"Thượng đế làm ra
khối rắn,
nhưng bề mặt được tạo bởi yêu ma."
Wolfgang Pauli
Tóm tắt
Tiếp nối quả bóng C60
và ống than nano, sự ra đời của graphene thuộc
dòng họ carbon mang đến cộng đồng nghiên cứu
khoa học một niềm kích động to tát và doanh
nghiệp một niềm hy vọng lớn cho vật liệu tiên
tiến tương lai. Năm 2010, Andre Geim và
Konstantin Novoselov đoạt giải Nobel Vật lý cho
các công trình graphene càng làm cho cao trào
nghiên cứu graphene thêm sôi động. Graphene là
vật liệu carbon có hình dạng mạng lưới lục giác
nối kết các nguyên tố carbon giống tổ ong và có
độ dày của một nguyên tử carbon. Vì vậy,
graphene là vật liệu 2 chiều. Sự hiện hữu của
graphene đã biết từ lâu vì than chì (graphite)
là tập hợp của những lớp graphene mà người ta
thường dùng làm lõi bút chì. Với thao tác "dán
bóc" đơn giản dùng băng keo Geim và Novoselov
lần đầu tiên đã "bóc" ra được một lớp graphene
từ than chì, vật liệu mỏng nhất trong vũ trụ, và
đã mở màn cho những nghiên cứu cơ bản về mặt
phẳng của thế giới vi mô và các ứng dụng trong
công nghiệp điện tử, bộ cảm ứng, gia cường, công
cụ tích trữ năng lượng và nhiều ứng dụng khác.
Bài viết này mô tả quá trình tìm kiếm graphene
của Geim và Novoselov, những hiện tượng kỳ bí do
sự di động của electron trên bề mặt graphene,
phương pháp tổng hợp và các ứng dụng tiêu biểu.
Graphene không là một vật liệu 2 chiều duy nhất.
Cái huyễn hoặc của bề mặt "hồ ly" nhiều thách
thức khiến cho việc tìm kiếm các vật liệu 2
chiều khác graphene diễn ra sôi nổi. Chồng chập
các loại vật liệu 2 chiều khác nhau sẽ tạo nên
một thứ "bánh kẹp" phân tử rất đa dạng mà các
nhà khoa học hy vọng rằng chúng sẽ mang đến
nhiều đặc tính thú vị chưa từng thấy với tiềm
năng ứng dụng vô cùng phong phú.
1. Thế giới hai chiều
Carbon là một nguyên tố kỳ
diệu. Kỳ diệu bởi lẽ nó là cơ nguyên của các vật
liệu hữu cơ và sự sống. Nếu các hợp chất chứa
carbon không có độ bền kinh ngạc thì sự sống từ
thuở khai thiên lập địa đã không thể tồn tại cho
đến ngày nay trên hành tinh này, thậm chí trong
toàn vũ trụ. Trong vài thập niên gần đây nguyên
tố carbon của thời xa xăm bỗng bật dậy "tái xuất
giang hồ" qua những phát hiện của vật liệu mới
thuần carbon như quả bóng fullerene C60,
ống than nano và graphene. Chúng mang lại những
niềm hy vọng mới trong các ứng dụng của khoa học
vật liệu và cũng là những mô hình thực sự để
giải đáp những thao thức lý thuyết đã có từ lâu
trong vật lý chất rắn.
Trong các thể loại thuần
carbon, than nhiên liệu là carbon vô định hình
gắn bó với cuộc sống con người đã vài ngàn năm
và cũng là nhân tố thành hình cuộc cách mạng
công nghiệp của loài người. Carbon kết tinh có
hai dạng khác nhau "thượng vàng hạ cám" trong
hình dạng, đặc tính, màu sắc và giá cả. Đó là
dạng kim cương cứng, lấp lánh và rất nhiều tiền;
dạng thứ hai là than chì (graphite) mềm, đen đúa
nhưng giá cả khiêm tốn. Sự khác biệt xuất phát
từ cấu trúc phân tử. Trong trường hợp kim cương,
toàn thể electron của nguyên tố carbon được nối
kết trở thành nối cộng hóa trị nên kim cương là
một vật liệu rất cứng và cách điện. Ngược lại,
than chì là một tập hợp chồng chập của các lớp
hai chiều gọi là graphene và đây là vật liệu 2
chiều có độ dày của một nguyên tử carbon. Những
lớp graphene này tương tác bằng những liên kết
yếu có thể trượt lên nhau nên trong trạng thái
vĩ mô graphite là một vật liệu mềm. Liên kết yếu
được tạo bởi những electron tự do nên graphite
dẫn điện và hấp thụ ánh sáng.
Chúng ta sống trong không
gian 3 chiều (3D). Muốn tìm kiếm vật nhỏ hơn 3
chiều ta phải lặn lội vào thế giới vi mô. Ta có
thể xem quả bóng C60, nguyên tử hay
hạt cơ bản là vật liệu 0 (zero) chiều, ống than
nano hay phân tử polymer là vật liệu 1 chiều
(1D) nhưng đối với vật liệu 2 chiều (2D) ta phải
chờ đến năm 2004. Một trang giấy gọi là cực mỏng
cũng phải có bề dày trong khoảng 50 µm (1/20
mm), nếu kích cỡ của một nguyên tử là 0,1 nm
(nanomét) thì bề dày trang giấy tương đương với
500.000 nguyên tử chồng lên nhau. Trong công
nghiệp transistor, các kỹ sư điện tử có thể chế
tạo chính xác lớp cách điện silicon dioxide (SiO2)
cực mỏng có độ dày vài nanomét, hay là chiều dày
của vài mươi nguyên tử. Lớp SiO2 của
transistor có lẽ là vật chất mỏng nhất mà con
người có thể chế tạo. Vì nguyên tử là yếu tố nhỏ
nhất của vật chất, như vậy một vật 2 chiều (2D)
có thể xem là vật chất có độ dày của một nguyên
tử.
Trong vật lý chất rắn đã có
rất nhiều lý thuyết bàn về các vật chất 2 chiều
giả tưởng và một kết luận quan trọng được đưa ra
là quy luật vật lý không cho phép sự hiện hữu
của vật chất 2 chiều. Nhưng vào năm 2004 Geim và
Novoselov tạo ra một lớp bong graphene từ than
chì đã làm thay đổi mọi suy nghĩ kinh điển. Sự
phát hiện của graphene đã đem đến một cảm giác
tuyệt vời mà theo lời của một nhà khoa học,
"Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học con người
có thể nhìn, sờ và sử dụng được một vật liệu
mỏng tận cùng có bề dày của một nguyên tử".
Cũng từ 2004 số bài báo cáo về graphene trên các
tạp chí hàn lâm gia tăng đột biến đạt gần 2.500
bài trong năm 2009 và vẫn tiếp tục gia tăng
(Hình 1). Mặt phẳng graphene còn được xem như là
đơn vị cơ bản hay là "mẹ" sinh ra những đứa
"con" như quả bóng C60
fullerene, ống than nano và than chì (Hình 1).

Hình 1: Số bài
báo cáo về graphene. Graphene là đơn vị cơ bản
làm ra quá bóng C60,
ống than nano và graphite [1-2].
2. Con đường tìm kiếm thế giới
2 chiều
Tháng 12 năm 2010, Viện Hàn
lâm Khoa học Thụy Điển trao giải Nobel Vật lý
cho công trình nghiên cứu graphene của hai nhà
khoa học người Anh gốc Nga, Andre Geim và
Konstantin Novoselov (Đại học Manchester, Anh
quốc). Graphene là một lớp của than chì. Quyết
định làm ngạc nhiên không ít người trong cộng
đồng nghiên cứu khoa học vì việc chế tạo
graphene của nhóm Geim và Novoselov vừa chỉ xuất
hiện vào năm 2004 [3]. Nhưng tầm quan trọng
trong ứng dụng của graphene và việc mở rộng chân
trời nghiên cứu vật lý lý thuyết cho chất rắn 2
chiều có lẽ là hai nguyên nhân chính trong việc
trao giải Nobel cho Geim và Novoselov. Như vậy,
trong một phần tư thế kỷ qua với giải Nobel Hóa
học (1996) cho fullerene, giải Nobel Vật lý
(2010) cho graphene, và việc tái phát hiện ống
than nano vào năm 1991 bởi tiến sĩ Sumio Ijima
tại phòng thí nghiệm của công ty NEC (Nhật Bản)
đã làm "trẻ hóa" một carbon già cỗi và trở thành
vật liệu quan trọng mang đến những tiềm năng ứng
dụng to lớn trong khoa học công nghệ.
Cũng như than đá và kim
cương, fullerene và than chì đã hiện hữu xung
quanh ta từ ngàn xưa. Quả bóng fullerene ẩn tàng
trong các mỏ than thậm chí trong các đám mây vũ
trụ từ thuở khai thiên lập địa. Thiên nhiên
huyền bí nhưng thỉnh thoảng cũng phát ra những
tín hiệu ám chỉ những ẩn tàng của mình đang chờ
đợi con người "bật mí". Thật vậy trong dòng họ
carbon, kim cương và than chì là vật liệu có
dạng 3 chiều, ống than nano có dạng 1 chiều và
quả cầu fullerene có dạng zero chiều. Theo sự
suy nghĩ lôgic, phải có sự tồn tại của vật thể
carbon 2 chiều lắp vào khoảng hở để hoàn chỉnh
toàn bộ dạng thể carbon từ zero đến 3 chiều.
Than chì là tập hợp của những lớp graphene và từ
lâu người ta đã biết rõ cấu trúc lớp (layered
structures) của nó, vì giá rẻ và đặc tính mềm
nên không biết làm gì hơn là dùng làm lõi bút
chì. Những lớp này giống như mạng lưới hình tổ
ong được nối với nhau bởi những liên kết yếu
khiến cho nó có thể trượt lên nhau và tách ra
khi có một lực tác động từ ngoài. Khoảng cách
giữa hai lớp graphene trong than chì là 0,34 nm
(nanomét), như vậy cứ 1 mm than chì ta có 3
triệu lớp graphene chồng bám lên nhau. Con người
dùng bút chì cũng đã có vài trăm năm nhưng không
ai nghĩ động tác viết lên giấy là dùng sức để
phá vỡ những liên kết giữa các lớp graphene.
Những đường viết bám trên giấy chẳng qua là tập
hợp những lớp bong than chì chứa vài trăm, vài
mươi lớp graphene và lẩn vào đó có thể là những
mảnh graphene chỉ mỏng một vài lớp (Hình 2) cực
kỳ trân quý. Vô hình trung, hàng trăm năm qua có
thể con người đã tạo vô số graphene bám trên
giấy viết nhưng không ai màng quan sát chúng cho
đến khi than chì lọt vào mắt xanh của nhóm
nghiên cứu Andre Geim và Konstantin Novoselov.
Sau đó thì mọi việc trở nên vô cùng thú vị.

(a) |

(b) |
Hình 2: (a) Than chì trong lõi bút chì.
(b) Than chì là tập hợp của các mặt
phẳng graphene hình lục giác. Trong mặt
phẳng là liên kết cộng hóa trị
carbon-carbon rất bền và giữa các mặt
phẳng là các liên kết yếu.
|
Tại đại học Manchester (Anh Quốc) nhóm nghiên cứu của
Geim và Novoselov dùng một phương pháp đơn giản
bằng cách áp băng keo lên than chì để tách ra
một lớp than chì mỏng hơn, rồi lặp lại thao tác
trên lớp than này để có một lớp than mỏng hơn
nữa. Làm nhiều lần như thế thì ta có thể thu
hoạch được những mảnh graphene [3], một vật liệu
2 chiều với "độ dày" của một nguyên tử. Từ đó
than chì từ một "phó thường dân" được thăng hoa
trở thành hoàng tử. Một vật liệu như graphene
nằm sóng soải trước mắt từ bao ngàn đời nhưng
chỉ cần một thao tác "văn phòng" đơn giản để
biến nó thành vật liệu của giải Nobel.
Nói như thế không có nghĩa
các nhà khoa học kém sự quan tâm đến graphene
bởi thật ra gần 80 năm trước tinh thể 2 chiều đã
là một đề tài lý thuyết thú vị và sự hiện hữu
của nó là một ám ảnh thường trực của các nhà
nghiên cứu vật lý lý thuyết. Những nhà vật lý
nổi tiếng như Peierls [4] và Landau [5] cho thấy
rằng sự dao động nhiệt (thermal fluctuation) sẽ
gây ra sự tan chảy mạng tinh thể 2 chiều khiến
cho sự hiện hữu của một vật liệu 2 chiều không
thể nào xảy ra, tìm nó chỉ hoài công. Những kết
quả thực nghiệm về sau đã thực chứng dự đoán này
[6] và cho biết nhiệt độ tan chảy của tấm phim
giảm theo bề dày của phim và khi tấm phim đạt
đến độ mỏng của vài mươi nguyên tử (khoảng 1
nanomét) phim sẽ tự suy thoái co cụm lại thành
những "hòn đảo" 3 chiều. Như vậy, vật thể 2
chiều không thể tồn tại vì sự không bền nhiệt
động học (thermodynamically unstable). Thiên
nhiên dường như không thích vật 2 chiều.
Đó là lý thuyết và kết quả
thực nghiệm của vài mươi năm trước. Sự kiện tách
một mảng graphene có độ dày của một nguyên tử
carbon từ than chì và giữ được nó trong trạng
thái tự do bằng một thao tác đơn giản của nhóm
Geim và Novoselov dường như mâu thuẫn với những
điều hiểu biết trước đó và đã tạo nên một cú
"sốc" trong cộng đồng khoa học. Một cú "sốc" rất
xứng đáng với giải Nobel và lập tức người ta
phải kiểm nghiệm lại những dự đoán lý thuyết và
kết quả thực nghiệm. Phải chăng những bậc lý
thuyết gia tiền bối nổi tiếng như Peierls và
Landau đã tính nhầm một vài con số? Thật ra
những dự đoán lý thuyết hoàn toàn chính xác. Mặc
dù lý thuyết không chấp nhận một mạng lưới tinh
thể toàn bích trong không gian 2 chiều, nghĩa là
trên một mặt phẳng tuyệt đối, nhưng nó không cấm
đoán một mạng lưới 2 chiều nương tựa trên một
khối 3 chiều hay tự thân hiện hữu trong không
gian 3 chiều. Điều này đúng với sự quan sát của
Geim, Novoselov và các cộng sự [7]. Dưới kính
hiển vi họ đã quan sát được những mảng graphene
lơ lửng trong trạng thái tự do không phẳng mà
lồi lõm như mặt sóng vi mô trong không gian 3
chiều (Hình 3).

(a) |

(b) |
Hình 3: Graphene không
tồn tại trong một mặt phẳng tuyệt đối
(a),
nhưng hiện hữu với mặt lồi lõm của không
gian 3 chiều (b). |
Hầu như nhiều thông tin về điện tính, cấu trúc điện tử
đã được biết từ thế kỷ 20, vài mươi năm trước
khi bài báo cáo của Geim, Novoselov và các cộng
sự xuất hiện. Lý thuyết về cấu trúc dải (band
structure) của graphene đã được Wallace đề xướng
vào năm 1947 [8]. Lý thuyết này nằm đó đóng bụi
với thời gian cho đến khi graphene thực sự ra
đời thì nó nhanh chóng trở nên ánh đuốc soi
đường. Phương pháp "dán bóc" dùng băng keo của
Geim and Novoselov cũng không phải là điều mới
lạ. Những chuyên gia đã dùng kỹ thuật "dán bóc"
tạo ra những mẫu thí nghiệm cực mỏng để quan sát
chúng dưới kính hiển vi. Thủ thuật "dán bóc"
cũng đã từng thực hiện trong quá khứ (năm 1997)
nhưng chỉ đạt đến vài mươi lớp graphene.
Trong bài diễn văn nhận giải
Nobel của giáo sư Geim [9], ông kể lại những
bước ngẫu nhiên lắm lúc loạng choạng đưa đến tột
đỉnh vinh quang. Sự kiện tạo ra graphene, một
vật liệu mỏng nhất trong vũ trụ, từ lõi bút chì
và băng keo chỉ là cách nói đơn giản về một quá
trình thực nghiệm phức tạp, gian nan và thái độ
làm việc cẩn trọng và nghiêm túc. Geim đã hướng
dẫn một nghiên cứu sinh người Trung Quốc và
"nhầm lẫn" trao cho anh học trò này một thỏi
than chì bình thường thay vì là than chì chất
lượng cao (có tên khoa học là "highly oriented
pyrolytic graphite", viết tắt HOPG) với yêu cầu
tách graphene bằng phương pháp mài (polish). Anh
sinh viên đáng thương này đã mài suốt trong quá
trình tiến sĩ và theo lời của Geim thì giống như
mài một hòn núi trở thành hạt cát mà chỉ thu
hoạch được một mảnh than chì dày 10 micromét.
Quá dày để tìm ra graphene! Sau "nhầm lẫn" này
Geim nhanh chóng thay đổi vật liệu và sử dụng
than chì HOPG. Kỹ thuật "dán bóc" ra đời trong
phòng thí nghiệm của Geim.
Tách một mảnh graphene từ một
thỏi than chì là một việc nhưng việc nhận diện
graphene là một việc khó khăn hơn. Việc tìm ra
mảnh graphene một vài lớp trong hàng ngàn mảnh
graphene dày mỏng khác nhau gần như việc mò kim
đáy biển. Trong việc quan sát graphene, những
kính hiển vi tối tân như kính hiển vi điện tử
quét đường hầm (scaning tunelling microscope),
lực nguyên tử (atomic force microscope) gần như
vô hiệu để nhận diện graphene. Nhưng với một
"ánh chớp thiên tài" Geim, Novoselov và những
nghiên cứu sinh đã chuyển những lớp than chì dày
mỏng khác nhau và chứa vô số lớp bong graphene
từ băng keo sang một đĩa silicon rồi quan sát
dưói một kính hiển vi quang học bình thường. Bề
mặt của silicon thường bị phủ bởi silicon
dioxide (SiO2) do sự oxit hóa. Thực
chất là các lớp bong graphene được đặt trên SiO2.
Dưới sự khúc xạ của ánh sáng và sự giao thoa cuả
phản xạ từ SiO2 lớp bong graphene cho
ra nhiều màu sắc tùy theo độ dày của graphene
giống như bề mặt nhiều màu của bọt xà phòng
(Hình 4). Từ màu sắc khác nhau ta có thể tính
được số lớp của graphene. Chính lớp phủ SiO2
này đã cho sự phản xạ ánh sáng thích hợp để ta
có thể nhận diện được graphene dưới ống kính
hiển vi quang học bình thường. Graphene càng
mỏng thì càng trong suốt, màu sắc càng mong manh
và càng khó phát hiện. Graphene một lớp chỉ thấy
được khi lớp SiO2 có độ dày chính xác
315 nm. Nếu độ dày chệch ra ngoài con số may mắn
này thì graphene một lớp sẽ không bao giờ hiện
ra dưới ống kính hiển vi và mãi mãi chôn vùi
theo thời gian [10-11].

(a) |

(b) |
Hình 4: (a) Lớp bong
graphene từ than chì được tách ra bởi
băng keo. (b) Những lớp bong cho nhiều
màu sắc bởi độ dày khác nhau dưới kính
hiển vi quang học [9]. |
Nhưng khoa học về graphene sẽ không có gì thú vị nếu
chỉ ngừng ở việc mày mò quan sát dưới kính hiển
vi một vật liệu mỏng với bề dày nguyên tử.
Graphene cần được dùng để chế tạo một công cụ
(device) nhưng trước hết cần phải định rõ đâu là
đường ranh của bề mặt 2 chiều và thể khối 3
chiều. Việc tìm kiếm đường ranh và phân loại số
lớp của tập hợp graphene là điều quan trọng
trong lý thuyết lẫn ứng dụng. Đương nhiên, bề
mặt của một lớp nguyên tử là một vật tuyệt đối 2
chiều; hai lớp, ba lớp vẫn được xem là bề mặt 2
chiều mặc dù có cấu trúc điện tử khác nhau và
cho những ứng dụng khác nhau. Khi tập hợp
graphene có năm lớp thì sự phân biệt giữa bề mặt
và thể khối bắt đầu xuất hiện [12]. Khi chồng
lên mười lớp thì ta tiến đến vật liệu 3 chiều
cực mỏng và khi có 100 lớp thì nó sẽ có độ dày
10 nanomét (nm) và trở thành một màng mỏng với
những đặc trưng của tuyệt đối 3 chiều.
Như vậy, sự phát hiện của
Geim và Novoselov đã tạo ra một chấn động như
thế nào để đoạt được giải Nobel? Là một chuyên
gia về màng cực mỏng và cũng như những nhà vật
lý thực nghiệm khác, Geim băn khoăn tự hỏi có
khả năng nào dùng màng cực mỏng thay thế silicon
làm transistor để tiếp tục con đường thu nhỏ
theo định luật Moore. Đứng trước số lượng báo
cáo lớn về transistor dùng ống than nano và có
trong tay những mảnh graphene li ti vô cùng hấp
dẫn Geim dự đoán nếu dùng "người em họ" graphene
thay cho ống than nano ta sẽ có transistor tương
tự như ống than nhưng sẽ rất khác biệt về mặt
vật lý vì graphene không phải là màng mỏng 3
chiều mà chỉ là một bề mặt. Ngoài ra, dùng
transistor như là một công cụ ta có thể khảo sát
được cơ cấu vận chuyển của electron trên mặt
phẳng 2 chiều. Trước cuộc thí nghiệm tưởng tượng
này Geim và Novoselov tràn đầy niềm hứng khởi và
tự tin. Einstein từng nói, "Sự tưởng tượng
quan trọng hơn tri thức" và sự tưởng tượng
của Geim và Novoselov đã tạo ra một transistor
đầu tiên dùng graphene. Từ ý tưởng của Geim,
Novoselov đã dùng tăm xỉa răng chấm chất keo bạc
lên mảnh graphene li ti có kích cỡ 50 x 100µm
(100µm là đường kính sợi tóc) để nối dây
dẫn điện làm transistor. Bài báo cáo vỏn vẹn ba
trang giấy [3] nhóm Geim và Novoselov diễn tả
đặc tính transistor graphene và sự vận chuyển
của electron và lỗ tích điện dương đã làm bùng
nổ một cuộc cách mạng và đưa đến giải Nobel.
Trong một bài báo cáo kế tiếp
Geim và Novoselov [13] và nhóm Kim [14] cho biết
một phát hiện khác đầy kinh ngạc là electron di
động trên mạng với vận tốc rất cao (1.000 km/s)
hay 1/300 lần vận tốc của ánh sáng (300.000
km/s) và hành xử như hạt không có khối lượng
(massless) giống như photon (Phụ lục 1). Nhờ vào
sự di động rất cao của các electron graphene có
độ dẫn điện 40 % cao hơn đồng. Như vậy, khác
electron trên mặt của chất bán dẫn như người ta
thường biết bề mặt graphene giờ đây là một vũ
trụ hai chiều của thế giới vi mô trong đó
electron "bay" ngang dọc như photon ánh sáng
trong vũ trụ bao la của vạn vật.
Bề mặt lục giác graphene vẫn
chưa hết sự ly kỳ. Sự chuyển động của electron
trên bề mặt này được ghi nhận là "đạn đạo"
(ballistic); nó có ý nghĩa rằng khi di động
electron không va chạm vào bất cứ vật thể gì
trên quãng đường chu du của nó. Hiện tượng này
giống như siêu dẫn không gây ra điện trở. Sự
chuyển động của electron trong ống than nano
cũng có đặc tính đạn đạo. Suy luận một cách định
tính, trong con đường hầm trống rỗng của ống
nano hay khoảng không gian tự do trên và dưới
của bề mặt graphene chuyển động đạn đạo của
electron xảy ra gần như một tất nhiên. Người ta
đã đo được quãng đường tự do trung bình (mean
free path) của chuyển động đạn đạo trên mặt
graphene là 65 µm dài nhất trong tất cả
vật liệu biết từ trước đến nay. Trong thế giới
vi mô 65 µm là khoảng cách rất dài; 3.200
lần dài hơn khi so với độ lớn 22 nm của
transistor trong chip vi tính.
3. Transistor
Gần hai thập niên qua sự phát triển của công nghiệp
điện tử phần lớn tùy thuộc vào sự thu nhỏ của
transistor [15]. Vật liệu chính dùng trong
transistor hiện nay là nguyên tố silicon. Kích
cỡ của transistor hiện nay đang dừng ở 22 nm và
chip dùng trong các máy tính chứa hàng tỷ
transistor trên một diện tích vài cm2.
Transistor silicon là nhân tố cơ bản của kỹ
thuật số (digital) với biểu hiện qua hai số 0
(đóng) và 1 (mở). Trong một tương lai gần sự thu
nhỏ bắt buộc phải dừng lại khi chạm đến giới hạn
kích cỡ của nguyên tử silicon. Các nhà khoa học
và kỹ sư điện tử từ nhiều năm qua trăn trở tìm
giải pháp để tiếp tục con đường thu nhỏ cho
transistor. Một giải pháp là chế tạo một
transistor theo khái niệm hoàn toàn mới chẳng
hạn như dùng spin của vi hạt; spin quay hai
chiều một chiều là 0 và chiều ngược lại là 1 hay
là transistor quang học điểu khiển bởi photon
thay cho electron trong transistor hiện tại. Một
giải pháp khác là tiếp tục dùng thiết kế hiện có
nhưng thay silicon bằng một vật liệu khác. Các
nhà khoa học nhìn quanh từ nhiều năm qua tìm vật
liệu mới khả dĩ có thể thay thế silicon để tiếp
tục cuộc thu nhỏ. Việc dùng ống than nano vỏ đơn
(single-walled carbon nanotube, SWNT) thay
silicon trong transistor đã được thực hiện thành
công trong các phòng nghiên cứu nhưng còn nhiều
vướng mắc kỹ thuật trong việc sản xuất. Thứ
nhất, SWNT vẫn chưa có thể sản xuất đại trà có
độ tinh khiết hơn 99 % và có sự đồng nhất về cấu
trúc và độ dẫn điện. Thứ hai, các ống nano có
khuynh hướng dính vào nhau do lực
Van der Waals
và việc tách rời từng ống nano trong quá trình
sản xuất transistor vẫn còn ở trình độ thủ công.
Cho đến ngày nay transistor ống than nano vẫn
chưa có thể vượt qua transistor silicon về độ
nhỏ cũng như phẩm chất.
Kết quả thí nghiệm của
transistor graphene trong bài báo cáo đẳng cấp
Nobel của nhóm Geim và Novoselov [3] cho thấy
graphene với độ dày của một vài lớp nguyên tử có
thể kích thích được sự di động của electron
trong điện trường (Hình 5). Họ đã đo được độ di
động của electron và lỗ (hole) có tích điện
dương trong chiếc transistor "thô thiển" là
10.000 cm2/V.s hay là 7 lần nhanh hơn
trong transistor silicon (1.500 cm2/V.s)
(Phụ lục 2). Trong các cuộc thí nghiệm kế tiếp
trên mặt phẳng graphene tinh khiết không chất
tạp độ di động đạt đến 100.000 – 200.000 cm2/V.s
hay là 70 - 140 lần nhanh hơn trong silicon. Bài
báo đã thu hút sự chú ý mãnh liệt của các nhà
nghiên cứu trên thế giới. Khả năng chế tạo
transistor với độ dày một nguyên tử (0,335 nm),
hay nói một cách khác - độ mỏng tận cùng của vật
chất với độ di động cao hơn silicon đã mang
nhiều hứng khởi đến cộng đồng khoa học điện tử.
Một vấn đề cũ lại được đem ra tái kiểm nghiệm
rằng liệu graphene có thể thay thế silicon để
tiếp tục cuộc cách mạng thu nhỏ của transistor?
Hình 5: Cấu
trúc của transistor graphene, có 3 điện cực
là nguồn (source), máng (drain) và cổng (gate).
Graphene được phủ lên bề mặt SiO2
và nối với
điện cực nguồn và máng (Nguồn:
www.jameshedberg.com).
Trong máy tính mọi thông tin
và dữ liệu đều được số hóa và chuyển tải ở dạng
nhị nguyên 0 và 1. Silicon là chất bán dẫn và có
vùng cấm (bandgap) ở giữa dải dẫn điện
(conducting band) và dải hoá trị (valence band)
(Phụ lục 3). Sự hiện hữu của vùng cấm trong
nguyên tố silicon đã cho transistor chức năng
nhị nguyên biểu hiện qua số 0 và 1 có tác dụng
đóng mở dòng điện tùy vào điện thế của cổng
transistor. Nói cách khác, transistor silicon có
tác dụng như vòi nước và cổng transistor như là
bộ phận khoá mở nước [15]. Nhưng tạo hóa không
dễ dàng chiều lòng người. Nghiên cứu lý thuyết
của Wallace vào năm 1947 về cấu trúc dải điện tử
cho thấy graphene không có vùng cấm (gapless).
Graphene không có vùng cấm nên transistor
graphene không có chức năng nhị nguyên như
transistor silicon. Nói một cách nôm na,
transistor graphene như là một vòi nước chỉ có
thể mở nhưng không thể đóng. Một số phòng nghiên
cứu đã cải tạo graphene nhằm tạo ra một vùng cấm
để tạo ra một chức năng giống như silicon. Năm
1996 trước khi graphene ra đời nhà vật lý Nhật
Bản, Mitsutaka Fujita, [16] đã tính toán cho
thấy nếu ta có thể cắt graphene thành một
ruy-băng (ribbon) dài, gọi là băng nano graphene
(graphene nanoribon) thì vùng cấm xuất hiện.
Vùng cấm càng mở rộng khi tỉ lệ chiều ngang và
chiều dài của ruy-băng càng nhỏ. Ngày nay, việc
chế tạo băng nano graphene có thể thực hiện bằng
cách "cắt" ống than nano vỏ đơn (SNWT) dọc theo
chiều dài ống. Độ lớn vùng cấm của băng nano
graphene được đo và rất phù hợp với kết quả tính
toán của Fujita vài mươi năm trước. Nhưng tiếc
thay khi có vùng cấm thì độ di động của các điện
tử trong mạng graphene bị giảm sút. Người ta đã
chế tạo băng nano graphene mở ra vùng cấm có độ
lớn tương đương với silicon (1,1 eV) thì độ di
động của các hạt tích điện (electron, lỗ) nhỏ
hơn độ di động trong silicon. Độ di động giảm
sút thì thông tin chuyển tải cũng bị giảm theo.
Việc thay thế silicon của graphene để tiếp tục
thu nhỏ transistor cho máy tính bỗng nhiên hụt
hẫng.
Trong quá khứ đã có nhiều
tuyên bố về một vật liệu "cứu tinh" thay thế
silicon tiếp tục con đường thu nhỏ transistor.
Những vật liệu này đến rồi lại đi trong khi
transistor silicon vẫn bình tĩnh tiến bước, càng
lúc càng được thu nhỏ và hiệu năng càng hoàn
thiện. Graphene cũng được xem như một vật liệu
"cứu tinh" nhưng vì bản chất không có vùng cấm
nên transistor graphene không có khả năng đóng
dòng điện (không có trạng thái 0); việc thay thế
silicon chế tạo transistor nhị nguyên cho máy
tính trở nên vô nghĩa. Nhưng điều này không có
nghĩa graphene là kẻ thua cuộc trong cuộc chạy
đua transistor.
Độ mỏng tuyệt đối nguyên tử
và độ di động tuyệt vời của điện tử trong
graphene vẫn là những đặc tính quá hấp dẫn khiến
cho các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp không thể
đơn giản phủi tay. Kể từ bài báo cáo đột phá của
Novoselov và Geim (2004) [3] cho đến ngày hôm
nay (2013), transistor graphene đã phát triển
rất nhanh và cho thấy nhiều lợi điểm hơn "người
anh em" ống than nano. Hơn nữa, việc sản xuất
đại trà graphene dùng cho các công cụ điện tử có
độ tinh khiết thật cao và quá trình sản xuất
mang tính lặp lại (reproducibility) cho ra sản
phẩm đồng nhất có nhiều hứa hẹn so với ống than
nano. Vì vậy, người ta có thể dùng transitor
graphene trong những công cụ không đòi hỏi trạng
thái đóng (trạng thái 0) của transistor [17]. Đó
là những transistor dùng cho các công cụ điện tử
vô tuyến hoạt động ở tần số radio ở MHz
(megahertz, 106 Hz) đến GHz
(gigahertz, 109 Hz) [18]. Máy radio
phát thanh là một trong những dụng cụ vô tuyến
lâu đời nhất mà transistor là một linh kiện quan
trọng trong mạch điện có nhiệm vụ khuếch đại âm
thanh (amplifier). Cũng như transistor nhị
nguyên cho máy tính, transistor tần số radio là
nhân tố trung tâm điều hành các công cụ vô tuyến
viễn thông. Những công cụ điện tử vận hành trong
tần số radio có nhiều ứng dụng quốc phòng quan
trọng từ các thập niên 80, 90 của thế kỷ trước
và đến ngày hôm nay vẫn được giới công nghiệp
quốc phòng ưu ái và đầu tư vào việc nghiên cứu
chế tạo những công cụ mới có ứng dụng dân dụng
lẫn quốc phòng.
Hiện nay, transistor tần số
radio dùng các hợp chất bán dẫn truyền thống như
GaAs, GaN, InP hay InGaAs. Độ di động của điện
tử trong các hợp chất này cao hơn Si của nhưng
vẫn còn thấp hơn graphene. Độ di động càng nhanh
thì tần số hoạt động của transistor càng cao và
nhờ thế graphene có thể đạt đến GHz. Tần số
radio bình thường ở MHz và băng tần MHz đã dày
đặc những ứng dụng truyền thông. Ngoài ra các
đòi hỏi ứng dụng hiện đại như điện thoại di động
hay những máy phát thu sóng tivi hay sóng âm
thanh phát từ vệ tinh hay các dụng cụ nano điện
tử (nano-electronics) cần đạt đến GHz cho sự
chuyển tải nhanh chóng. Theo dự đoán của các
chuyên gia thì graphene sẽ dần dần thay thế các
chất bán dẫn truyền thống trong transistor tần
số cao và xu hướng này sẽ thấy rõ vào năm 2021
[19]. Cuộc chạy đua vẫn tiếp diễn ngoạn mục và
graphene vẫn là một tay đua tầm cỡ.
4. Cơ tính và gia cườngTrước khi bàn đến cơ tính và những ứng dụng gia cường
của graphene chúng ta hãy mở ngoặc nói về độ
cứng và và độ bền của vật liệu. Alan A. Griffith
(1893-1963) một kỹ sư người Anh đã đưa ra một
phép tính đơn giản để tính độ bền lý thuyết của
chất rắn. Nhìn từ thang nguyên tử sự gãy nứt
phát sinh từ việc cắt đứt của các liên kết hóa
học bởi một tác lực. Từ nhận thức đơn giản này
Griffith đã có một ý tưởng tuyệt vời là khi vật
liệu gãy nứt thì sẽ phát sinh ra hai bề mặt mới
nên độ bền có liên quan trực tiếp đến năng lượng
bề mặt mà không cần biết vật liệu được làm bằng
chất liệu gì, kết tinh hay vô định hình. Như
vậy, năng lượng căng (strain energy) gây ra bởi
lực kéo tác động trên vật liệu tương đương với
năng lượng bề mặt để cho ra công thức:
σ = (EG/a)1/2
(1)
σ là độ bền hay là ứng
suất tại điểm gãy nứt (stress at break), E
là môđun Young, G là năng lượng bề mặt và
a chiều dài của nối kết nguyên tử.
Chất rắn thường có năng lượng
bề mặt khoảng 1 J/m2 và a ~
0,2 nm (2 Angstrom). Dùng những con số này độ
bền lý thuyết để làm gãy nứt vật liệu theo sự
tính toán của Griffith nằm trong khoảng E/5
cho đến E/10 cho mọi chất rắn. Như vậy,
độ cứng (môđun Young) hay độ bền lý thuyết đều
quy về một mối; đó là độ bền của các liên kết
nguyên tử. Griffith cho ra một công thức đơn
giản nối kết những biến số vĩ mô (môđun Young,
năng lượng bề mặt) với biến số vi mô (khoảng
cách giữa hai nguyên tử) để thống nhất sức bền
vật liệu. Trong thực tế đời thường như chúng ta
biết chất rắn có độ bền khác nhau. Thậm chí,
cùng một chất rắn độ bền (độ gãy nứt) cũng khác
nhau nếu phương pháp sản xuất khác nhau và kích
thước khác nhau.
Từ trực cảm của mình,
Griffith làm một thí nghiệm đơn giản. Ông kéo
sợi thủy tinh có đường kính khác nhau rồi đo độ
bền của chúng. Những sợi thủy tinh có đường kính
to (milimét) rất dễ gãy nứt. Khi đường kính sợi
thủy tinh càng nhỏ tiến đến micromét (1/1.000
mm) thì độ bền tăng vọt và gần đạt đến độ bền lý
thuyết. Griffith đưa ra kết luận là khi thủy
tinh được kéo thành sợi càng nhỏ thì càng ít tì
vết vì thế độ bền gia tăng [20]. Kết luận này
đúng cho mọi chất rắn khác. Kết quả thí nghiệm
của Griffith trở nên một dữ liệu cổ điển được
đưa vào sách giáo khoa về cơ học gãy nứt và càng
được thực chứng bởi các loại sợi hiện đại có
đường kính ở kích cỡ nanomét.
Kinh nghiệm cắt kính thủy
tinh hay gạch men cho ta thấy rất khó bẻ đôi tấm
kính hay viên gạch men nếu ta không dùng con dao
sắt tạo ra tì vết trên mặt kính hay gạch. Tì vết
nhỏ và sắc thì dễ bẻ hơn tì vết to và cùn. Như
thế độ bền (độ gãy nứt) trong thực tế không tùy
vào độ bền lý thuyết của các nối nguyên tử được
biểu hiện qua E (phương trình 1) mà tùy
vào những tì vết của vật liệu. Tì vết có thể là
một vết trầy xước vĩ mô trên bề mặt do sự va
chạm bên ngoài hay những khuyết tật vi mô gây ra
bởi quá trình sản xuất hay các khuyết tật "bẩm
sinh" ở thang phân tử nằm trong các phản ứng hóa
học khi hình thành vật liệu. Khi có một tác lực
từ bên ngoài những tì vết này sẽ trở thành điểm
nhấn chịu ứng suất rất to và từ đó tì vết nhỏ sẽ
khuếch đại thành tì vết lớn đưa đến sự gãy nứt
và sau đó sụp đổ toàn diện.
Trở lại chuyện graphene. Trên
mặt phẳng graphene cứ hai nguyên tử carbon thì
sở hữu một diện tích lục giác. Từ đó ta có thể
tính được mật độ của mặt phẳng graphene (một lớp
graphene) là 0,76 mg/m2 (Phụ lục 4).
Như vậy, một tấm phim graphene có độ dày của một
nguyên tử rộng 1 m2 chỉ nặng bằng một
sợi tóc. Và 1 gram của phim này phủ một diện
tích là 2 630 m2 tương đương với diện
tích của 10 sân quần vợt, một con số cực kỳ lớn
cho 1 gram vật liệu (Phụ lục 4). Độ bền hay là
lực cần thiết để làm thủng tấm phim này là 42
N/m và độ cứng là 342 N/m [21]. Để có thể so
sánh với các vật liệu thông thường 3 chiều, đơn
vị N/m (Newton/mét) được chuyển thành N/m2
(= Pa = Pascal). Như vậy, độ bền của graphene 42
N/m trở thành 125 GPa và độ cứng 342 N/m trở
thành 1020 GPa (Phụ lục 5). Để có thể dễ dàng
hình dung được độ bền này hãy liên tưởng đến
phim plastic trong suốt dùng trong nhà bếp để
bao thức ăn. Phim này có độ dày khoảng 100 µm
và nếu nó là graphene thì lực để làm thủng bằng
một vật nhọn là 2 000 kg tương đương với 2 chiếc
xe hơi. Người ta thường dùng thép như là một
tiêu chuẩn so sánh. Bảng 1 cho thấy graphene có
cơ tính tương tự như ống than nano nhưng độ bền
lớn hơn thép 100 lần cho và độ cứng 5 lần.
Bảng 1: So sánh cơ
tính giữa thép và các vật liệu carbon
Vật liệu |
Độ bền (GPa)
** |
Độ cứng* (GPa) ** |
Thép |
0.25 – 1.2
|
203 |
Ống than nano
|
80 - 150 |
1000 |
Graphene |
125 |
1020 |
Kim cương
|
60 – 225 |
1220 |
Poly(methylmethacrylate) |
0,06 |
2,5 |
* Còn gọi là môđun Young
(Young's modulus)
** GPa (Giga Pascal) = 109
Pa. MPa (Mega Pascal) = 106
Pa. |
Sự so sánh với thép đã trở thành một thông lệ trong các
bài báo cáo từ nhiều năm nay mặc dù rất khập
khiễng thậm chí sai lạc vì graphene cũng như ống
than nano dùng trong sự đo đạc có một cấu trúc
toàn bích không khuyết tật trong khi kết quả của
thép được ghi lại từ những mẫu thép "đời thường"
có tì vết ở mức vĩ mô và khuyết tật ở mức phân
tử. Như đã đề cập bên trên, độ cứng (môđun
Young) và độ bền liên hệ trực tiếp đến các liên
kết nguyên tử của vật liệu và tì vết. Vì những
mẫu đo đạc là những vật liệu toàn bích, độ bền
và độ cứng của ống than nano, graphene và kim
cương trong Bảng 1 mang những con số tương tự
phản ánh độ bền của tập hợp liên kết cộng hóa
trị carbon – carbon của những vật liệu này. Điều
quan trọng ở đây cho thấy là graphene hay ống
than nano phải được chế tạo với một cấu trúc
không khuyết tật mới có thể đạt tới một cơ tính
tối đa hữu ích trong việc gia cường cho các loại
polymer.
Composite (vật liệu phức hợp)
chế tạo từ chất nền polymer và các loại sợi gia
cường (thủy tinh, Kevlar, carbon) đã mở màn một
thế hệ vật liệu mới ở thập niên 60 của thế kỷ
trước mà ảnh hưởng của nó vô cùng sâu rộng trong
mọi lĩnh vực công nghiệp ngày nay. Các loại vật
liệu nano như ống than nano và graphene đã được
dùng như thành phần gia cường đã tạo một ngõ rẽ
quan trọng trong địa hạt composite; đó là nano
composite. Gia cường cần hai yếu tố chính để
composite đạt được cơ tính tối đa. Yếu tố thứ
nhất là vật gia cường cần phải được phân tán một
cách hiệu quả. Trong trường hợp lý tưởng nhất,
graphene phải được phân tán thành từng mảnh. Thí
dụ, poly(methylmethacrylate) là một loại plastic
trong suốt rất thông dụng nhưng dễ gãy nứt (Bảng
1). Nếu ta có thể phân tán 1% graphene trong
polymer này độ cứng sẽ tăng 5 lần (từ 2, 5 đến
12,7 GPa) và độ bền đến 22 lần (0,06 đến 1,25
GPa) (Phụ lục 6) mà độ trong suốt vẫn không suy
giảm. Trong thực tế, lực van der Waals khiến cho
ống than tập trung lại giống như cụm tóc rối và
các graphene cũng có khuynh hướng chồng chập trở
lại trạng thái graphite. Cơ tính của trạng thái
kết tập này không còn ưu việt như của từng ống
nano hay từng mảnh graphene. Hiện nay, việc phân
tán graphene (hay ống than nano) trong chất nền
vẫn còn là một chướng ngại lớn để sản xuất một
nano composite có cơ tính ưu việt. Yếu tố thứ
hai là những nhóm chức (functional group) để tác
dụng với chất nền polymer tạo các liên kết cộng
hóa trị để móc graphene vào chất nền [22]. Chức
hóa (functionalization) có thể giải quyết tương
đối dễ dàng với các phương pháp hóa học nhưng
các phản ứng chức hóa có thể gây khuyết tật trên
mạng graphene làm giảm cơ tính của graphene.
Ngoài ra, sợi là một vật liệu
không thể thiếu trong gia cường. Thiên nhiên đã
biết kéo sợi kể từ khi có sự sống xuất hiện trên
hành tinh này. Tằm cũng như nhện sản xuất ra tơ.
Lụa tơ tằm từ xưa đã đem lại cho con người sự
thoải mái cũng như phong cách quý phái. Tơ nhện
không cho một cảm giác trang trọng như tơ tằm có
lẽ vì sự gớm ghiếc của con nhện hay màng nhện ma
quái thường được nhà làm phim phóng đại để làm
lạnh xương gáy. Từ góc nhìn khoa học, tơ nhện có
độ bền siêu việt và gần đây đã trở nên một đề
tài nghiên cứu hấp dẫn. Chế tạo sợi có độ bền,
dai siêu việt là một điều mong ước hay là nỗi ám
ảnh của con người từ ngàn xưa. Từ thời nguyên
thủy con người đã biết bện dây từ vỏ cây, kéo
sợi kim loại từ thời đồ đồng, đồ sắt cho đến
thủy tinh và các loại polymer của thời hiện đại.
Ngày nay, sợi polymer Kevlar và các loại sợi
khác như thủy tinh, carbon, polyethylene đánh
dấu một cột mốc quan trọng trong sự phát triển
tơ sợi công nghiệp tiên tiến. Sự bền chắc và nhẹ
cân của các vật liệu hữu cơ trở thành một yếu tố
quan trọng trong các ứng dụng cấu trúc mà kim
loại đã từng làm vua một thời như trong thân máy
bay, tàu bè. Một ứng dụng quan trọng khác của
sợi là tạo ra áo giáp chống đạn và composite
chống sức công phá của chất nổ.
Trong ứng dụng gia cường
người ta dùng độ dai (toughness) như là tiêu
chuẩn. Độ dai là năng lượng cần để làm gãy nứt
hay phá hủy vật liệu, có thể xem như là tích số
của độ bền (stress) và độ căng (strain). Như
vậy, một vật liệu lý tưởng cho việc gia cường,
chống va đập và công phá cần có độ bền cao và độ
căng dài. Miếng bánh qui có độ bền nhỏ và độ
căng thấp nên giòn dễ gãy. Thủy tinh có độ bền
cao (~ 500 MPa) nhưng độ căng thấp (<0.1%), các
loại plastic hay cao su có độ bền thấp (50 MPa)
nhưng độ căng dài (20 - 800 %), giữa hai đối cực
này là thép có độ bền cao (~ 1000 MPa) và độ
căng dài (~ 40%). Thép là vật liệu thông dụng
nhờ vào những đặc tính này nhưng quá nặng cho
nhiều áp dụng nên Kevlar, một vật liệu polymer
đặc biệt được ưa chuộng vì độ dai rất cao (Bảng
2). Áo giáp và nón cối hiện đại chống đạn và các
vật liệu chống công phá phần lớn dùng sợi truyền
thống như sợi Kevlar hay sợi carbon. Tuy nhiên,
cùng là vật liệu hữu cơ nhưng độ dai của Kevlar
(150 MJ/m3) vẫn chưa đạt đến độ dai
của tơ nhện (214 MJ/m3) (Bảng 2). Qua
400 triệu năm tiến hóa, sợi thiên nhiên vẫn là
niềm hãnh diện của tạo hóa mà sợi nhân tạo vẫn
chưa có thể vượt qua về độ dai. Nhưng liệu sợi
làm từ ống than nano và graphene có thể phá vỡ
kỳ tích này?
Bảng 2: So sánh cơ
tính các loại sợi
Vật liệu |
Độ bền (GPa) |
Độ dai (MJ/m3)* |
Độ cứng (GPa) |
Tài liệu tham khảo |
1. Kevlar |
5 |
150 |
70 - 130 |
24 (Cheng) |
2. Thép |
0,25 – 1,2 |
– |
203 |
Wikipedia |
3. Tơ nhện |
1,7 |
214 |
5-10 |
25 (Porter) |
4. Sợi CNT |
1,4 |
60 |
17,5 |
26 (Tran) |
5. CNT/PVA** (60:40)
|
1,8 |
1500 |
80 |
27-28 (Dalton)
|
6. Graphene (3%)/PVA
|
0,04 |
30 |
1,2 |
29 (Zhao) |
7. Graphene/CNT/PVA
(15:15:70) |
0,7 |
2000 |
3,5 |
30 (Shin) |
8. Graphene paper
|
0,3 |
14 |
42,3 |
31 (Chen) |
9. Graphene Ca2+
|
0,5 |
17 |
11.2 |
32 (Xu) |
* MJ (Mega Joule) = 106
Joule |

Hình 6: Sợi
ống than nano bằng phương pháp trực tiếp kéo
sợi từ "cánh đồng" ống nano [23].
Kéo sợi từ những ống nano hay
hạt, mảnh li ti của graphene lập tức lọt vào tầm
nhìn của các nhà nghiên cứu tơ sợi dù việc thực
hiện còn rất khó khăn. Qua một sự kiện tình cờ,
nhóm Baughman (Đại học Texas, Mỹ) đã kéo được
sợi từ các ống than nano như các cây lúa mọc
thẳng trên cánh đồng [23] (Hình 6). Trong phương
pháp kéo sợi việc sắp thẳng hàng (alignment) các
ống than hay mảnh graphene theo chiều kéo là
điều kiện tiên quyết để có sự bền dai. Tiến sĩ
Trần CD đã triển khai và hệ thống hóa phương
pháp kéo bằng cách dùng lực căng để sắp các ống
than đồng nhất theo hướng kéo và đồng thời loại
trừ những vướng víu (entanglement) giữa các ống
nano trước khi bện thành sợi [26]. Sợi của Trần
CD và cộng sự có độ bền và độ dai tăng gấp đôi
so với sợi bện từ những ống than nằm hỗn độn có
nhiều vướng víu (Bảng 2).
Vì bản chất hai chiều việc
kéo sợi graphene phải thực hiện từ dung dịch.
Nhóm Xu (Đại học Triết giang, Trung Quốc) đã
dùng những mảnh graphene to (kích cỡ µm)
để giảm thiểu khuyết tật phần rìa mảnh và nối
kết các mảng bằng ion có hoá trị hai (Ca2+,
Cu2+) (Hình 7). Tóm lại, quá trình
kéo sợi ống than nano hay graphene chẳng qua là
việc tạo nên một trạng thái kết tập thẳng hàng
để tận dụng cơ tính tuyệt vời của ống than hay
mảnh graphene.

(a)
(b) (c) |

(d) |
Hình 7: (a) Sự sắp xếp
thẳng hàng của sợi ống than nano;
(b) các mảnh graphene nhỏ; (c) các mảnh
graphene to và
(d) quá trình kéo sợi graphene tự dung
dịch [32]. |
Từ kinh nghiệm kéo sợi ống than nano và graphene, một
nhóm nghiên cứu quốc tế từ Úc, Mỹ và Hàn Quốc đã
nghĩ ra một cách tiếp cận mới là tạo ra một hỗn
hợp ống than nano và graphene trong chất nền
polymer (poly vinylalcohol) (PVA) rồi kéo thành
sợi [30]. Kết quả vượt qua sự mong đợi của nhóm
là độ dai của sợi composite là 2.000 MJ/cm3
lớn nhất từ trước đến nay (Bảng 2, vật liệu 7),
to gần 10 lần tơ nhện (214 MJ/cm3) và
13 lần sợi Kevlar (150 MJ/cm3). Ngoài
nguyên tắc chính trong việc kéo sợi là sự sắp
thẳng hàng theo trục kéo những mảnh graphene
hành xử như một tấm chắn ngăn chặn và làm cùn
mũi nhọn vết nứt ngay từ thang phân tử (Hình 8).
Phương pháp làm cùn vết nứt là một cơ chế gia
tăng độ dai của vật liệu.

Hình 8: Vết
nứt bị graphene làm cùn mũi ngăn chặn tiến
trình vết nứt [30].
Tiếc rằng sợi làm từ
graphene, ống than nano hay hỗn hợp giữa
graphene và ống than nano trong dung dịch PVA
chỉ có giá trị hàn lâm, chứng tỏ tiềm năng nhưng
không có giá trị thực tế bởi PVA là một chất
dính có thể hòa tan trong nước. Việc thay thế
PVA bằng một polymer không hòa tan trong nước
cho đến nay vẫn chưa được thực hiện thành công.
Rõ ràng, Bảng 2 cho thấy các loại sợi truyền
thống (Kevlar, carbon, thủy tinh) vẫn là sản
phẩm được ưa chuộng trong việc gia cường nhờ vào
giá cả hợp lý và sản xuất đại trà. Khác với công
nghiệp điện tử, công nghiệp gia cường không đòi
hỏi ống than nano hay graphene phải cực kỳ tinh
chất, cấu trúc chính xác đến thang phân tử nên
là một lĩnh vực được doanh nghiệp chú trọng.
Ngày nay ống than nano dần dần chen chân vào thị
trường gia cường với số lượng sản xuất gia tăng
đến vài trăm tấn mỗi năm [33]. Graphene là người
em đến muộn nhưng nó có nhiều điều kiện dễ dàng
hơn ống than nano trong việc sản xuất. Người ta
đang nhắm đến việc sản xuất những mảng graphene
to 10 µm có độ cứng (mô đun Young) 250
GPa với giá $40/kg cho việc kéo sợi và gia cường
[19]. Nếu đạt được yêu cầu này nano composite
chứa graphene sẽ xuất hiện một ngày không xa.
5. Tụ điện
Tụ điện là một linh kiện điện học dùng để nạp điện,
tích điện và phóng điện khi cần thiết. Do bản
chất, kích cỡ của tụ điện thường rất cồng kềnh
và nặng cân. Để chứa một năng lượng điện tương
đương với cục pin AA (cỡ ngón tay út) tụ điện
cần một không gian vài ngàn lần to hơn (Phụ lục
7). Cũng như transistor, tụ điện cần phải được
thu nhỏ và gia tăng hiệu suất để đáp ứng với nhu
cầu của các dụng cụ điện tử hiện đại. Ngoài ra,
điều kiện hoạt động lý tưởng của tụ điện là nạp
điện nhanh, tích điện to và phóng điện nhanh.
Những đòi hỏi này đã đẩy mạnh sự ra đời của siêu
tụ điện (super-capacitor). Tụ điện và pin cùng
có chức năng chứa năng lượng. Nhưng pin phóng
điện từ từ trong khi tụ điện cần phóng điện thật
nhanh. Chiếc đèn chớp của máy ảnh kỹ thuật số là
một ứng dụng của siêu tụ điện. Mỗi lần chớp sáng
là do sự phóng điện thật nhanh từ siêu tụ điện.
Sau đó siêu tụ điện nhanh chóng nạp điện từ
nguồn điện của pin rồi sẵn sàng cho ánh chớp kế
tiếp. Siêu tụ điện còn được cài đặt trong dụng
cụ cầm tay như chiếc điện thoại thông minh cực
kỳ hiện đại cho đến phương tiện to lớn như xe
hơi chạy bằng điện. Những cú đạp tăng tốc xe hơi
cần sự phóng điện thật nhanh nhả ra một lượng
điện thật nhiều để đẩy mạnh xe đi tới. Siêu tụ
điện quả là một linh kiện có thị trường rộng lớn
và tiềm năng doanh thu dồi dào.
Cơ sở lý luận cho việc chế
tạo siêu tụ điện tương đối đơn giản. Đặc tính
của tụ điện được diễn tả bằng điện dung C
và có công thức như sau,
C = εA/d (2)
trong đó ε là hằng số
điện môi, A là diện tích của điện cực và
d là khoảng cách giữa hai điện cực.
Vì vậy, để điện có thể "tụ" ở
mật độ cao (điện dung C cao), ε
phải lớn, A rộng và d nhỏ. Trong
ba biến số này thì sự lựa chọn vật liệu có hằng
số điện môi to ε có nhiều khó khăn, độ
dày d chỉ có thể giảm đến một giới hạn
nhất định. Chỉ có diện tích bề mặt A là
một biến số có nhiều khả năng làm gia tăng. Như
vậy điện cực cần một bề mặt rộng nhưng điều này
tương phản với đòi hỏi thu nhỏ của tụ điện. Để
giải quyết khó khăn này các điện cực kim loại
của tụ điện được phủ lên lớp than xốp (porous)
hoạt tính. Lớp than xốp sẽ gia tăng diện tích bề
mặt từ 10.000 đến 100.000 lần nhiều hơn nhờ sự
gia tăng của các lỗ vi mô. Hiện nay, siêu tụ
điện có điện cực than xốp hoạt tính đang là một
sản phẩm thông dụng trên thị trường.
Mạng graphene một lớp có diện
tích bề mặt là 2.630 m2/g (tương
đương 10 sân quần vợt). Diện tích bề mặt
graphene lớn hơn than xốp hoạt tính 10 lần. Đây
là một con số cực kỳ lớn và có lẽ là con số tối
đa mà không có một vật liệu nào có thể vượt qua.
Nhóm nghiên cứu tại đại học Texas (Mỹ) đã chế
tạo siêu tụ điện graphene nhẹ cân kích cỡ nhỏ có
dung lượng 135 Farah/g [34]. Nếu so với tụ điện
cổ điển có dung lượng 1 Farah có chiều cao 20 cm
và nặng 2 kg thì đây là một bước nhảy vọt. Tuy
nhiên, vì là mẫu thí nghiệm đầu tiên dung lượng
của siêu tụ điện graphene vẫn còn thấp so với
con số lý thuyết là 550 Farah/g. Các doanh
nghiệp dự đoán siêu tụ điện graphene sẽ xuất
hiện trong vòng 5 đến 10 năm tới.
6. Bộ cảm ứng
Một tiềm năng ứng dụng khác của graphene là vật liệu
cho bộ cảm ứng để "cảm" các loại hoá chất. Bộ
cảm ứng có ứng dụng quan trọng cho việc phát
hiện các hóa chất, khí độc, độc tố hay phân tử
sinh học trong công nghệ, môi trường và quốc
phòng. Ba năm sau khi xuất bản bài báo cáo
Nobel, nhóm nghiên cứu Geim và Novoselov lại
tung ra một bài báo cáo khác [35] công bố bộ cảm
ứng graphene đầu tiên có thể cảm được một phân
tử thể khí. Điều này tương tự như ta thả một hạt
cát làm dao động mặt hồ! Như vậy, mặt hồ phải
thật tĩnh lặng không bị nhiễu bởi những làn gió
thổi thì mới nhận ra sự va chạm của hạt cát.
Graphene là một vật liệu "tĩnh lặng" ít bị nhiễu
điện học. Nhờ vậy tác động của phân tử khí trên
mạng graphene sẽ gây sự dao động độ dẫn điện của
mạng mà nhóm Geim và Novoselov đã có thể đo
được.

Hình 9: Bộ cảm ứng graphene
thực dụng [36].
Gần đây, nhiều bộ cảm ứng
"thế hệ mới" được chế tạo từ polymer dẫn điện,
ống than nano và dây nano (nanowire) có độ nhạy
cảm đạt đến hàm lượng một phần tỷ (par per
billion). Nhưng độ nhạy đạt đến một phân tử của
bộ cảm ứng graphene là độ nhạy của sự tột cùng.
Nguyên nhân thứ nhất cho độ nhạy tột cùng này là
hình dạng 2 chiều của graphene. Thứ hai,
graphene có độ dẫn điện tốt tương đương với kim
loại. Thứ ba, graphene rất ít khuyết tật nếu
được tổng hợp đúng phương pháp. Nhưng ở thời
điểm hiện tại bộ cảm ứng graphene của nhóm Geim
và Novoselov chưa là một công cụ thực tế bởi vì
nó thiếu tính lựa chọn, có thể "cảm" cùng lúc
với nhiều khí khác nhau. Bộ cảm ứng cho thực
dụng phải được thiết kế để cảm nhận một chất mà
thôi. Ngoài ra, bộ cảm ứng của nhóm Geim và
Novoselov dùng graphene từ lớp bong của phương
pháp "dán bóc" rất ít khuyết tật nhưng không
thuận lợi cho việc sản xuất đại trà. Dù sao độ
nhạy tột cùng của graphene mang đến nhiều hứng
khởi cho các nhà hóa học vì họ có thể tổng hợp
các nhóm chức (functional group) gắn vào mạng
graphene và nhóm này chỉ tác dụng với phân tử
khí hay phân tử sinh học đặc thù nào đó.
Việc thực dụng hóa bộ cảm ứng
đang được nhiều nhóm nghiên cứu triển khai với
graphene tổng hợp bằng phương pháp hóa học. Thí
dụ, một phát minh về bộ cảm ứng graphene do sự
hợp tác giữa Rensselaer Polytechnic Institute và
Viện Hàn lâm Khoa Học Trung Quốc có thể áp dụng
trong một tương lai gần nhờ vào sự đơn giản và
ít tốn kém trong sản xuất. Bằng một phương pháp
độc đáo họ phủ graphene lên chất nền xốp
(porous) nickel, sau đó loại bỏ nickel để chừa
lại vật liệu graphene với những lỗ nhỏ li ti 100
micro mét (0,1 mm) (Hình 9). Thể xốp graphene
này có thể phát hiện khí ammonia (NH2)
và nitrogen dioxide (NO2) ở độ nhạy
20 ppm. Mặc dù không có độ nhạy tột cùng như bộ
cảm ứng của nhóm Geim và Novoselov bộ cảm ứng
graphene vẫn hơn các thương phẩm vài mươi lần
[36]. Bộ cảm ứng này có thể áp dụng để tìm mìn
trong lòng đất và đo cường độ ô nhiễm môi
trường.
7. Các ứng dụng khác
Sự cảm ứng không dừng ở các phân tử khí hay sinh học,
graphene còn tương tác với sóng điện từ. Nguyên
tố silicon và các nguyên tố bán dẫn khác cũng
tương tác với sóng điện từ nhưng phần lớn trong
vùng hồng ngoại. Cũng như polymer dẫn điện và
ống than nano, graphene cảm ứng với sóng điện từ
trải dài từ vi ba, sóng tetrahertz, tia hồng
ngoại, ánh sáng khả thị và tia tử ngoại. Đây là
một băng tần rất rộng có bước sóng kéo dài từ
centimét (vi ba) đến vài trăm nanomét (tia tử
ngoại). Vì lợi thế 2 chiều, graphene vượt hẳn
polymer dẫn điện và ống than nano về cường độ
tương tác với sóng điện từ. Cơ cấu tác động của
các photon (quang tử) lên các chất bán dẫn vô cơ
đã được hiểu rất rõ từ những nghiên cứu hơn nửa
thế kỷ qua nhưng kho tri thức này không thể vận
dụng một cách máy móc vào chất hữu cơ như
polymer dẫn điện, ống than nano và đặc biệt là
graphene. Vì vậy cho đến nay vẫn chưa có cơ cấu
nào giải thích tại sao photon có thế tác động
các vật liệu hữu cơ dẫn điện trên một băng tần
rộng có bước sóng khác nhau hằng trăm ngàn lần
(từ centimét đến vài trăm nanomét) [37]. Dù có
sự thiếu vắng một lý thuyết dẫn đường, các nhà
vật lý và kỹ sư điện tử vẫn tích cực tìm kiếm
những ứng dụng hữu ích của graphene trong quang
điện tử học [38].
Một đặc tính khác của
graphene là có cường độ tác động rất cao với
sóng terahertz. Sóng terahertz là một vùng sóng
hẹp khiêm tốn nằm giữa vi ba và hồng ngoại. Vi
ba (radar) và hồng ngoại (nhiệt) đã được nghiên
cứu nhiều trong việc thu phát, cảm nhận, hấp thụ
sóng nhưng terahertz hầu như bị quên lãng cho
đến khi có nhu cầu phòng ngừa khủng bố tại phi
trường. Sóng terahertz có thể nhìn xuyên thấu
qua vải vóc, plastic nhưng bị hấp thụ bởi kim
loại và hợp chất vô cơ nên là một loại sóng dùng
để phát hiện vũ khí, chất nổ dấu trong người hay
hành lý. Sự tương tác giữa graphene và sóng
terahertz cho thấy tiềm năng dùng graphene trong
các bộ cảm ứng terahertz chống khủng bố trong
tương lai.
Như đã đề cập, graphene không
vùng cấm là một thất vọng cho việc thay thế
silicon trong transistor nhưng đây lại là một
niềm hy vọng lớn trong việc chế tạo pin mặt
trời. Silicon hiện là một vật liệu thông dụng
làm pin mặt trời. Hiệu suất chuyển hoán từ năng
lượng mặt trời thành điện năng của pin mặt trời
silicon không hơn 15 % vì silicon có vùng cấm
chỉ bao phủ một phần của quang phổ mặt trời. Để
tạo pin có năng suất chuyển hoán cao ta phải
dùng một loạt chất bán dẫn có vùng cấm khác nhau
để hấp thụ năng lượng photon của toàn thể quang
phổ, nghĩa là từ tia hồng ngoại đến tia tử
ngoại. Việc này khả thi nhưng giá cả của thành
phẩm sẽ cao ngất ngưởng. Vì không có vùng cấm,
graphene có thể thoải mái hấp thụ năng lượng
photo ở mọi tần số trong quang phổ mặt trời. Hy
vọng rằng pin mặt trời graphene sẽ chiếu sáng
tương lai.
8. Tổng hợp
Sự thành công hay thất bại trong ứng dụng của một vật
liệu tùy vào khả năng tổng hợp để sản xuất số
lượng lớn ở mức công nhiệp, phẩm chất đồng nhất
và giá cả hợp lý. So với ống than nano, việc sản
xuất graphene nhiều thuận lợi vì ít yếu tố hạn
chế hơn. Sự thuận lợi thấy rõ trong việc tạo một
vài lớp graphene bằng phương pháp "dán bóc" với
băng keo đơn giản đến kinh ngạc. Nếu phương pháp
thủ công "dán bóc" được lặp đi lặp lại nhiều lần
thì cũng tạo được vài mảnh li ti graphene một
lớp trong một vài giờ. Nhưng việc sản xuất đại
trà của graphene không thể nào theo thủ thuật
"dán bóc" của Geim và Novoselov mặc dù đây là
phương pháp đơn giản nhất tạo graphene một lớp
có cấu trúc toàn bích.Cũng như ống than nano, chất
lượng graphene tùy vào phương pháp tổng hợp. Vật
liệu dùng trong công nghiệp điện tử phải thỏa
mãn yêu cầu về độ tinh khiết và yêu cầu có cấu
trúc không khuyết tật. Tinh thể silicon dùng để
chế tạo transistor có độ tinh khiết là
99,999999999% (11 số 9). Sự thành công của
silicon trong lĩnh vực điện tử nhờ vào hai yếu
tố trên. Graphene áp dụng trong các công cụ điện
tử cũng đòi hỏi hai yêu cầu này. Ngoài ra, số
lớp trong graphene phải được kiểm soát chặt chẽ
theo yêu cầu của mỗi ứng dụng và diện tích của
các mảnh graphene càng rộng càng tốt vì rìa mảnh
graphene từ bản chất là khuyết tật. Diện tích to
nhất hiện nay là µm và đang tiến tới 10 µm.
Vì vậy, chế ngự phẩm chất ở đến mức phân tử
trong quá trình sản xuất là một việc phức tạp
cần nhiều đầu tư và thời gian. Tuy nhiên, trong
các ứng dụng như gia cường, bộ cảm ứng, tụ điện
hay các ứng dụng sinh y nhu cầu chất lượng ít
khe khắt nên việc tổng hợp graphene sẽ thoải mái
hơn.
Năm 2008 những mảnh graphene
li ti vài micromét vuông nhỏ hơn tiết diện sợi
tóc được hãng Graphene Industries (Anh Quốc) làm
theo thủ thuật "bóc dán" (bóc tách cơ học) cho
các ứng dụng điện tử bán với giá trung bình
1.000 đô la (khoảng 100 triệu đô la cho 1 mm2);
trở thành một trong những vật liệu đắt giá nhất
hành tinh. Haydale là một hãng nhỏ (start-up
company) chuyên tổng hợp graphene phẩm chất cao
cho ngành điện tử thay cho phương pháp "bóc dán"
thủ công [39]. Haydale nghiền than chì cho ra
những mảnh nhỏ kích cỡ micromét và độ dày vài
mươi nanomét thành những mảnh graphene khoảng
100 lớp. Haydale có thể tách mỏng hơn cho đến
một vài lớp graphene cho từng mảnh bằng plasma.
Phương pháp sản xuất "khô" plasma của Haydale
cho nhiều ưu điểm vì graphene không bị acid gây
khuyết tật như các phương pháp "ướt" hóa học.
Một ưu điểm khác là graphene chế tạo bằng phương
pháp Haydale có thể dễ dàng gắn các nhóm chức
(functional group) thích hợp cho từng ứng dụng.
Thí dụ, nhóm chức giúp graphene phân tán
(disperse) hay nối kết với chất nền polymer tạo
ra nano composite gia cường hay các dung dịch
huyền phù cho mực in dùng để in các mạch điện vi
mô. Mảnh graphene của Haydale có thể dùng trong
pin mặt trời hay trong điện cực của pin lithium
nhằm gia tăng tuổi thọ của pin.
Một phương pháp khác là
"ngưng đọng hơi hoá học" (chemical vapour
deposition, CVD) dùng lò cao nhiệt giống như
phương pháp tổng hợp ống than nano. Đồng được
dùng như chất nền (substrate) đun nóng lên ở
nhiệt độ 800 – 1.000 °C và nguồn carbon được
thổi qua chất nền, cấu tạo graphene sẽ được
thành hình trên mặt đồng. Có nhiều nguồn cung
cấp carbon nhưng đơn giản nhất là khí methane.
Thậm chí có một nhà nghiên cứu đã dùng chân con
gián làm nguồn cung cấp nguyên tố carbon và tổng
hợp thành công graphene. Sự kiện ngộ nghĩnh này
cũng giống như vài năm trước báo chí Việt Nam
loan tin việc chế tạo ống than nano từ bã mía bã
dừa. Điều này giải thích nguyên tắc chế tạo ống
than hay graphene nhưng không phải là phương
pháp tạo nên sản phẩm có chất lượng vì "rác bỏ
đầu vào thì rác sẽ thải đầu ra". Đại học
Sungkyunkwan (Hàn Quốc) dùng những thiết bị
"ngưng đọng hơi hoá học" cao cấp để chế tạo
những mảng phim graphene chất lượng cao trong
suốt có chiều rộng 76 cm trên chất nền đồng. Sau
đó đồng được khử đi để lộ ra mảng graphene tự
do. Hãng điện tử Samsung đang thiết lập hệ thống
dây chuyền để sản xuất phim graphene dùng trong
các dụng cụ điện tử, quang điện tử hay phủ lên
thủy tinh, tinh thể thạch anh (quartz) tạo nên
lớp phủ dẫn điện cho màn hình cảm ứng (touch
screen) [40].
Phương pháp tạo mạng graphene
(epitaxial growth) trên chất nền silicon carbide
(SiC) có lẽ là một phương pháp nhiều hứa hẹn để
chế tạo dụng cụ điện tử và transistor. SiC cũng
là vật liệu thông dụng trong công nghiệp điện
tử. Nhất cử lưỡng tiện, SiC vừa là nguyên liệu
tạo graphene vừa là chất nền cho vi mạch. Trong
một lò cao nhiệt (1.000 °C), nguyên tố Si bị bốc
hơi để lại phía sau mạng graphene chất lượng cao
có cấu trúc với kích cỡ vài trăm micromét không
khuyết tật. Nếu độ lớn của transistor là vài
mươi nanomét ta có thể tạo ra một vi mạch chứa
vài chục ngàn transistor graphene ngay trên chất
nền SiC. Nhược điểm của phương pháp này là giá
cả của SiC quá cao và lát (wafer) SiC quá nhỏ
nên chỉ có thể áp dụng vào công nghệ cao như chế
tạo transistor hoạt động ở băng tần GHz, THz như
đề cập ở phần trên.
Phương pháp của tiến sĩ Dan
Li [41] (Đại học Wollongong, Úc) được xem như
một phương pháp "ướt" hóa học tiện lợi vì trong
hóa trình tổng hợp graphene nước là dung môi
chính. Thay vì dùng động tác cơ học "bóc dán",
than chì được tách ra bằng cách oxít hóa than
chì biến graphene thành graphene oxide. Nguyên
tử oxygen như một vật chêm chen vào khoảng giữa
hai lớp graphene và khi khoảng cách lớp được nới
rộng thì lực hút giữa hai lớp sẽ bị giảm đi
nhanh chóng. Những động tác cơ học như siêu âm
sẽ dễ dàng tách than chì thành mảnh graphene
oxide dưới dạng huyền phù (suspension solution).
Graphene oxide sẽ được khử để đưa trở lại dạng
graphene. Phương pháp này có tiềm năng sản xuất
đại trà do việc sử dụng nước trong quá trình sản
xuất. Tuy nhiên, oxít hoá có thể hủy hoại mạng
graphene hay gây khuyết tật. Dù rằng graphene có
khuyết tật không thể đáp ứng những yêu cầu gần
như tuyệt đối trong các ứng dụng điện tử nhưng
chúng có thể dùng trong việc gia cường bộ cảm
ứng, tụ điện hay điện cực pin. Hình 10 tổng kết
các phương pháp tổng hợp graphene với chất
lượng, giá cả và những ứng dụng.

Hình 10: Các phương pháp chế tạo
graphene và giá cả. (1) Ngưng đọng hoá
học (CVD): chất lượng cao, giá trung
bình, ứng dụng: lớp phủ, dụng cụ sinh
học, lớp phủ dẫn điện trong suốt, dụng
cụ điện tử, dụng cụ quang tử học.(2)
Tách lớp cơ học: chất lượng cao, giá
cao, ứng dụng: nghiên cứu, tạo mẫu.(3)
Epetaxi graphene từ SiC: chất lượng cao,
giá cao, ứng dụng: dụng cụ điện tử,
transistor tần số cao. (4) Lắp ráp phân
tử: chất lượng cao, giá cao, ứng dụng:
dụng cụ điện tử nano. (5) Tách lớp hóa
học: chất lượng thấp, giá thấp, ứng
dụng: lớp phủ, composite, mực in, tích
trữ năng lượng, dụng cụ sinh học, lớp
phủ dẫn điện) [19]. |
9. Thương mại hóa
Graphene được xem như là vật liệu nhiều hứa hẹn của
tương lai. Sau giải Nobel (2010) số bài báo cáo
đã tăng vọt qua ngưỡng mười ngàn bài mỗi năm và
số đăng ký phát minh cũng tăng theo hàm luỹ
thừa. Danh sách ứng dụng của graphene rất dài
[43] bao gồm mọi ngành khoa học từ sinh y học
đến điện tử học với những áp dụng mang tính đột
phá trong dân dụng cũng như quốc phòng. Những
ứng dụng chính đã được đề cập bên trên nhưng các
ứng dụng khác liên quan đến sinh y, năng lượng
mặt trời, khử độc tố trong nước, tàng trữ
hydrogen, sự tương tác với ánh sáng và sóng điện
từ không được đề cập chi tiết vì vượt quá khuôn
khổ bài viết.
Thương mại hóa những thành
quả nghiên cứu cơ bản là một trong những mục
tiêu quan trọng của khoa học công nghệ. Nhưng sự
chuyển biến từ thành quả hàn lâm đến công nghệ
thực dụng không phải là con đường thẳng đầy hoa
thơm cỏ lạ. Một phát hiện mới mang tính cách
mạng xảy ra ở các đại học hay cơ sở nghiên cứu
thường có một phong trào theo đuôi rầm rộ nhằm
xin kinh phí cho các công trình nghiên cứu nối
liền với nhiều hứa hẹn ứng dụng đổi đời. Các ứng
dụng đề cập trong bài viết này chỉ là mẫu chế
tạo trong phòng thí nghiệm, nên được xem như một
"chứng cứ của tiềm năng" (proof of concept) hơn
là thương phẩm. Thực tế cho thấy quá trình
chuyển biến từ phòng thí nghiệm đến thương
trường không những cần thời gian, tiền bạc, sự
kiên nhẫn và thông minh mà cần hội đủ yếu tố
"thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Trong khi giới
hàn lâm chú trọng đến số lượng bài báo cáo được
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, đến chất
lượng tạp chí, lá cải hay quyền uy; thì mối quan
tâm chính phủ và giới doanh thương là việc
thương mại hóa các thành quả khoa học và làm ra
tiền. Thường sau một thập niên khi sự háo hức
ban đầu bắt đầu lắng đọng thì mọi người sẽ lùi
một bước để thẩm định lại sự phát hiện bằng cái
nhìn lạnh lùng của doanh nghiệp. Tóm lại, sự
chuyển biến từ khoa học sang công nghệ chỉ thành
công khi ba yếu tố kỹ thuật, kinh tế và mãi lực
đồng thời được thỏa mãn.
Trong hai thập niên qua những
hợp chất mới thuần carbon như quả bóng C60,
ống than nano và graphene lần lượt được phát
hiện. Cứ mỗi lần phát hiện cộng đồng nghiên cứu
khoa học hồ hởi đặt niềm tin vào những vật liệu
này với mong ước gần xa rằng chúng sẽ cho những
ứng dụng đột phá. Sự ra đời của quả bóng
fullerene đã kích động không ít vào cộng đồng
khoa học vì cái đẹp của cấu trúc hình học và
tiềm năng ứng dụng của nó. Tuy nhiên, fullerene
chỉ trở thành một vật liệu cho các công trình
nghiên cứu cơ bản mà có lần tạp chí The
Economist chua chát viết, "fullerene chỉ
sản xuất những bài báo cáo hàn lâm". Mặc dù
ngày nay fullerene đang có một chỗ đứng đặc biệt
là được dùng trong pin mặt trời hữu cơ, nhưng
tác động của nó vào công nghiệp vẫn chưa mang
tới một dấu ấn rõ rệt.
Việc phát hiện ống than nano
làm bùng lên ngọn lửa nghiên cứu về vật liệu
carbon sau những thất vọng về fullerene. Nhưng
sau hơn 20 năm nghiên cứu với hàng chục tỷ đô la
kinh phí và công sức của nhiều bộ óc tinh anh,
ống than nano vẫn còn lấp ló ở ngưỡng cửa ứng
dụng công nghệ. Ống than nano không đạt được yêu
cầu đồng nhất của cấu trúc cần thiết cho các ứng
dụng trong lĩnh vực điện tử. Thêm vào đó sự an
toàn của ống than nano đã trở thành một đề tài
tranh cãi và quan tâm từ nhiều năm nay. Gần đây
(2012) những cơ quan về an toàn chức nghiệp như
NIOSH (National Institute for Occupation Health
and Safety) của Mỹ hay Safe Work Australia của
Úc đã phát hành những tài liệu liệt kê ống than
nano là một vật liệu gây tác hại (hazardous) có
hiệu ứng làm viêm tế bào dẫn đến ung thư như
miăng (asbestos). Những tài liệu cảnh báo này đã
làm chùn bước tiến trình công nghiệp hoá và đã
có vài công ty nổi tiếng tuyên bố từ bỏ việc
thương mại hoá ống than nano.
Người ta thường bảo "nhất hóa
tam", sau fullerene và ống than nano graphene là
vật liệu thứ 3; có khả năng nào "lần thứ ba thì
gặp may"? Từ bài báo cáo năm 2004 đăng trên tạp
chí quyền uy Science [3] đến giải Nobel
Vật lý 2010 chỉ vỏn vẹn 6 năm, graphene được xem
như một thành công chớp nhoáng. Theo đó, nghiên
cứu graphene bùng nổ trong khuôn viên đại học
Manchester nơi Geim và Novoselov làm việc, lan
cả nước Anh và thế giới. Liệu graphene có thể
tạo ra một đột phá trong các ứng dụng để làm
giàu nền kinh tế, đem về lợi nhuận cho việc đầu
tư của chính phủ vào các nghiên cứu hàn lâm? Cho
đến nay cộng đồng nghiên cứu đã nhận được những
tín hiệu tích cực. Về mặt tổng hợp, như đề cập
bên trên đã có những phương pháp sản xuất đại
trà dùng lò cao nhiệt hay tách lớp bằng phản ứng
hóa học. Về mặt an toàn cho sức khoẻ dù graphene
không bị liệt kê vào diện "vật liệu tác hại"
(hazardous material) như ống than nano nhưng các
thí nghiệm về tác dụng và độc tính của graphene
trên mô sinh học đang được tiến hành nghiêm túc
[42]. Về mặt đầu tư và kinh phí, gần như tức
thời sau giải Nobel, chính phủ Anh đồng ý cấp 60
triệu đô la thành lập Viện Nghiên cứu Quốc gia
Graphene (National Graphene Institute) tại đại
học Manchester. Viện sẽ được khai trương vào năm
2015 và sẽ là trung tâm nghiên cứu ứng dụng biến
các thành quả hàn lâm thành ứng dụng nhất là
công nghiệp điện tử. Hội đồng khoa học châu Âu
(European Commission) cũng đã chọn graphene là
một đề tài nghiên cứu cho thập niên tới với kinh
phí là 1 tỷ Euro. Những công ty tham gia vào đề
án graphene này là các doanh nghiệp quốc tế nổi
tiếng liên quan đến hàng không, điện tử và quốc
phòng như Airbus, Alcatel Lucent, Nokia, Oxford
Instruments và Thales. Nghiên cứu sẽ tập trung
vào việc triển khai bộ cảm ứng, nano composite,
công cụ điện tử tần số cao, công cụ điện tử mềm
(flexible electronics) và liên quan đến năng
lượng như việc tồn trữ hydrogen, pin mặt trời và
pin điện hóa. Chính phủ Hàn quốc cũng nhanh tay
đầu tư 20 triệu đô la vào việc nghiên cứu
graphene cho các loại màn hình và dụng cụ điện
tử. Nhiều đại học tại Hàn Quốc với sự tham gia
của tập đoàn Samsung đã tuyên bố khả năng chế
tạo đại trà những mảng graphene chất lượng cao
cho lĩnh vực điện tử.
Ba vấn đề lớn cần được giải
quyết để thương mại hóa graphene là: (1) triển
khai khả năng tổng hợp những mảng tinh thể to
chất lượng cao; (2) chức hóa (functionalization)
gắn những nhóm chức thích hợp cho từng ứng dụng
và (3) tìm kiếm những ứng dụng đặc biệt cho
graphene. Hạng mục (1) đã được chính phủ và
doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ và đang có những
thành quả nhất định. Hạng mục (2) tùy vào tài
năng của các nhà hóa tổng hợp và các nhà vật lý.
Chức hóa là yếu tố quan trọng cho gia cường, bộ
cảm ứng, pin mặt trời, tích trữ năng lượng và
nhất là việc mở ra một vùng cấm cho nhũng ứng
dụng điện tử. Hạng mục (3) tùy vào tầm nhìn và
chiến lược của chính phủ và doanh nghiệp.
Có thể nói rằng trong tất cả
mọi ứng dụng, công nghiệp điện tử là một lĩnh
vực to lớn và mang đến nhiều doanh thu. Nó sẽ
quyết định sự thành công của việc thực dụng hoá
graphene. Những phát hiện liên tục của vật liệu
hữu cơ dẫn điện và bán dẫn khởi đầu từ polymer
dẫn điện vào thập niên 70 của thế kỷ trước, quả
bóng fullenre vào thập niên 80, đến ống than
nano và graphene ngày hôm nay đã hoàn thành cuộc
cách mạng vật liệu làm thay đổi cuộc chơi (game
changing) trong nhiều ứng dụng. Một trong những
hệ quả của cuộc thay đổi lớn lao này là sự xuất
hiện của các loại dụng cụ điện tử mềm (flexible
electronics) như pin mặt trời hữu cơ, đèn LED
hữu cơ, màn hình cảm ứng. Chúng sẽ nhẹ nhàng đi
vào cuộc sống đời thường trong vài thập niên
tới. Những ứng dụng quan trọng khác như tàng trữ
năng lượng (tụ điện, pin), sản xuất năng lượng
(pin mặt trời) và gia cường cho thấy các tiềm
năng quan trọng của graphene. Trong một tương
lai không xa những "chứng cứ tiềm năng" thú vị
và nhiều hứa hẹn trong phòng thí nghiệm sẽ được
doanh nghiệp đem lên bàn mổ soi xét.
10. Tương lai
Từ ngàn xưa con người đã âm thầm ngưỡng mộ sự trật tự
trong cấu trúc lục giác bằng sáp từ sự lao động
miệt mài của những con ong thợ bé tí. Mãi đến
thời cận đại con người mới biết rằng trong các
cấu trúc hình học cấu trúc lục giác cho một sức
bền tối đa nhưng được tạo với lượng nguyên liệu
tối thiếu. Con người nhanh chóng áp dụng vào
lĩnh vực xây dựng tạo những kiến trúc vòm lục
giác chắc bền đẹp mắt đến việc chế tạo cánh phi
cơ bên trong chứa một cấu trúc hình lục giác.
Nếu người xưa đã từng ngưỡng mộ hình dạng của tổ
ong thì ngày nay mạng lục giác của graphene là
một mô hình mà các nhà khoa học muốn mô phỏng
bằng cách dùng phân tử, nguyên tử hay hợp chất
để tạo dựng các mạng lục giác có độ lớn từ vài
nanomét đến milimét nhằm tận dụng và lặp lại các
đặc trưng của graphene như việc không sở hữu
vùng cấm, electron hành xử như hạt không trọng
khối, sự di chuyển "đạn đạo" với tốc độ của
1/300 vận tốc ánh sáng và những hiệu ứng đặc thù
tìm thấy trong lý tính, nhiệt tính, điện tính và
quang điện tính của graphene [44]. Geim và
Novoselov đã không cường điệu khi tiên đoán rằng
cấu trúc lục giác hai chiều sẽ là "mỏ vàng" bất
tận của các đề tài nghiên cứu hấp dẫn để cho các
nhà nghiên cứu vật lý chất cô đặc và khoa học
vật liệu tha hồ đào bới trong vài thập niên tới.

Hình 11: Cấu trúc dị thể van der Waals
được tạo ra bằng cách chồng những vật liệu
khác nhau (graphene, hBN, MoS2,
WSe2,
fluorographene) giống như lắp ráp các mảnh
Lego nhiều màu lại với nhau [45].
Graphene không là chất duy
nhất có cấu trúc hai chiều. Những hợp chất vô cơ
như boron nitride (BN), tungsten disulphite (WS2)
và molydenum disulphite (MoS2) có một
quá khứ khiêm tốn được dùng làm chất nhờn, hay
các loại oxide như TiO2, MnO2
, V2O5 và nhiều hợp chất
khác giờ đây cũng đã thăng hoa như graphene vì
là những tinh thể hai chiều. Hàng chục ngàn bài
báo cáo về graphene đã được xuất bản trong vài
năm qua cho thấy nghiên cứu về graphene với cấu
trúc giản đơn lục giác 2 chiều đã gần đạt tới
đỉnh điểm và cái mới lạ cũng dần dà phôi pha.
Hiện nay, những thủ thuật nano tách than chì ra
từng lớp mỏng tạo graphene một lớp, hai lớp, ba
lớp v.v... đã không còn quá khó khăn. Tuy nhiên,
graphene sẽ là cột mốc cơ bản làm bệ phóng cho
các chế biến ứng dụng, cho nghiên cứu của các
vật liệu 2 chiều khác hay thiết kế một tập hợp
các mặt phẳng nguyên tử với cấu trúc phức tạp
hơn. Andre Geim tiếp tục cuộc hành trình tưởng
tượng của mình đi tìm kiếm "vùng đất hứa mộng
mơ" [45]. Chẳng hạn, như sắp đặt từng mạng
graphene theo một trật tự nhất định để tạo một
loại graphene có vùng cấm để có chức năng
mở/đóng nhưng vẫn duy trì độ di động tuyệt vời
nhằm thay thế silicon trong transistor tương
lai. Hay là sắp mạng graphene chồng lên với các
mặt phẳng nguyên tử khác như mạng MoS2
hay mạng BN, mà Geim và Grigorieva [45] ví von
như một trò chơi "Lego nguyên tử". Chiếc "bánh
kẹp" nhiều tầng chứa các bề mặt nguyên tử khác
nhau giống như tập hợp những tấm Lego được nối
kết bằng lực liên mạng van der Waals có tên gọi
là "cấu trúc dị thể van der Waals" (van der
Waals heterostructures) (Hình 11).
Ý tưởng "cấu trúc dị thể" của
Geim và Grigorieva là một thể loại composite ở
thang phân tử, mặc dù thao tác nano bằng tay của
các nhà vật lý không phải là phương pháp thích
hợp để chồng chập các mạng lưới có độ dày một
nguyên tử. Ở điểm này phương pháp tổng hợp khéo
léo của các nhà hóa học sẽ được tận dụng để thay
thế thao tác nano tạo ra những cấu trúc dị thể
bằng những phản ứng hóa học hay thiết lập một
môi trường tạo điều kiện cho các bề mặt nguyên
tử khác nhau tự lắp ráp (self assemble). Đây
cũng không phải là điều mới lạ vì các nhà hóa
học từ hơn nửa thế kỷ qua đã tổng hợp các loại
co-polymer hay block polymer từ những monomer
khác nhau. Polymer là vật liệu 1 chiều. Liệu
phương pháp tổng hợp một chiều có thể triển khai
thành 2 chiều? Nếu việc này khả thi thì chúng ta
sẽ có vô số lựa chọn cho "cấu trúc dị thể" với
đặc tính chưa từng có để làm nên những dụng cụ
độc đáo mà ngày nay chỉ thấy trong thế giới khoa
học viễn tưởng.
11. Lời kết
Graphene xuất hiện từ những thủ thuật thí nghiệm bình
thường trên một vật liệu bình thường nhưng trí
thông minh, sự tưởng tượng và lòng quyết tâm của
nhóm Geim và Novoselov đã khai sinh một cuộc
cách mạng khoa học. Nhìn lại, graphene quả thật
kỳ dị không giống ai. Cấu trúc thì cực kỳ đơn
giản nhưng nó hành xử như kim loại có độ dẫn
điện và dẫn nhiệt tốt hơn cả kim loại; mặt khác
nó giống như chất bán dẫn mang những đặc tính để
chế tạo transistor nhưng lại không có vùng cấm.
Bề mặt của graphene là một vũ trụ thu nhỏ 2
chiều trong đó electron hành xử như hạt ánh sáng
không khối lượng vụt đến vụt đi như "đạn đạo" ở
chốn không người với vận tốc 1.000 km/s. Tiếp
nối graphene, những vật liệu 2 chiều khác đang
lần lượt xuất hiện. Vô số các "cấu trúc dị thể"
được tạo nên từ sự chồng chập các bề mặt nguyên
tử khác nhau sẽ làm nên nền tảng cho bộ môn khoa
học mới của vật liệu và tinh thể 2 chiều.
Tạo hóa đã cho con người
nhiều điều kỳ diệu. Thế giới 2 chiều là một điều
kỳ diệu khác. Bài viết nói về graphene nhưng
thực chất là về bề mặt – một thế giới 2 chiều –
đúng như định nghĩa của nó. Chức năng thiên biến
vạn hóa của các bề mặt vĩ mô đã làm cho các nhà
khoa học ngỡ ngàng gần hai thế kỷ qua và đem đến
cho loài người những tiện ích đời thường. Tính
chất "yêu ma" của nó đã khiến Wolfgang Pauli
phải một lần thốt lên, "God made solids, but
surfaces were made by devils" (Thượng đế làm
ra khối rắn, nhưng bề mặt được tạo bởi yêu ma).
Cũng bề mặt "hồ ly" đó nhưng giờ đây được đem
vào thế giới vi mô đến độ nhỏ tận cùng của vật
chất thì nó trở nên vô cùng kỳ bí. Cuộc săn lùng
"mỏ vàng" nguyên sinh của vật liệu 2 chiều đang
trong cao trào rất sôi nổi dù đây chỉ mới là
giai đoạn mở đầu.
Trương Văn Tân
Xuân Melbourne,
Trung thu Việt
(September 2013,
sau 15 tháng)
Phụ lục
1. Sự di động của electron
Sự di động của electron, chẳng hạn trên mặt chất bán
dẫn, tuân theo định luật di chuyển Newton qua
công thức
E= ½ mv2 = p2/2m
(P1.1)
E là động năng, m
là khối lượng của electron, v là vận tốc
và p là động lượng.
Nhưng thực nghiệm cho thấy
động năng E của electron trên bề mặt
graphene tỉ lệ với động lượng p [13-14].
E = vp (P1.2)
Như vậy giữa động năng và
động lượng có liên hệ tuyến tính giống như một
kết luận trong thuyết tương đối của Einstein cho
hạt không khối lượng (như photon) di động ở vận
tốc ánh sáng. Phương trình P1.2 đưa đến kết luận
là electron hành xử giống như hạt không khối
lượng trên bề mặt graphene.
2. Độ di động
Khi điện trường được áp đặt lên một vật
liệu kim loại hay chất bán dẫn thì hạt tích điện
(electron hay lỗ tích điện dương) di chuyển bởi
sự lôi kéo của điện trường. Độ di động, µ,
định lượng sự nhanh chậm của hạt khi di động.
Vận tốc di động, v, gây ra bởi điện
trường của hạt tích điện được định nghĩa bằng
công thức,
v= µE (P2.1)
Độ di động là một lượng cần
thiết quyết định hiệu năng của transistor vì
công cụ này được thao tác dưới ảnh hưởng của
điện trường.
Sự thành hình của dải năng lượng và vùng
cấm
Ở thể rắn, các vân đạo nguyên tử liên kết, chồng chập
lên nhau ở mọi phương hướng để tạo nên vân đạo
phân tử. Trường hợp đơn giản nhất là hai nguyên
tử kết hợp với nhau cho hai vân đạo phân tử. Các
electron của hai nguyên tử bây giờ trở thành
electron của phân tử và các electron nầy chỉ
được phép ở những mức năng lượng nhất định. Cơ
học lượng tử giúp ta tính toán những giá trị của
mức năng lượng. Chất rắn được tạo thành do sự
kết hợp hằng hà sa số các nguyên tử. Thí dụ ta
có 1 cm3 chất rắn, người ta phỏng
tính 1 cm3 chất rắn được 1022
(22 số 0 sau số 1, hay là 10 ngàn tỷ tỷ) nguyên
tử tạo thành. Trong quá trình nầy, theo cơ học
lượng tử, những mực năng lượng điện tử sẽ được
thành hình và các electron sẽ chiếm cứ các mực
năng lượng nầy. Như vậy, ta có 1022
vân đạo phân tử và 1022 mức năng
lượng tương ứng được tạo thành. Các mức năng
lượng nầy chồng chập lên nhau theo thứ tự trị số
của chúng, trở thành dải được gọi là "dải năng
lượng điện tử". Dải ở năng lượng thấp gọi là dải
hóa trị (valence band) và dải ở năng lượng cao
hơn gọi là dải dẫn điện (conduction band) (Hình
6). Vì con số 1022 là một con số rất
lớn những mức năng lượng chồng chập nhau trông
giống như một dải liên tục. Như bề dày của một
quyển tự điển, từ xa nhìn thì trông như một khối
liên tục, nhìn gần thì mới thấy những trang giấy
rời rạc.

Hình P1: Dải
năng lượng điện tử: (a) kim loại, (b) chất bán
dẫn, (c) chất cách điện.
Dải đen tượng trưng cho dải hóa trị và dải trắng
cho dải dẫn điện.
Vùng cấm là khoảng cách giữa dải đen và
dải trắng.

Hình P2: Dải năng lượng điện tử
của graphene. Dải đen tượng trưng cho dải
hóa trị và dải trắng cho dải dẫn điện. Vùng
cấm không hiện hữu vì chỉ là nơi tiếp
giáp đỉnh của hai hình nón.
Sự thành hình dải năng lượng
của chất rắn có thể không liên tục, khi đó sẽ có
một khoảng trống xuất hiện, các electron không
được phép ở trong khoảng trống này nên được gọi
gọi là "vùng cấm" (energy band gap) (Hình P1).
Trị số năng lượng của vùng cấm được tính bằng
electron volt (eV). Vùng cấm quyết định sự dẫn
điện hay cách điện của chất rắn. Sự dẫn điện hay
không dẫn điện là do khả năng "nhảy mương" của
các electron. Nếu vùng cấm quá rộng electron của
chất rắn không thể nhảy từ miền năng lượng thấp
lên miền năng lượng cao, ta có vật cách điện.
Những vật liệu kết hợp bằng nối s như
polyethylene hay kim cương có vùng cấm lớn hơn 8
eV; cái "mương" quá rộng để electron có thể nhảy
qua trong điều kiện bình thường (nhiệt độ 22 °C,
áp suất 1 atm). Đây là những vật cách điện tuyệt
vời. Ngược lại, vùng cấm của kim loại là zero.
Vùng cấm zero có nghĩa dải hóa trị và dải dẫn
điện tiếp cận hoặc đan vào nhau. Nhờ đó các
electron không cần phải "nhảy mương" mà chỉ di
chuyển qua lại thoải mái, nên sự dẫn điện xảy ra
một cách tự nhiên. Ở giữa hai cực đoan nầy là
chất bán dẫn (thí dụ: silicon). Vùng cấm các
chất bán dẫn nằm trong khoảng 1 - 1,5 eV. Trong
điều kiện bình thường, một số các electron có
thể nhảy lên mức năng lượng cao hơn nhờ nhiệt
năng (thermal energy) chiếm cứ dải dẫn điện. Vì
vậy, hiện tượng bán dẫn xảy ra. (Bên trên là
trích đoạn từ quyển "Vật liệu tiên tiến: từ
polymer dẫn điện đến ống than nano", Trương
Văn Tân, 2008, nxb Trẻ tp HCM.)
Dải hóa trị và dải dẫn điện
của mạng lưới lục giác graphene theo sự tính
toán của Wallace [8] là hai hình nón chạm nhau ở
đỉnh (Hình P2). Như vậy graphene không có vùng
cấm.
4. Mật độ
Một lục giác (nhân benzene) của mặt phẳng graphene có 6
tam giác đều; mỗi tam giác có cạnh dài 0,142 nm
và chiều cao 0,123 nm. Vậy một lục giác có diện
tích là,
1/2 x 0,142 x 0,123 x 6 =
0,0524 nm2 = 5,24 x 10-20
m2

Trọng lượng nguyên tử của
carbon là 12 g/mol. Trong 1 mol có 6.023 x1023
nguyên tử. Như vậy một nguyên tử carbon có trọng
lượng là
12/(6.023 x 1023)
= 1,99 x 10-23 g = 1,99 x 10-20
mg
Trong mặt phẳng graphene, 2
nguyên tử carbon sở hữu 1 hình lục giác.Như vậy
mật độ của graphene một lớp (có độ dày một
nguyên tử) là
(2 x1,99 x 10-20)/5,24
x 10-20 m2 = 0,76 mg/m2
và 1 gram của một lớp
graphene có diện tích là
1.000/0,76 = 1.315 m2
Một lớp graphene có 2 mặt cho
nên
1.315 m2 x 2 =
2.630 m2
Ống than nano chỉ có 1 mặt
nên có diện tích là 1.315 m2.
5. Độ bền
Độ dày của một lớp graphene là đường kính của nguyên tử
carbon (0,335 nm). Do đó, độ bền 42 N/m trở
thành
42/(0,335 x 10-9
m) = 125 x 109 N/m2 = 125
GPa
Tương tư, độ cứng 342 N/m trở
thành,
342/(0,335 x 10-9
m) = 1.020 x 109 N/m2 =
1.020 GPa.
6. Quy luật hỗn hợp
Nếu ta dùng quy luật hỗn hợp (rule of mixture) ta có
thể tính được một cách khái quát cơ tính của
compsite từ các thành phần cấu tạo,
Xc
= X1v1
+ X2v2
(P6.1)
X: cơ tính, c:
composite giữa vật liệu 1 và 2, v1,
v2: lượng (thể tích hay
trọng lượng) của thành phần cấu tạo 1 và 2.
Trong một composite giữa PMMA
(thành phần 1) và 1 % graphene (thành phần 2) ta
có thể tính độ bền và môđun Young của composite
dùng những con số trong Bảng 2.
7. Độ lớn cuả một tụ điện
Ta thử làm một con tính khi ta nạp điện cho một tụ điện
từ một cục pin gia dụng AA (1,5 V). Cục pin AA
có thể tạo một giòng điện có cường độ 2,8 A
trong 1 giờ. Ta có những công thức cơ bản như
sau,
Q = It (P7.1)
Q (Coulomb): điện
lượng, I (Ampere): cường độ dòng điện,
t (giây): thời gian.
Ngoài ra,
C = Q/V (P7.2)
V (Volt): điện áp của
nguồn điện.
Sau khi được nạp điện từ cục
pin AA trong thời gian 1 giờ (3.600 giây), tụ
điện sẽ có điện dung là,
C = (2,8 x 3.600)/1,5
= 6.720 Farad (P7.3)
Một tụ điện thông thường mang
dung lượng 1 Farah có kích thước từ một hộp sữa
đến một chai rượu. Để có C = 6.720 Farah, kích
cỡ tụ điện phải vài ngàn lần to hơn!
Tài liệu tham khảo và ghi chú
-
A. K. Geim and K. S.
Novoselov, Nature Mater. 6
(2007) 183.
-
D. R. Kauffman and A.
Star, Analyst 135 (2010) 2790.
K. S. Novoselov,
A. K. Geim,
S. V. Morozov,
D. Jiang,
Y. Zhang,
S. V. Dubonos,
I. V. Grigorieva
and
A. A. Firsov,
Science 306 (2004) 666.
R. E. Peierls, Helv.
Phys. Acta. 7 (1934) 83.
L. D. Landau, Phys. Z.
Sowjetunion 11 (1937) 26.
N. D. Mermin, Phys.
Rev. 176 (1968) 250.
J. C. Meyer, A. K. Geim,
M. I. Katsnelson, K. S. Novoselov, T. J.
Booth and S. Roth, Nature 446
(2007) 60.
P. R. Wallace, Phys.
Rev. 71 (1947) 622.
A. K. Geim, "Random
walk to graphene" (Bước ngẫu nhiên tìm
đến graphene), Nobel Lecture, 8 Dec.
2010 (nguồn: Google).
Độc giả có thể vào
Youtube đánh từ khóa "making graphene" thì
sẽ nhìn được cách thức tách lớp graphne từ
than chì và quan sát dưới kính hiển vi.
P. Blake, E. W. Hill, A.
H. Castro Neto, K. S. Novoselov, D. Jiang,
R. Yang, T. J. Booth and A. K. Geim,
Appl. Phys. Lett. 91 (2007)
063124.
A. K. Geim and K. S.
Novoselov, Nature Mater. 6
(2007) 183.
K. S. Novolselov et al,
Nature 438 (2005) 197.
Y. Zhang, Y.-W. Tan, H.
L. Stormer and P. Kim, Nature 438
(2005) 201.
Trương Văn Tân,
"Transistor: Nhân tố của một cuộc cách mạng
1&2", Diễn Đàn Forum,
www.diendan.org
Wikipedia, từ khóa
"Mitsutaka Fujita" và "Graphene nanoribbons"
F. Schwierz, Nature
Nanotechnology 5 (2010) 487.
L. Liao and X. Duan,
Materials Today 15 (July-August
2012) 328.
K. S. Novoselov, V. I.
Fal′ko, L. Colombo, P. R. Gellert, M. G.
Schwab and K. Kim, Nature 490
(2012) 192.
J. E. Gordon, "The new
science of strong materials", Princeton
University Press, 2nd ed. 1976, New Jersey.
C. Lee, X. Wei, J. W.
Kysar and J. Hone, Science 321
(2008) 385.
T. Ramanathan et al,
Nature Nanotechnology, 3 (2008)
327.
M. Zhang, K. R. Atkinson
and R. H. Baughman, Science, 306
(2004) 1358.
M. Cheng, W.Chen and T.
Weerasooriya, J. Eng. Mater. Technol.
127 (2005) 197.
D. Porter, J. Guan and F.
Vollrath, Adv.Mater., 25
(2013) 1275.
C.-D. Tran, W. Humphries,
S. Smith, C. Huynh and S. Lucas, Carbon
47 (2009) 2662.
A. B. Dalton, S. Collins,
J. Razal, E. Munoz, V. H. Ebron, B. G. Kim,
J. N. Coleman, J. P. Ferraris, and R. H.
Baughman, J. Mater. Chem. 14 (2004)
1.
A. B. Dalton, S. Collins,
E. Muñoz, J. M. Razal, V. H. Ebron, J. P.
Ferraris, J. N. Coleman, B. G. Kim and R. H.
Baughman, Nature 423 (2003)
703.
X. Zhao, Q. Zhang, D.
Chen and P. Lu, Macromolecules 43
(2010) 2357.
M. K. Shin, B. Lee, S. H.
Kim, J. A. Lee, G. M. Spinks, S. Gambhir, G.
G. Wallace, M. E. Kozlov, R. H. Baughman,
and S. J. Kim, Nature Comm. 3
(2012) 650.
H. Chen, M. B. Müller, K.
J. Gilmore, G. G. Wallace and D. Li, Adv.
Mater. 20 (2008) 3557.
Z. Xu, H. Sun, Z. Zhao,
C. Gao, Adv. Mater. 25 (2013)
188.
R. Van Noorden, Nature
469 (2011)14.
M. D. Stoller, S. Park,
Y. Zhu, J. An and R. S. Ruoff, Nano Lett.
8 (2008) 3498.
F. Schedin, A. K. Geim,
S. V. Morozov, E. W. Hill, P. Blake, M. I.
Katsnelson and K. S. Novoselov, Nature
Materials 61 (2007) 652.
"Graphene Foam Detects
Explosives, Emissions Better Than Today's
Gas Sensors", Science Daily (2011)
www.sciencedaily.com.
V.-T. Truong, P. J.
McMahon and A. R. Wilson, J. Polym. Sci.
Part B: Polym. Phys., 50 (2012)
624.
P. Avouris and F. Xia,
MRS Bulletin 27 (December 2012)
1225.
"Making graphene pay
today", Physics Word (June
2013) 9.
R. Van Noorden, "Beyond
sticky tape", Nature Outlook 483
(15 March 2012) S32.
D. Li, M. B. Müller, S.
Gilje, R. B. Kaner and G. G. Wallace,
Nature Nanotechnology 3 (2008)
101.
A. C. Jachak, M.
Creighton, Y. Qiu, A. B. Kane and R. H.
Hurt, MRS Bulletin 37
(December 2012) 1307.
"20 things you can do
with graphene", Physics World Focus on
Nanotechnology (June 2012) 11.
E. S. Reich, Nature
497 (2013) 422.
A. K. Geim and I.
Grigorieva, Nature 499 (2013)
419.
| |