay, máy ảnh kỹ thuật số, màn hình tivi mỏng với độ
phân giải cao, iPod, iPhone, và nhiều dụng cụ điện tử
khác trở thành những vật không thể thiếu trong một cuộc
sống văn minh. Đằng sau những dụng cụ này là một linh
kiện điện tử quan trọng gọi là transistor. Và vật liệu
làm nên transistor là nguyên tố bán dẫn silicon. Độ lớn,
độ mỏng và các chức năng đa dạng của các dụng cụ điện
tử, quang điện tử tùy thuộc vào sự thu nhỏ của
transistor. Transistor là đầu não hoạt động của các dụng
cụ điện tử hiện tại. Khi transistor càng nhỏ, ta có thể
gia tăng số transistor làm dụng cụ càng linh hoạt, chức
năng càng cao, ứng đáp càng nhanh chóng, kích thước càng
mỏng, nhỏ và gọn gàng. Từ những ưu điểm này, sự đòi hỏi
thu nhỏ kích thước transistor càng lúc càng mãnh liệt.
Trong vòng 40 năm, transistor đã thu nhỏ vài chục triệu
lần và giá cả chế tạo một transistor giảm đi một triệu
lần. Giá một chiếc máy vi tính thật ra giảm rất nhiều so
với tính năng càng lúc càng phong phú của nó. Nếu giá
chiếc xe hơi có độ giảm giá giống như transistor thì
ngày hôm nay ta có thể mua một chiếc xe hơi với giá vài
xu! Hiện nay, transistor "Penryn" do hãng Intel chế tạo
từ nguyên tố silicon và hafnium có kích thước 45 nm là
transistor nhỏ nhất trên thương trường. Theo luồng chế
biến này, người ta dự đoán rằng transistor silicon với
kích cỡ 16 nm sẽ được tung trên thương trường vào
năm 2018.
Silicon quả là một vật
liệu điện tử tuyệt vời mang đến biết bao điều thoải mái,
tiện ích, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của con người. Nhưng cuộc vui nào cũng phải có giây phút
chấm dứt. Khi transistor càng nhỏ, dòng điện bị thất
thoát càng cao do sự rò điện (leakage) gây ra sự phát
nhiệt không cần thiết. Trong tất cả máy vi tính, người
ta gắn quạt và bộ phận hút nhiệt để làm giảm nhiệt độ bộ
phận xử lý trung tâm (CPU chip) nơi tập trung hàng trăm
triệu transistor. Các nhà khoa học và kỹ sư vi mạch có
tham vọng thiết kế transistor ở cấp phân tử, mức nhỏ
nhất của vật chất. Nhưng transistor phân tử là một linh
kiện của vài thế hệ kế tiếp; một viễn cảnh của 20 -30
năm sau. Cái thực thể "nghìn trùng xa cách" chỉ cho
ta một cái cảm giác hụt hẫng, nhưng giữa cái xa xăm này
và cái transistor silicon ta đang có, là khả năng chế
tạo transistor ống than nano.
Đường kính cực nhỏ cuả
ống nano có thể giảm độ lớn của transistor đến kích cỡ
vài nanomét. Ngoài ra, đặc tính truyền điện đạn đạo của
ống nano sẽ cho những ứng đáp siêu nhanh (ultrafast
response). Đại học công nghiệp Delft (Delft University
of Technology, Hà Lan) và công ty IBM đã nghiên cứu
transistor ống than nano từ năm 1998 (Hình 11).

Hình 11: Transistor
ống than nano. (a) Cấu trúc, S: cực nguồn (source), D:
cực máng (drain), Si back gate: cổng silicon. (b): Mặt
trên của mẫu transistor với cực S và D là hợp kim Au/Ti
được nối với một SWNT bắc ngang [24].
Điều làm ta có thể lạc
quan về tương lai của ống than nano là những công ty lớn
như IBM vẫn tiếp tục đầu tư vào các nghiên cứu ứng dụng
điện tử của ống nano. Silicon không có khả năng thu nhỏ
hơn nữa cho việc chế tạo transistor đến cấp phân tử và
đây là một điều khẳng định trong cộng đồng nghiên cứu
khoa học. Ngành công nghiệp điện tử phải sang trang để
có một vật liệu mới và hướng đi mới. Tiến sĩ Phaedon
Avouris và các cộng sự ở công ty IBM gần đây đã viết một
bài tổng quan đặc sắc với tựa đề "Carbon-based
electronics" (Điện tử học dùng carbon) [25], tổng kết
những tiến bộ trong 10 năm qua của transistor ống than
nano và gần đây của graphene [26]. Nhóm Avouris đã chứng
tỏ tiềm năng của ống than nano qua sự thiết kế một mạch
lôgic tích hợp (integrated logic circuit) chứa 10
transistor trên một ống than nano dài 18
mm
[27]. Mạch tích hợp đầu tiên này có một độ nhỏ rất ấn
tượng là 20 mm
hay là 1/5 của bề dày sợi tóc.
Trong việc thiết kế vi
mạch, một bài viết của một nhóm nghiên cứu tại đại học
Bắc Kinh (Trung Quốc) xuất hiện trong số mới nhất của
tạp chí Advanced Materials báo cáo một mạch điện
phân tử dùng transistor ống than vỏ đơn (SWNT) và dùng
ống than nhiều vỏ (MWNT) cho việc nối mạng
(interconnect) thay vì dùng kim loại (đồng, vàng, bạch
kim) (Hình 12) [28]. Nhóm nghiên cứu này tận dụng được
đặc tính truyền điện đạn đạo cho ứng dụng transistor và
mật độ tải điện tuyệt vời cho ứng dụng nối mạch và đã
chứng tỏ mạch điện phân tử là một việc khả thi mà trong
đó ống nano là viên gạch thiết kế cơ bản (building
block).

Hình 12: Transistor
toàn ống nano: hai MWNT song song là cực nguồn (source)
và cực máng (drain) nối hai đầu SWNT của transistor.
Sự lựa chọn SWNT làm
vật liệu cho transistor và MWNT làm dây "điện" phân tử
liên mạng là một quyết định hợp lý, vì SWNT có độ dẫn
điện trong vùng bán dẫn như silicon, và MWNT có độ dẫn
điện của kim loại. Tuy nhiên, như đề cập bên trên kỹ
thuật tổng hợp ống than nano cho ta "mớ bòng bong" vàng
thau lẫn lộn. Cái "mớ bòng bong" SWNT có 2/3 ống bán dẫn
và 1/3 còn lại có độ dẫn điện kim loại. Ngoài ra, để tận
dụng tính dẫn điện của MWNT, những vỏ bên trong cũng
phải truyền điện đồng loạt. Như vậy, ta cần liên kết các
vỏ bằng hạt kim loại hay carbide kim loại [29]. Sàng lọc
SWNT để tuyển ra các ống nano bán dẫn và liên kết các vỏ
của MWNT đang được nghiên cứu và thực hiện nhưng sẽ rất
tốn kém trong quá trình sản xuất.
Transitor và liên mạng
dùng ống nano của nhóm nghiên cứu đại học Bắc Kinh là
một công cụ phân tử tuyệt vời. Ta đang nhìn thấy tương
lai! Tuy nhiên, trên mặt kỹ thuật transistor ống nano
vẫn còn nhiều vướng mắc, về mặt giá cả nó chưa phải là
một sản phẩm đại trà. Vấn đề kỹ thuật cơ bản vẫn là việc
chế tạo chính xác cấu trúc của ống nano. Để có thể là
một ứng viên tốt, độ dẫn điện của ống than nano phải ở
trong một vùng nhất định với cấu trúc vi mô, kích thước
giống nhau. Như đã đề cập ở phần trên, các mảng sản xuất
không có sự đồng nhất và chính trong những mảng này lại
là một "mớ bòng bong" có một loạt ống nano với hình
dáng, cấu trúc, cơ tính, độ dẫn điện, truyền nhiệt khác
nhau. Nhưng các nhà khoa học không dễ dàng thối lui.
Trong mười năm qua, người ta đã thấy những nỗ lực dồn
vào việc tổng hợp các ống nano đồng nhất, chất lượng cao
cho các ứng dụng điện tử (xem Bảng 2 ở Phần 10). Hơn
nữa, các nhà khoa học đã nghiên cứu tính chất tự lắp ráp
(self-assembly) của ống nano, một tính chất quan trọng
cho việc chế tạo các công cụ điện tử ở cấp độ nanomét.
Một triển khai quan
trọng khác đáng ghi nhận là sản phẩm điện tử ống nano
của Nantero. Công ty Nantero (Mỹ) (www.nantero.com),
một công ty nhỏ chuyên nghiên cứu và thương mãi hóa
chip nhớ (memory chip) hoàn toàn với ống than nano
gọi là nano RAM (NRAM). Mục tiêu của Nantero là sẽ dùng
NRAM trong máy vi tính, điện thoại, máy chụp hình kỹ
thuật số và các dụng cụ điện tử khác. Nantero dự đoán
NRAM sẽ có doanh thu 100 tỷ đô-la hằng năm, và hiện đang
ở giai đoạn mẫu thử (prototype).
Như vậy, liệu
transistor và chip ống than nano có thế thay thế
linh kiện silicon trong vài năm tới và máy vi tính chúng
ta đang sử dụng có thể thu nhỏ bằng cục đường cà phê 2 x
2 x 2 cm có bộ nhớ và sức mạnh thao tác tương đương?
Không, hiện tại chúng ta vẫn chưa đạt đến trình độ đó.
Con đường thu nhỏ transistor bằng ống than nano là một
con đường đầy hoa thơm cỏ lạ nhưng hiện nay nó vẫn còn
lầy lội lắm chông gai. Một sản phẩm mới phải có sức cạnh
tranh theo tư tưởng thực tế của thương trường là 10 lần
tốt hơn và 10 lần rẻ hơn. Kỹ thuật dựa trên silicon có
thể thu nhỏ transistor đến 16 nm, và hiện tại vốn chế
tạo một chip vi tính chứa 109 (1 tỷ)
transistor chỉ vào khoảng 50 đô-la. Dùng vật liệu
mới thay thế silicon phải cần 20 năm để có một quy trình
công nghệ sản xuất đại trà với phí tổn tương đương
[30]. Như vậy lúc nào thì ống nano có thể chen chân vào
thị trường transistor? Một chuyên gia dự đoán là trong
khoảng 2015. Ta có thể thu nhỏ nhưng lợi nhuận thì sao?
Để có lợi nhuận ta cần phải đợi thêm vài thập niên nữa.
8. Bộ cảm ứng hóa
học và sinh học
Ống than nano có thể
dùng trong bộ cảm ứng bị kích thích bởi sóng điện từ
(quang), nhiệt, điện, áp suất, lực, hóa chất hay phân tử
sinh học (các loại phân tử trong cơ thể, DNA, enzyme,
kháng thể, vi khuẩn, vi-rút...). Những tác nhân kích
thích này làm thay đổi đặc tính của ống nano. Sự biến
đổi điện trở hay điện dung (capacitance) của vật liệu
cảm ứng là hai thông số thường được dùng để truy tìm hay
phát hiện tác nhân kích thích. Polymer dẫn điện [31] là
một trong những vật liệu được dùng cho mục tiêu này. Ống
than nano cũng có một đặc tính tương tự.
Tuy nhiên, vì sự đa
dạng trong các tính chất của ống nano, vật liệu này được
tận dụng để chế tạo cho những bộ cảm ứng hóa và sinh học
(chemical and biological sensors) có thể phát quang.
Việc đo đường trong máu là một việc cần thiết cho những
người mắc chứng tiểu đường. Tiến sĩ Michael Strano (Đại
học Illinois, Mỹ) thiết kế một bộ cảm ứng chứa ống than
nano, phát quang khi bị kích thích bởi tia cận hồng
ngoại. Tia cận hồng ngoại có thể đi xuyên qua mô mà
không gây sự tổn hại đến tế bào nên rất phổ biến trong
việc chẩn đoán y học. Ống nano được phủ lên một hóa chất
phản ứng với đường glucose. Phản ứng này sẽ làm thay đổi
cấu trúc điện tử của ống và khi chiếu tia cận hồng ngoại
(bước sóng 700 - 900 nm) thì ống nano sẽ phát quang.
Cường độ phát quang càng to khi lượng đường càng nhiều.
Bộ cảm ứng được cấy dưới da để theo dõi lượng đường mà
không cần trực tiếp lấy máu theo phương pháp thông
thường.
Công nghệ thực phẩm
cũng cần bộ cảm ứng để quản lý phẩm chất của thịt, sữa.
Sự rữa thối do vi khuẩn cần phải được phát hiện sớm để
tránh ngộ độc thực phẩm. Bộ cảm ứng hóa và sinh học ống
than nano được dùng để kiểm tra độ tươi của thịt hay
định lượng chất phụ gia (additives), thuốc sát trùng,
diệt cỏ, hóa chất độc hại trong thịt tươi hay thịt biến
chế. "Mũi điện tử" ống than nano được nghiên cứu dùng
trong quốc phòng và chống khủng bố để "đánh hơi" bom hay
vũ khí sinh hóa học dấu trong hành lý, xe hơi, máy
bay. Khả năng cảm ứng của ống nano cho một tiềm năng ứng
dụng rất rộng lớn.
Một trong những thiết
kế của bộ cảm ứng là bộ cảm ứng dùng transistor. Mặc dù
transistor ống than nano hiện tại chưa đạt đến trình độ
tinh vi thay thế hoàn toàn transistor silicon dùng trong
vi tính hay các dụng cụ điện tử cao cấp, nhưng nó thừa
khả năng tạo các bộ cảm ứng có độ nhạy thật cao. Hơn
nữa, sự thu nhỏ của bộ cảm ứng không có sự đòi hỏi gắt
gao như trong vi tính, nên việc triển khai transistor
ống nano thành bộ cảm ứng hóa và sinh học trở thành một
lĩnh vực áp dụng rộng rãi cho công nghiệp và y học.
Ống than nano dùng cho
bộ cảm ứng được xử lý hóa học bằng cách phản ứng với một
hóa chất hay "gắn" trên bề mặt ống nhóm chức (functional
group), phân tử sinh học thích hợp để có tác dụng chọn
lựa với phân tử cần phải truy tìm. Phân tử này có thể là
khí độc hay DNA, protein, enzyme, kháng thế, vi-rút, các
loại vũ khí hóa học và sinh học. Độ nhạy của bộ cảm
ứng thường được tính theo nồng độ của phân tử chất phân
tích với đơn vị "phần triệu" (par per million, ppm) hay
là "phần tỷ" (par per billion, ppb). Trong bộ cảm ứng
thông thường, vật liệu cảm ứng là vật liệu khối (bulk)
chứa hàng tỷ, tỷ tỷ phân tử. Nhưng vật liệu cảm ứng của
transistor chỉ là một ống than nano, tức là một phân tử
(Hình 11). Hãy tưởng tượng vài phân tử khí độc tác dụng
lên hàng tỷ phân tử của vật cảm ứng, như một giọt nước
nhỏ vào ly nước, sự thay đổi rất khó phát hiện. Nhưng
chỉ cần một phân tử này tác động lên ống nano (nghĩa là
phản ứng giữa 2 phân tử) là ta thấy ngay sự thay
đổi điện tính của transistor. Bộ cảm ứng transistor nếu
được thiết kế hợp lý có thể dễ dàng đạt đến độ nhạy
"phần tỷ".
9. Các ứng dụng
khác
Sự cần thiết của việc
định lượng cơ tính ở cấp nano đã khiến những thao tác
nano (nano-manupilation) như kéo, bẻ, gắn ống nano có
những tiến bộ khả quan. Một trong những thao tác này là
việc khảo sát sự liên kết giữa các vỏ của ống than nano
nhiều vỏ (MWNT). Cumings và Zettl [32] đã thực hiện một
thí nghiệm rất ấn tượng với những thao tác nano trong đó
vỏ ngoài cùng được cắt phần đầu để lộ ra vỏ bên trong.
Vỏ bên trong được kéo ra vào như động tác "rút kiếm" hay
điều chỉnh ống nhòm thiên văn. Sau khi kéo ra, vỏ bên
trong được thả tự do và vỏ này sẽ tự động thụt vào do
lực hút van der Waals giữa bề mặt vỏ ngoài và vỏ trong
(Hình 13). Lực hút van der Waals tác động khi hai bề mặt
kề cận ở một khoảng cách cực nhỏ. Khoảng cách giữa hai
vỏ tiếp cận của MWNT trong khoảng 0,1 - 0,5 nm (bằng độ
lớn của một nguyên tử) (Hình 3).

Hình 13: Thao tác
nano với MWNT. (a) MWNT nguyên trạng, (b) Cắt phần đầu,
lộ vỏ bên trong, (c) Gắn với đầu dò, (d) Kéo ra vào và
(e) Thả tự do, trở lại vị trí ban đầu (thụt vào) bởi lực
van der Waals.


John
Cumings
Alex Zettl
Động tác "rút kiếm" ra
vào được này được lặp lại nhiều lần để quan sát sự ma
sát và mài mòn ở thứ nguyên nano. Ngoài việc thiết kế
một thí nghiệm có một không hai này, John Cumings và Alex Zettl
đưa ra một kết luận rất quan trọng là ở cấp nano sự ma
sát rất ít và do đó sự mài mòn rất nhỏ. Đặc tính này
tương tự như các động cơ phân tử sinh học trong cơ thể
con người (thí dụ như động cơ phân tử ATPase trong tế
bào). Có phải chăng ở cấp nano, dù là nhân tạo hay thiên
nhiên, ma sát và mài mòn không còn là yếu tố quan trọng?
Sự quan sát của Cumings và Zettl cho thấy một triển vọng
to lớn trong việc chế tạo những động cơ nano nhân tạo có
năng suất cao và tuổi thọ lâu dài trong đó MWNT có thể
dùng như ổ trục (bearing) hay một bộ dẫn động (actuator)
nano.
Công trình của Cumings
và Zettl được nhanh chóng triển khai bởi các đồng nghiệp
[33]. Họ áp dụng phương pháp của Cumings và Zettl để
"cắt nano" vỏ ngoài cùng, tạo dáng cho MWNT. Lúc thì
cắt một đầu, lúc hai đầu, lúc thì cắt phần giữa chừa lại
hai đầu v.v... Một kỹ thuật thiết kế vỏ nano (nano-shell
engineering) được phát huy triệt để. Sau đó, những ống
sẽ được gắn vào nhau dưới kính hiển vi điện tử được
phóng đại vài trăm ngàn lần, theo một mô hình mong muốn
như trẻ con lắp ráp Lego. Họ không dùng lực cơ để kéo mà
dùng lực tĩnh điện hay dùng điện áp để kích thích động
tác đi ra đi vào của lớp vỏ bên trong. Tùy vào tần số
của tác động bên ngoài (thí dụ, tần số của điện áp),
động tác ra vào có thể đạt đến hàng tỷ lần trong một
giây (Gigahertz). Những ống than nano có hình dạng khác
nhau này sẽ là những bộ phận ráp nối tạo ra con robot
nano biết đi, biết nhảy, biết rung động. Từ đây đến con
nano robot là một hành trình dài, nhưng MWNT với các
loại vỏ khác nhau hy vọng sẽ là những viên gạch làm ra
động cơ phân tử điều khiển con robot theo ý muốn.
Những tiềm năng khác
của ống than nano còn rất nhiều như chế tạo siêu tụ điện
(super-capacitor) hay vật liệu cho pin mặt trời. Một số
nhà khoa học áp dụng ống nano vào y học. Họ dùng ống
than nano như một giàn giáo (scaffold) để xương phát
triển nối liền hai khúc xương gãy. Ống nano có thể xuyên
thủng vỏ tế bào và được sử dụng như một ống thông thương
để truyền dược liệu trực tiếp vào tế bào. Tất cả những
ứng dụng này phải cần ít nhất một thập niên để chính
thức đưa vào trị liệu.
Tuy nhiên, ống than
nano không phải là một vật liệu sáng tỏa phép mầu, "bách
chiến bách thắng"! Có một lúc cộng đồng nghiên cứu khoa
học bị khuấy động lên về việc ống nano có khả năng chứa
rất nhiều khí hydrogen. Việc tồn trữ hydrogen như một
nguồn năng lượng liên quan trực tiếp pin nhiên liệu
(fuel cell) và rất thích hợp cho quan niệm năng lượng
"xanh". Điều quan trọng là hydrogen cần được chứa một
cách an toàn ở mật độ cao. Nếu vấn đề này được giải
quyết, việc dùng pin nhiên liệu sẽ có một ảnh hưởng sâu
đậm đến mọi ngành công nghiệp nhất là công nghiệp xe
hơi. Thật không gì bằng khi ống nano có thể chứa
hydrogen trong cái khoảng rỗng của ống. Nếu ống chứa
được 6 - 10 % khí hydrogen cho mỗi đơn vị trọng lượng
của ống nano thì một cuộc cách mạng sẽ nổ ra trong nền
công nghiệp xe hơi. Tính toán ban đầu cho thấy khả năng
chứa đạt đến 60 %. Quá tuyệt vời! Nhưng con số này bị
cho là sai lầm và thực tế ống than nano chỉ chứa nhiều
lắm 1 %. Mọi việc nhẹ nhàng chìm vào dĩ vãng.
Một đặc tính khác của
ống nano là sự phát xạ trường (field emission). Khi điện
thế được áp đặt vào một đầu của ống nano, đầu kia sẽ
liên tục phát ra điện tử (electron). Đã có nhiều dụng
cụ (thí dụ: ống tia âm cực) có đặc tính phát xạ trường
nhưng ống nano có thể vận hành ở điện thế thấp, phát xạ
trong một thời gian dài mà không bị tổn hại. Áp dụng
trực tiếp của phát xạ trường là màn hình tivi và vi
tính. Đây là một công nghệ mang lại 50 tỷ đô-la mỗi năm.
Màn hình mỏng tinh thể lỏng đang thống trị công nghệ màn
hình, thay thế dần các màn hình ống tia âm cực nặng nề,
kềnh càng. Ống nano có thể làm màn hình mỏng hơn nữa, rõ
nét và dùng điện 10 lần ít hơn. Các công ty điện tử
đã làm mẫu thử (prototype) từ năm 1995 -1998, hy vọng
chiếm lĩnh thị trường màn hình nhỏ hơn 5 inches. Nhưng
các khuyết điểm của tinh thể lỏng như độ phân giải, hình
ảnh mờ khi nhìn góc nghiêng đã lần lượt được giải quyết
và vượt qua kỹ thuật ống nano. Nhiều công ty đã bỏ cuộc
và hiện nay chỉ còn tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) vẫn bám
vào ống nano lội ngược dòng!
10. Con đường đi
đến sản phẩm
Xuất phát từ năm 1991
khi Sumio Iijima tái phát hiện ống than nano thì việc
nghiên cứu và triển khai ống than nano đã đi qua 18 năm
với số báo cáo khoa học lên đến chục ngàn và hàng ngàn
đăng ký phát minh (patent). Việc nghiên cứu triển khai
và ứng dụng ống than nano bao trùm hầu như tất cả mọi
lĩnh vực trong khoa học, từ vật lý đến sinh y học, từ
vật liệu học đến hoá học. Ngay trong ngành vật lý, bóng
dáng ống than nano xuất hiện trong các hiện tượng vĩ mô
như cơ tính, truyền nhiệt, dẫn điện, cho đến các hiện
tượng vi mô, lượng tử như điện tử học, quang điện tử,
quang tử học (photonics). Như một phản ứng dây chuyền,
cái ống nano rỗng và dài không ngừng lộ ra những đặc
tính kỳ diệu, cái này tiếp nối cái khác, liên tục kích
thích sự hiếu kỳ của các nhà khoa học. Chẳng hạn, khi
người ta chưa tìm hiểu hết đặc tính truyền dẫn đạn đạo
thì đồng thời phát hiện sự phát quang điện học
(electro-luminescence) trong ống do sự lượng tử hóa, và
khi cắt ống thành những ống nhỏ thì các ống ngắn là
những điểm lượng tử (quantum dot). Tiếp đến, những thao
tác nano trong việc đo cơ tính đã đưa đến hàng loạt kỹ
thuật để tạo ra những con robot nano mà MWNT là bộ phận
cấu thành cơ bản.
Mặt khác, từ những khám
phá hàn lâm đến một ứng dụng ta lại có một loạt vấn đề
cần phải giải quyết để quyết định ống than nano có phải
là vật liệu mới thay thế cho vật liệu cũ cho một ứng
dụng hiện có, hay một ứng viên sáng giá cho một ứng dụng
hoàn toàn mới. Những vấn đề còn tồn đọng như cơ chế tổng
hợp các ống nano giống nhau, tinh chế loại bỏ chất tạp,
gỡ rối, xe sợi cần phải được giải quyết để có một sản
phẩm ống nano đồng nhất dù đó là một nanocomposite gia
cường, bộ cảm ứng, một ứng dụng y học hay là một
transistor nano. Ống than nano vô hình chung trở thành
người tù vì sự đa dạng của mình. Thêm vào đó, các
nhà nghiên cứu hàn lâm phần lớn chỉ dừng lại ở điểm là
công bố những bài báo cáo và dùng số lượng bài báo như
là một thành tích để tiếp tục tìm kiếm kinh phí cho một
đề tài khác.
Nếu gọi là "vật liệu
thần kỳ" với những đặc tính kỳ diệu và tiềm năng ứng
dụng bao trùm nhiều lĩnh vực khoa học thì không ít người
sẽ hỏi rằng ống than nano hiện nay đã có sản phẩm gì
trên thương trường. Phải nói là rất ít vì các lý do
trên. Những khám phát thú vị của ống than nano giờ đây
đã được thu tóm trong một số thư tịch điển hình là quyển
"Carbon Nanotubes: Advanced Topics in the Synthesis,
Structures, Properties and Applications" ("Ống than
nano: Những đề tài tiên tiến về Tổng hợp, Cấu trúc, Đặc
tính và Ứng dụng) [34], dày ngót 700 trang. Nội dung
quyển sách phấn lớn đề cập rất nhiều đến những thành quả
rực rỡ của các nghiên cứu cơ bản hay tiềm năng ứng dụng
trong tương lai, rất ít về các sản phẩm. Nhưng điều đáng
mừng là phần lớn những công trình nghiên cứu của ống
nano đều phát sinh từ động lực ứng dụng. Theo thống kê,
hơn 1/3 các báo cáo ống nano đều quan tâm đến ứng dụng.
Một cách khách quan, ống than nano - một vật liệu chiếm
một phần quan trọng của nền công nghệ nano - không phải
không có một tương lai, nhưng các nhà khoa học cần hiểu
rõ hơn quá trình chông gai từ khám phá đến thương phẩm,
gạt bỏ cái lạc quan "tếu", cần nhiều kinh phí nghiên cứu
và nhiều thời gian hơn để tạo ra các sản phẩm giá trị.
Những điều viết bên
trên cho thấy ống than nano cho con người một tiềm năng
sâu rộng mặc dù việc nghiên cứu vẫn còn nhiều thử thách
và khó khăn chập chùng. Nhìn một cách công bằng hơn, các
sợi gia cường như sợi Kevlar, carbon "cổ điển" [3], cần
đến 30 năm để trở thành một công nghệ trưởng thành trên
thương trường. Việc thương mãi hóa ống than nano vẫn còn
nhiều thời gian và đã có những thành quả khả quan. Bảng
2 trình bày động hướng triển khai trong lĩnh vực sản
xuất doanh thương, chủ yếu chú trọng nhiều đến các công
ty Mỹ. Đây không phải là một bảng đầy đủ nhưng nó biểu
thị một thái độ "có thể làm" (can do) của giới doanh
thương hay dùng khẩu hiệu thời thượng của Barack Obama
là "Yes! We can". Giữa hai ý tưởng tương phản "chốn ấy
hang hùm chớ mó tay" và "vào hang hùm mới bắt được cọp
con", sự kết hợp giữa khoa học và doanh thương chứng tỏ
phong cách của các nhà khoa học và tầm nhìn của các
doanh nhân là một thái độ dấn thân "vào hang hùm", và
cái "hang hùm" ống nano quả là rất đáng được "mó tay"...
Bảng 2: Nghiên
cứu và triển khai của các sản phẩm ống than nano [35]
Công ty
|
Sản phẩm
|
Giai đoạn |
Ống than nano chất lượng cao cho các ứng dụng điện
tử |
CarboLex (Mỹ) |
Chế tạo bằng hồ
quang hay CVD |
Sản xuất
|
Carbon
Nanotechnologies (Mỹ) |
Chế tạo bằng CVD |
Sản xuất
|
Carbon Solutions
(Mỹ) |
Chế tạo bằng hồ
quang |
Sản xuất
|
SouthWest
NanoTechnologies (Mỹ) |
Ống than nano
đặc biệt từ CVD |
|
Thomas Swan
(Anh) |
Ống than nano
sản xuất đại trà từ CVD |
Sản xuất
|
Phim trong
suốt
|
Battelle
Memorial Institute (Mỹ) |
Lớp phủ trong
suốt |
Nghiên cứu |
Eikos (Mỹ) |
Mực in dẫn điện
|
Triển khai sản
phẩm |
Eastman Kodak
(Mỹ) |
Lớp phủ quang
học trong suốt |
Nghiên cứu, mẫu
thử (prototype) |
Unidym (Mỹ) |
Phim cho màn
hình chạm (touch screen), pin mặt trời, diode phát
quang |
Triển khai sản
phẩm |
Linh kiện
|
DuPont (Mỹ) |
Linh kiện điện
tử trong suốt |
Nghiên cứu |
IBM (Mỹ) |
Transistor nano
cho vi tính |
Nghiên cứu |
Intel (Mỹ) |
Liên mạng
(interconnect) |
Nghiên cứu |
Motorola (Mỹ) |
Bộ cảm ứng hóa
và sinh học |
Mẫu thử |
Nanomix (Mỹ) |
Bộ cảm ứng hóa
và sinh học |
Triển khai sản
phẩm |
Nantero (Mỹ) |
Công nghệ bộ nhớ
|
Mẫu thử |
Samsung (Hàn
Quốc) |
Màn hình
|
Nghiên cứu |
Bảng 2 cho thấy sự
phát triển lôgic đi từ giai đoạn sản xuất các loại SWNT
và MWNT chất lượng cao cho các ứng dụng điện tử, gia
cường, đến các mẫu thử của bộ cảm ứng và giai đoạn
nghiên cứu các linh kiện điện tử với những đòi hỏi khắt
khe hơn. Các ứng dụng xuất hiện tương ứng với quá trình
sản xuất từ dễ đến khó, từ áp dụng vĩ mô đến vi mô, từ
cơ tính đến điện tử. Sản phẩm đầu tiên của ống than nano
nằm trong lĩnh vực gia cường vì sản phẩm này có nhiều
ứng dụng trong đời thường. Là một công ty có đăng ký
phát minh đầu tiên về ống nano, từ cuối thập niên 80 của
thế kỷ trước Hyperion Catalyst International (Mỹ) đã sản
xuất MWNT ở đơn vị chục tấn hằng năm. Công ty này chế
tạo nanocomposite giữa polymer (plastic) và ống nano cho
công nghệ xe hơi. Cho đến ngày hôm nay đây là một sản
phẩm ống than nano được phổ cập rộng rãi. Những bộ cảm
ứng ống than nano đang được triển khai trên quy mô nhỏ.
Công ty Nantero đã tuyên bố việc ra đời bộ nhớ NRAM vào
năm 2004 nhưng vẫn còn trong giai đoạn "mẫu thử"
(prototype) chưa tung ra thị trường.
Những thành quả này khó
xảy ra nếu không có chính sách mang tầm nhìn xa và chiến
lược của chính phủ ở những nước tiên tiến. Các cơ quan
tài trợ kinh phí nghiên cứu tại Bắc Mỹ, châu Âu, Úc,
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan đều xem tiềm
năng ứng dụng của các đề án công nghệ nano là quốc sách,
trong đó ống nano chiếm vị trí hàng đầu. Từ Bắc Kinh đến
Berlin, từ Seoul đến Singapore, hàng chục, hàng trăm
triệu đô-la đã được đầu tư hằng năm vào vật liệu nano
nói chung và ống than nano nói riêng. Chính phủ Mỹ có
chính sách tài trợ các công ty nhỏ "start-up" như
Nantero để biến những ứng dụng ống nano thành thương
phẩm. Chính phủ Úc có những chương trình đầu tư bằng
cách thiết lập những Trung tâm Ưu việt (Centre of
Excellence) và Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu (Cooperative
Research Centre) với sự tham gia và đóng góp của doanh
thương tư nhân, cơ quan nghiên cứu chính phủ và đại học
với chính sách nghiên cứu trải rộng từ cơ bản đến ứng
dụng và sản xuất. Tại Đài Loan, Viện Nghiên cứu Khoa học
Công nghiệp (Industrial Technology Research Institute)
được thiết lập với mục đích là thương phẩm hóa các vật
liệu nano.
11. Lời kết
Từ phòng thí nghiệm đến
nhà máy sản xuất và xa hơn nữa là sàn chứng khoán, ta
thấy khung thời gian của con người thay đổi tùy theo tư
duy và chức năng. Để đạt đến mục tiêu, nhà khoa học có
khung thời gian vài thập niên, kỹ sư nhà máy có khung
thời gian vài năm và người đầu tư chỉ nghĩ nhiều lắm vài
tháng. Sự thành bại của một thương phẩm xuất phát từ
khám phá ở các phòng thí nghiệm tùy vào sự dung hòa khéo
léo giữa các khung thời gian này. Điều này không chỉ
riêng cho ống nano mà còn áp dụng cho mọi khám phá khoa
học khác.
Đối với việc nghiên cứu
và triển khai của ống nano, ta còn một chướng ngại cuối
cùng nhưng cực kỳ quan trọng. Đó là tính an toàn. Đã có
báo cáo cho biết rằng một ống nano như SWNT khi cấy vào
tế bào sẽ làm tế bào phát viêm (inflammation), một hiện
tượng giống như sợi thạch miên (asbestos). Khi ở trạng
thái cụm hoặc bó, SWNT không gây sự phát viêm. Thạch
miên được xác nhận là vật liệu gây ung thư phổi. Hiện
nay vật liệu này bị nghiêm cấm sản xuất và sử dụng.
Người ta đang khảo sát khả năng gây ung thư của ống
nano sau khi gây phát viêm. Nếu khả năng này thực sự xảy
ra giống như thạch miên, người viết thiển nghĩ việc
nghiên cứu triển khai, cơ bản lẫn ứng dụng của ống nano
trên toàn thế giới sẽ đứng chững lại như một đoàn tàu
thắng gấp và có nguy cơ sụp đổ!
Ống nano là người hùng
hay sát thủ? Ta hãy thận trọng và kiên nhẫn chờ xem.
Mùa Phục Sinh, April
2009.
TVT
Phụ lục: Những cách
tính toán đơn giản
(1) Độ bền, σ,
của ống than nano
σ = 100 GPa = 1011
Pa = 1011 N/m2
≈ 1010
kgf/m2 = 106 kgf/ cm2
Vì vậy, giả dụ ta có
thể phóng đại ống nano to cỡ cây viết chì (đường kính
khoảng 1 cm), ống sẽ treo được 1 triệu kg. Chiếc máy bay
Jumbo 747 nặng 200.000 kg, treo được 5 chiếc. Chiếc xe
tăng Leopard nặng 50.000 kg, treo được 20 chiếc.
(2) "Mạng nhện"
kéo chững chiếc máy bay 747
Chiếc máy bay Jumbo 747
nặng 200.000 kg bay với vận tốc v = 1000 km/h.
Động năng E1 của chiếc máy bay
là,
E1
= 1/2(mv2) (1)
m = 2 x 105
kgf = 2 x 106 N
v = 1.000 km/h ≈
300 m/s
E1
= 9 x 1010 J (2)
Ta có độ cứng Y
(mô-đun Young) là 1.000 GPa (=1012 Pa) và độ
bền (ứng suất) ở điểm đứt là σ = 100 GPa (=1011
Pa) tương ứng với độ căng (strain) là e. Giữa
σ và e, ta có tương quan,
σ = Ye (3)
Ống than nano chứa một
năng lượng, E2, được định
nghĩa là
E2
= 1/2(σe) (4)
Từ phương trình (3) và
(4) ta có,
E2
= 1/2(σ2/Y)
= 1/2 [(1011)2/1012]
= 5 x 109 N/m2
(J/m3) (5)
Như vậy để có thể kéo
chiếc 747 dừng lại ta cần
E1/E2
= 18 m3 ống than nano
Giả dụ ống có thể phóng
đại lên thành ống có đường kính 10 cm thì ta cần một
mạng nhện có tổng cộng chiều dài khoảng 2000 m. Hay
là, 10 x 10 ống, mỗi ống dài 20 m.
(3) Bề mặt tiếp
xúc giữa ống nano và chất nền
Ta xem ống nano là một
ống hình trụ có bán kính r và chiều dài ℓ (ℓ
>> r).
Diện tích của 1 ống
nano là a = 2p
rℓ. Thể tích của ống là vf
=p
r2 ℓ. Gọi
f
là tỷ lệ của ống nano trong composite. V là
thể tích composite. Như vậy thể tích của toàn thể ống
nano là fV.
Ta có toàn thể số ống nano, n, là:
n =
fV/vf
= fV/p
r2ℓ
Như vậy diện tích tiếp
xúc, a, giữa ống nano và chất nền là:
a = n(2p
rℓ) = 2fV/r
Tài liệu tham khảo
và ghi chú
- N. Grobert,
Materials Today, 10 (January - February
2007) 28.
- A. Oberlin, M.
Endo, T. Koyama, J. Cryst. Growth,
32 (1976) 335.
- Đây là sợi carbon
hiện có trên thương trường không phải sợi làm từ ống
than nano. Loại sợi này đặc ruột có đường kính ở cấp
micromét được chế tạo từ sự nhiệt phân (pyrolysis)
của polyacrylonitrile. Sợi được xe thành sợi to rồi
dệt thành "vải" (fabric) cho các ứng dụng gia cường.
- S. Iijima,
Nature, 354 (1991) 56.
- P. Joseph, C.
Cottin-Bizonne, J.-M. Benoît, C. Ybert, C. Journet,
P. Tabeling and L. Bocquet, Phys. Rev. Letts,
97 (2006) 156104.
- M-F Yu, O Lourie,
M. J. Dyer, K. Moloni, T. F. Kelly and R. S. Ruoff,
Science, 287 (2000) 637.
- A. B. Dalton,
S. Collins, E. Muñoz, J. M. Razal, V. H. Ebron, J.
P. Ferraris, J. N. Coleman, B. G. Kim and R. H.
Baughman, Nature, 423 (2003) 703.
- R. F. Gibson, E.
O. Ayorinde and Y.-F. Wen, Composites Science and
Technology, 67 (2007) 1.
- R. C. Haddon, J.
Sippel, A. G. Rinzler and F. Papadimitrakopoulos,
MRS Bulletin, April 2004, 252.
- J. Hilding, E. A.
Grulke, Z. G. Zhang anf F. Lockwood, J.
Dispersion Science and Technology, 24
(2003) 1.
- M. Zhang, K. R.
Atkinson and R. H. Baughman, Science, 306
(2004) 1358.
- M. Zhang, S. L.
Fang, A. A. Zakhidov, S. B. lee, Ạ Ẹ Aliev, C. D
Williams, K. R. Atkinson and R. H. Baughman,
Science, 309 (2005) 1215.
- N. Koratkar, B.
Wei, P. M. Ajayan, Adv. Mater., 14
(2002) 997.
- N. Koratkar, B.
Wei, P. M. Ajayan, Composites Science and
Technology, 63 (2003) 1525.
- J. Suhr, N.
Koratkar, P. Keblinski and P. M. Ajayan, Nature
Mater., 4 (2005) 134.
- X. Zhou, E. Shin,
K. W. Wang and C. E. Bakis, Composites Science
and Technology, 64 (2004) 2425.
- N. M. Pugno,
Nanotoday, 2 (December 2007) 44.
- Phỏng theo một tựa
đề của phim điệp viên James Bond 007 "Never say
never again".
- Theo tin tức của
hãng truyền thông CNN, tháng 10, 2008.
- Xem Wikipedia với
từ khóa "ballistic conduction".
- S. Frank, P.
Poncharal, Z. L. Wang and W. A. de Heer, Science,
280 (1998) 1774.
- P. Poncharal, C.
Berger, Y. Yi, Z. L. Wang and W. A. de Heer, J.
Phys. Chem. B, 106 (2002) 12104.
- J. Robertson,
Materials Today, October 2004, 47.
- B. L. Allen, P. D.
Kichambare and A. Star, Adv. Mater., 19
(2007) 1439.
- P. Avouris, Z.
Chen and V. Perebeinos, Nature Nanotechnology,
2 (2007) 605.
- Than chì hay than
graphit (graphite) là một cấu tạo chồng chập song
song của nhiều mặt phẳng liên kết các nguyên tố
carbon. Một mặt phẳng gọi là graphene (xem Hình 1).
- Z. Chen, J.
Appenzeller, Y.-M. Lin, J. Sippel-Oakley, A. G.
Rinzler, J. Tang, S. J. Wind, P. M. Solomon and P.
Avouris, Science, 311 (2006) 1735.
- X. Liang, S. Wang,
X. Wei, L. Ding, Y. Zhu, Z. Zhang, Q. Chen, Y. Li,
J. Zhang and L.-M. Peng, Adv. Mater., 21
(2009) 1339.
- J. Robertson,
Materials Today, 10 (January-February
2007) 36.
- S. E. Thompson and
S. Parthasarthy, Materials Today, 9
(June 2009) 20.
- Trương Văn Tân,
"Vật liệu tiên tiến: Từ polymer dẫn điện đến ống
than nano", nxb Trẻ, TP HCM, 2008.
- J. Cumings and A.
Zettl, Science, 289 (2000) 602).
- L. Dong, A.
Subramanian and B. J. Nelson, Nanotoday, 2
(December 2007) 12.
- "Carbon
Nanotubes: Advanced Topics in the Synthesis,
Structures, Properties and Applications", A.
Jorio, G. Dresselhaus, M. S. Dresselhaus (Eds.),
Springer, Berlin Heidelberg, 2008.
- G. Gunner,
Scientific American, May 2007, 76.