Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
(Vua Tự Đức?)
Không biết vua Tự Đức có phải là tác giả
của hai câu thơ đối nhau rất chỉnh nầy hay
không, nhưng nó toát lên một niềm man mác,
bùi ngùi trước sự ra đi vĩnh viễn của một
người phi rất được nhà vua sủng ái. Hai câu
thơ dù ngắn nhưng tràn ngập sự lãng mạn, dạt
dào thương tiếc mà mãi đến hơn 100 năm sau
người ta mới có thể tìm lại được trong những
vần thơ tình "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan.
Hãy để sự lãng mạn vào một không gian an
bình ấm áp có những bàn tay thi văn ve vuốt,
ta thử đặt "cổ kính" và "bóng hình" trong
cách nhìn lạnh lùng của khoa học. Lòng
thương nhớ biểu hiện bằng sự tưởng tượng của
nhà vua trở thành một thử thách khoa học
đáng suy ngẫm cho những kẻ hậu sinh, là có
thật sự trong gương hiện ra hình bóng người
yêu và có cần phải đập vỡ gương để tìm lấy
bóng? Khoa học hiện đại có câu trả lời rất
dứt khoát.
Cửa sổ "thông minh" và kính "thông minh",
những cụm từ nghe lạ tai nhưng gợi lên không
ít sự tò mò. Đây là loại cửa sổ lồng kính
thủy tinh có thể biến đổi màu sắc gây bởi
kích thích điện, quang, hay nhiệt. Một thí
dụ là sự đổi màu của thủy tinh thường thấy ở
các loại kính râm đeo mắt. Loại thủy tinh
nầy được gọi là thủy tinh có sự đổi màu
quang học (photochromism). Khi chế tạo người
ta cho vào thủy tinh những tinh thể chloride
bạc (silver chloride). Tinh thể nầy có khả
năng hấp thụ tia tử ngoại (UV, ultraviolet)
trong ánh sáng mặt trời làm đen kính khi ra
nắng. Khi vào nhà, nguồn tử ngoại không còn
kính trong suốt trở lại. Sự đổi màu của kính
râm là một áp dụng dựa trên một nguyên lý
đơn giản và nhờ vậy rất thông dụng.
Cửa sổ "thông minh" có mục đích làm giảm
năng lượng tiêu dùng trong nhà. Kính cửa sổ
có thể làm sẫm lại cho mùa hè để ngăn chận
ánh sáng gay gắt của mặt trời. Kính sẽ được
làm trong lại vào mùa đông để ánh sáng lọt
vào tăng thêm sự ấm áp. Vì khả năng giảm
thiểu năng lượng tiêu dùng rất cao (20 - 30
% vào mùa hè), nhu cầu cửa sổ "thông minh"
cho các tòa nhà càng ngày càng gia tăng. Tuy
nhiên, loại kính đổi màu dùng cho kính râm
không thích hợp cho ứng dụng nầy. Sự đổi màu
của kính cần phải được điều chỉnh khi cần
thiết bởi người dùng bằng cách thay đổi điện
áp của một nguồn điện được gắn vào kính.
Khái niệm "đổi màu điện học"
(electrochromism) ra đời. Vật liệu chính cho
ứng dụng nầy là các loại oxide của các kim
loại chuyển tiếp (transition metals) trong
bảng phân loại tuần hoàn mà điển hình là
oxide của tungsten (ký hiệu hóa học: W).
Oxide kim loại là những hợp chất vô cơ.
Tungsten oxide, WO3, đã được khảo sát hơn 30
năm nay cho cửa sổ "thông minh". Một lớp
mỏng WO3 được phủ lên kính thủy tinh bằng
phương pháp bốc hơi chân không (vacuum
evaporation) hay mạ phun (sputtering). Ngoài
ra, những vật liệu hữu cơ như bypyridiums
(vilogens) cũng cho đặc tính đổi màu điện
học. Công ty Pilkington (Anh), một hãng sản
xuất thủy tinh lớn nhất thế giới, đã tung ra
thị trường cửa sổ "thông minh" dùng cho các
tòa nhà vào năm 1998. Tuy nhiên, các loại
cửa sổ nầy sử dụng oxide của kim loại chuyển
tiếp (thí dụ: WO3) vẫn chưa đạt tiêu chuẩn
và giá thành còn quá cao.
Cửa sổ "thông minh" là áp dụng dựa vào sự
truyền xạ ánh sáng (light transmission).
Ngoài ra, kính "thông minh" cũng có một áp
dụng thú vị dựa trên căn bản phản xạ ánh
sáng (light reflection), được dùng làm kính
chiếu hậu cho những chiếc xe hơi sang trọng.
Khi ánh sáng đèn pha của xe sau chiếu vào
kính, kính sẽ tự động sẫm màu giảm thiểu ánh
sáng làm chói mắt. Nguyên tắc cũng tương tự
như các loại kính râm, nhưng các loại kính
râm chỉ phản ứng với tia tử ngoại trong ánh
sáng mặt trời, kính chiếu hậu "thông minh"
cảm nhạy trong vùng ánh sáng thấy được.
Polymer dẫn điện (polymer có nối liên hợp)
là vật liệu thứ ba có đặc tính đổi màu điện
học. Áp dụng các loại polymer dẫn điện vào
lĩnh vực nầy trở nên rất phổ cập, nhờ quá
trình chế tạo đơn giản, thời gian ứng đáp
đổi màu ngắn và tương phản màu sắc tốt.
Tương tự như trong ứng dụng phát quang,
polymer dẫn điện có một ưu thế là có thể
thay đổi cấu trúc phân tử để hiển thị những
màu sắc khác nhau.
I/ Nguyên tắc của sự điều chỉnh màu sắc
Cửa sổ đổi màu điện học thật ra là một
bình điện giải có tiết diện rất to nhưng rất
mỏng. Bình điện giải có hai cực và chất điện
giải (Hình 1). Để làm cửa sổ "thông minh"
bình điện giải đổi màu nhưng phải trong suốt
để ánh sáng truyền qua. Ngược lại, kính
chiếu hậu "thông minh" chỉ cần một điện cực
trong suốt để tiếp nhận ánh sáng, điện cực
kia sẽ phản xạ ánh sáng. Tương tự như trong
cấu trúc của đèn phát quang (OLED, PLED),
oxide dẫn điện có tính bền cao như
idium-tin-oxide (ITO) thường được dùng để
phủ với một lớp thật mỏng (~ 100 nm) lên nền
thủy tinh để làm điện cực trong suốt [1].
Sau đó, một lớp mỏng của vật liệu đổi màu
được phủ lên lớp ITO (Hình 1). Chất điện
giải phải chứa hợp chất hóa học để có thể
đổi sang màu thích hợp. Nếu dùng WO3 làm vật
liệu đổi màu và dung dịch lithium
perchlorate (LiClO4) làm chất điện giải, ở
dạng nguyên thể WO3 sẽ trong suốt. Khi cho
một dòng điện chạy vào bình điện giải (WO3
nhận điện tử e-), WO3 sẽ kết hợp với Li theo
công thức
WO3 (trong suốt không màu) + xLi + xe-
« LixWO3 (màu
xanh)
Phản ứng điện hóa nầy biến lớp phủ WO3 trở
thành LixWO3 có màu xanh nhạt. Khi dòng điện
đổi chiều, phản ứng đi ngược lại, từ phải
sang trái, LixWO3 trở thành WO3 trong suốt
không nhuốm màu. Hình 1 cho thấy cấu trúc
của một cửa sổ "thông minh".

Hình 1: Cấu trúc của một cửa sổ
"thông minh"
II/
Sự chuyển hoán cấu trúc phân tử trong
polymer dẫn điện
Polymer dẫn điện đã được các nhà khoa học
lưu ý tới trong các ứng dụng liên quan đến
màu sắc. Ngoài ứng dụng cho sự phát quang đã
được đề cập trong một
bài viết trước
[1], sự
đổi màu điện học là một ứng dụng thứ hai.
Polymer còn gọi là plastic, nhựa hay chất
dẻo. Polymer do các đơn vị phân tử (monomer,
momo = đơn, poly = đa) tạo thành như một
"chuỗi xích". Nếu monomer là ethylene, ta có
polyethylene; là vinyl chloride, ta có
poly(vinyl chloride) v.v...Nếu gọi M là
monomer, polymer tương ứng sẽ là,
...MMMMMMMMMMMMMMM...., trong đó có hàng
nghìn hoặc hàng chục nghìn M nối thành chuỗi
xích.
Polymer gia dụng thông thường như cao su,
PVC, nylon, polyethylene là vật cách điện.
Polymer dẫn điện (electrically conducting
polymer) là một polymer có mạch carbon nối
liên hợp, một loại liên kết giữa nối đơn và
nối đôi (- C = C - C = C - ), và kết hợp với
ion (ion âm, anion hoặc ion dương, cation).
Polymer dẫn điện đã được mô tả chi tiết
trong một
bài viết trước [2]. Sự kết hợp
với ion được gọi là "doping" và ion kết hợp
là "dopant". Nối liên hợp và dopant là hai
yếu tố cần thiết để có một polymer dẫn điện.
Nếu dopant là một anion, A-, sự kết hợp của
A- với polymer được diễn tả một cách dễ hiểu
như sau,
......MMMMMMMMMMM..... (dạng 1) + A-
«
...MMM+A-MMMM+A-MMMM+A-MMM.... (dạng 2)
Dạng 1 là vật liệu trung tính cách điện,
dạng 2 là vật liệu dẫn điện. Độ dẫn diện
càng tăng khi sự hiện hữu của A- trong mạch
polymer càng nhiều. Nói một cách định lượng
chính xác, sự khác nhau của độ dẫn điện giữa
dạng 1 và 2 là 1 tỷ đến 10 tỷ lần. Dạng 2 ở
dạng phim, có thể được tổng hợp dễ dàng qua
phương pháp điện hóa (electrochemical
method) bằng cách cho hai điện cực vào một
dung dịch chứa M và A-. Khi đặt điện áp vào
hai điện cực, ta sẽ có polymer dẫn điện
(dạng 2) phủ lên điện cực dưới dạng một lớp
phim mỏng. Dạng 2 có thể chuyển sang dạng 1
bằng cách đổi chiều dòng điện (điện áp dương
chuyển thành âm). Lúc đó, dạng 2 "nhả"
(de-doping) dopant A- để trở thành dạng 1
cách điện. Điện cực có lớp phủ polymer được
dùng cho sự đổi màu điện học. Ngoài sự biến
đổi độ dẫn điện của phim do sự chuyển hoán
thuận nghịch giữa dạng 1 và 2
(doping/de-doping) ta còn thấy sự biến đổi
màu sắc. Điều tiện lợi cho những trang cụ
đổi màu là có điện áp thao tác rất thấp;
thông thường sự chuyển hoán xảy ra qua lại
từ 2 V đến -2 V.
III/ Đổi màu do polymer dẫn điện
Nếu so sánh Bảng 1 và Bảng 2, khe dải
năng lượng của những polymer dẫn diện (dạng
1) gần gũi một cách không ngờ với năng lượng
sóng của ánh sáng thấy được, tia cận hồng
ngoại (near infrared) và tia tử ngoại (UV).
Vì vậy, sự phát quang và đổi màu điện học
trong polymer dẫn điện có một điểm chung là
khe dải năng lượng (energy band gap) chi
phối cơ chế của hai hiện tượng nầy.
Bảng 1: Trị số khe dải của các polymer mang
nối liên hợp tiêu biểu (trước khi doping).
Polymer |
Khe dải (eV) |
Polyacetylene (PA) |
1,4 |
Poly(3,4-ethylenedioxythiophene)
(PEDOT) |
1,5 |
Polythiophene (PT) |
2,0 |
Poly(phenylene vinylene) (PPV) |
2,5 |
Polyaniline (PAn) |
3,2 |
Poly(para-phenylene) (PPP) |
3,5 |
Polypyrrole (PPy) |
3,6 |
Bảng 2: Độ dài sóng và năng lượng sóng.
Ánh sáng |
Độ dài sóng (nm) |
Năng lượng sóng (eV) |
Tia tử ngoại |
ngắn hơn 380 |
lớn hơn 3,3 |
Tím |
380 |
3,3 |
Xanh |
450 |
2,8 |
Xanh lá cây |
530 |
2,3 |
Vàng |
580 |
2,1 |
Đỏ |
720 |
1,7 |
Tia hồng ngoại |
dài hơn 720 |
nhỏ hơn 1,7 |
Polyaniline (PAn), polypyrrole (PPy)
và polythiophene (PT) là ba loại polymer dẫn
điện được khảo sát nhiều nhất. Sự đổi
màu của các polymer nầy do sự biến đổi điện
áp đã đặt nền tảng cho phát triển của
những polymer với cấu trúc phức tạp hơn
(Bảng 3).
Bảng 3: Sự đổi màu của các polymer dẫn
điện gây ra bởi điện áp âm/dương.
Vật liệu |
Điện áp âm |
Điện áp dương |
Polyaniline (PAn) |
không màu |
xanh lá cây
®
xanh đậm |
Polypyrrole (PPy) |
vàng nhạt |
xanh đậm
®
đen |
Polythiophene (PT) |
đỏ nhạt |
xanh đậm |
Sự chuyển hoán thuận nghịch giữa dạng 1 và
dạng 2 được thực hiện dễ dàng qua cái bật
điện để thay đổi chiều dòng điện, nhưng nó
lại là cả một hiện tượng vật lý cần phải
được giải thích tỉ mỉ. Khe dải năng lượng,
một đặc tính của chất rắn, là một khoảng
trống giữa hai dải năng lượng, dải hóa trị
(valence band) và dải dẫn điện (conduction
band). Khe dải liên quan đến sự dẫn điện,
cách điện và phát quang đã được giải thích
trong một bài viết trước [1]. Khi khe dải
rộng (> 2 eV) ta có chất cách điện (thí dụ:
gốm sứ, kim cương, plastic thông thường),
khe dải hẹp (0 - 1,5 eV) ta có chất bán dẫn
hay dẫn điện (thí dụ: silicon, kim loại).
Polymer ở dạng 1 cơ bản là chất cách điện vì
khe dải khá rộng (~ 2 eV) (Bảng 1). Qua quá
trình doping, dạng 1 chuyển sang dạng 2, các
dải năng lượng phụ được thành hình trong khe
dải, tồn tại như bậc thang giúp hạt các hạt
tải điện (charge carrier) di chuyến từ dải
hóa trị đến dải dẫn điện ở bậc cao hơn mà
không phải tốn nhiều công sức. Sự dẫn điện
xảy ra. Hình 2 cho thấy sự thành hình dần
dần của các dải năng lượng phụ khi nồng độ
dopant A- được kết hợp vào mạch polymer càng
cao.

Hình 2: Sự thành hình của các dải
năng lượng phụ do sự kết hợp của dopant vào
mạch polymer (từ trái sang phải). Sự biến
mất của các dải năng lượng phụ do sự tách
rời dopant ra khỏi mạch polymer (từ phải
sang trái).CB: conduction band, dải dẫn
điện; VB: valence band, dải hóa trị.
Khi cho mẫu polymer vào quang phổ kế, khe
dải sẽ được "nhận diện". Quang phổ cho thấy
một đỉnh hấp thụ tương ứng với trị số năng
lượng của khe dải. Sự xuất hiện của các dải
năng lượng phụ sẽ tạo ra những khe dải phụ.
Quang phổ sẽ cho thấy những đỉnh hấp thụ
khác tương ứng với các khe dải phụ càng lúc
càng hiện rõ, khi càng nhiều A- được kết hợp
vào mạch polymer (Hình 3). Khi một vật hấp
thụ một màu trong ánh sáng thấy được thì vật
đó sẽ hiển thị các màu còn lại. Một vật có
màu xanh vì vật đó hấp thụ màu đỏ/vàng và
ngược lại. Khe dải phụ có trị số năng lượng
thấp, nên sự hấp thụ ánh sáng xê dịch về
vùng ánh sáng đỏ hay hồng ngoại, vật liệu sẽ
hiển thị màu xanh.

Hình 3: Sự thay đổi đường cong hấp
thụ ánh sáng của PT với nồng độ (%) của
dopant được kết hợp vào mạch polymer [3].
Một thí dụ điển hình của sự đổi màu điện học
là polythiophene (PT). Trong một dung dịch
chứa dopant thích hợp, PT đổi màu từ xanh
sang đỏ và ngược lại. Khi ở dạng trung tính
(dạng 1, 0 % dopant), khe dải của PT có trị
số khoảng 2,7 eV tương đương với năng lượng
ánh sáng xanh (Hình 3). PT hấp thụ ánh sáng
xanh, như vậy PT hiển thị màu đỏ. Khi có
điện áp dương, PT chuyển sang dạng 2 (6 - 41
% dopant) hấp thụ vùng ánh sáng đỏ/vàng (1,7
eV) và vùng hồng ngoại (0,8 -1 eV), hiển thị
màu xanh.
Nhóm nghiên cứu của giáo sư John Reynolds
(University of Florida, Mỹ) đặt trọng tâm
vào poly(3,4-ethylenedioxythiophene)
(PEDOT). PEDOT đặc biệt có khe dải năng
lượng nhỏ, 1,5 eV (Bảng 1), cho nên khi ở
dạng trung tính (dạng 1) PEDOT hấp thụ vùng
màu đỏ, hiển thị màu xanh đậm. Dưới điện áp
dương, dạng 1 chuyển thành dạng 2, PEDOT hấp
thụ ánh sáng đỏ và tia cận hồng ngoại, trở
nên màu xanh nhạt (Hình 4). Đối với sự thay
đổi điện áp, PEDOT có độ nhạy đổi màu rất
cao. Ngoài ra, polymer nầy có tuổi thọ dài
(100.000 lần chuyển hoán), tính bền nhiệt
(thermal stability) cao, màu xanh dễ chịu,
nên là một ứng viên sáng giá cho những ứng
dụng thực tiễn. Nhóm Reynolds còn tổng hợp
hàng loạt các chất dẫn xuất khác của PT và
PPy được thiết kế có những khe dải năng
lượng khác nhau, hiển thị những màu sắc khác
nhau (Hình 5). Sự chọn lựa dopant và dung
môi cho chất điện giải cũng rất quan trọng
cho độ nhạy của sự đổi màu.

Hình 4: Cửa sổ thông minh dùng PEDOT.
Dạng 1: xanh đậm, dạng 2: xanh nhạt. (a)
Kích thước cửa 10 x 10 cm; (b) 30 x 30 cm
[4].

Hình 5: Sự đổi màu do điện áp của
PEDOT và các polymer dẫn xuất. D: trạng thái
doped (dạng 2); I: trạng thái trung gian và
N: trạng thái trung tính/de-doped (dạng 1)
[5].
IV/ Vật liệu "tàng hình" hút nhiệt
Sự thành hình của các khe dải phụ có trị
số nhỏ hơn 1,7 eV trong quá trình doping cho
polymer khả năng hấp thụ vùng ánh sáng đỏ và
tia hồng ngoại (Bảng 2). Sự đổi màu bây giờ
có một nghĩa rộng, vì "màu" bây giờ là hồng
ngoại. Sự hiển thị màu trong những vùng sóng
điện từ nầy không còn quan trọng nữa vì thật
ra không có màu để thay đổi; việc nghiên cứu
được đặt nặng vào sự hấp thụ sóng. Tia hồng
ngoại chẳng qua là nhiệt có độ dài sóng trải
dài từ 0,8 µm (cận hồng ngoại, near
infrared) đến 18 µm (viễn hồng ngoại, far
infrared). Vật càng nóng thì tia hồng ngoại
phát từ vật đó càng ngắn (định luật Planck
về thể đen). Con người phát ra tia hồng
ngoại có độ dài sóng ở khoảng 8 - 12 µm, một
trong những vùng hồng ngoại được đặc biệt
chú ý.
Nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Prasanna
Chandrasekhar (công ty Ashwin-Ushas, Mỹ) tập
trung sự nghiên cứu vào các vật liệu polymer
dẫn điện có khả năng hấp thụ tia hồng ngoại.
Đây là vật liệu "tàng hình" hút nhiệt. Những
vật liệu nầy có tiềm năng lớn trong các áp
dụng quân sự nhằm "che mắt" các bộ cảm nhận
(sensor/detector) hồng ngoại hoặc máy ảnh,
ống nhòm có trang bị bộ cảm nhận hồng ngoại.
Các loại dụng cụ nầy dễ dàng phát hiện những
kẻ thích lẩn lút trong bụi rậm về đêm thực
hiện hành vi "mờ ám", hay xác định vị trí
máy bay, tàu thủy nhờ nguồn nhiệt phát ra từ
buồng máy hay do sự cọ xát với không khí ở
đầu, rìa cánh và đuôi máy bay. Vật liệu hấp
thụ hồng ngoại sẽ "hóa giải" những con mắt
thần nhìn xuyên màn đêm, nhất là các loại
tên lửa dùng bộ cảm nhận hồng ngoại tìm
nhiệt (IR-homing missile) để lùng và tiêu
diệt mục tiêu. Trong lĩnh vực áp dụng dân
sự, lớp phủ nầy sẽ chắn nhiệt trong ánh sáng
mặt trời nhưng cho ánh sáng đi vào nhà ở
những ngày hè nóng bức. Một khả năng áp dụng
khác là dùng để điều hòa nhiệt độ trong các
vệ tinh nhân tạo. Trong không gian, sự
truyền nhiệt khó xảy ra vì không có không
khí, vì vậy những bộ phận của vệ tinh hướng
về mặt trời sẽ rất nóng và nơi khuất nắng sẽ
rất lạnh. Vật liệu polymer hấp thụ nhiệt có
thể thay thế những công cụ hoặc cấu trúc
cồng kềnh điều chỉnh nhiệt độ trên vệ tinh.
Chandrasekhar và cộng sự đặc biệt chú ý đến
tia hồng ngoại có độ dài sóng 3 – 5 µm và 8
- 12 µm vì đây là những vùng thao tác của bộ
cảm nhận liên quan đến nhiệt thoát ra từ con
người và máy móc. Gần đây, nhóm nghiên cứu
nầy còn tiến thêm một bước là chế tạo ra một
vật liệu hấp thụ 95 % tia hồng ngoại có độ
dài sóng trải dài từ 1 đến 20 µm [6]. Thông
thường, người ta chỉ có thể chế tạo những
vật liệu hấp thụ tia hồng ngoại ở những độ
dài sóng (hay tần số) đơn lẻ. Vì vậy, có thể
gọi đây là một vật liệu "tàng hình" tầm cỡ
mang tính đột phá có khả năng hấp thụ nhiệt
trên một băng tần dải rộng (broadband). Vật
liệu nầy là PAn được doped với
poly(anethosulfate) (dạng 2) [6]. Điều nầy
cho thấy sự chọn lựa một dopant thích hợp
cũng rất quan trọng trong việc điều chỉnh
khe dải thích hợp cho vùng sóng cần được hấp
thụ.
Chandrasekhar còn có tham vọng dùng nguyên
tắc "đổi màu" áp dụng vào vùng vi ba
(microwave). Theo ý kiến của người viết bài
nầy thì sự hấp thụ vi ba không bị sự chi
phối của khe dải năng lượng - một biến số vi
mô, chỉ thích hợp cho độ dài sóng nanomét
(nm) và micromét (μm) của vùng ánh sáng thấy
được hay tia hồng ngoại. Vi ba là sóng điện
từ có độ dài sóng ở mm và cm, cơ bản là sóng
radar, kế cận vùng hồng ngoại. Sự hấp thụ vi
ba tùy thuộc những đặc tính vĩ mô của vật
liệu như điện tính biểu hiện bằng hằng số
điện môi (dielectric constant) và từ tính
biểu hiện bằng độ từ thẩm (permeability). Sự
hấp thụ radar bởi polymer dẫn điện và nguyên
tắc "tàng hình" đã được đề cập trong một bài
viết trước [7].
V/ Tơ sợi "thông minh"
Lợi dụng sự đổi màu điện học, các nhà
khoa học đang đối đầu với một thử thách mới
là chế tạo ra một loại tơ sợi "thông minh",
làm ra vải vóc có thể biến đổi màu sắc hòa
nhập vào môi trường xung quanh để ngụy
trang. Nếu ta hành sự trong bóng tối áo trở
thành đen, khi ta chui vào bụi áo sẽ rằn ri
và khi lang thang trên sa mạc áo sẽ nhạt
màu. Đây là hiệu ứng con cắc kè hoa
(chameleon effect). Nhà thơ Nguyên Sa đã
từng trồng cây si vĩ đại trước một đối tượng
thích thay màu áo, làm nhà thơ phải thốt lên
những vần thơ tình lãng mạn đủ mọi sắc màu,
"Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc. Áo nàng
xanh anh mến lá sân trường"... Nếu cô nàng
đỏng đảnh mặc áo làm bằng vải "thông minh",
bỏ vài cục pin vào túi cứ vài phút lại bật
điện thay màu áo xanh vàng đỏ tím, nhà thơ
sẽ ngẩn ngơ trước sự tiến bộ khoa học, hay
lại vơ vẩn đem lòng mến thương con cắc kè
hoa....?!
***
Khe dải năng lượng là một khái niệm cơ bản
đưa đến hai ứng dụng chính là sự phát quang
và sự đổi màu. Hai ứng dụng cho thấy một
điểm chung là muốn thay đổi màu sắc thì phải
điều chỉnh trị số của khe dải năng lượng.
Việc nầy thực hiện bằng cách tổng hợp các
loại polymer dẫn điện mang nối liên hợp với
một khe dải có trị số định trước. Ngoài ra,
sự đổi màu còn được quyết định bởi việc xuất
hiện và biến mất của các khe dải phụ do sự
chuyển hoán giữa doping/de-doping. Từ cửa sổ
và kính "thông minh" đến vật liệu "tàng
hình" hút nhiệt và các loại tơ sợi biết "đổi
màu" để ngụy trang hay để làm dáng, hiện
tượng đổi màu điện học cho thấy nhiều áp
dụng thú vị. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại
thị trường cho áp dụng "đổi màu" còn rất
khiêm tốn và cục bộ so với thị trường đèn
phát quang, một lĩnh vực công nghệ đang phát
triển rất nhanh mà các nhà kinh tế dự đoán
doanh thu có thể đạt đến hàng trăm tỷ USD
vài trong thập niên tới.
Hãy trở lại với cổ kính của vua Tự Đức. Với
nguyên tắc đổi màu hiện có và kỹ thuật tạo
hoa văn, hình ảnh người xưa của quân vương
sẽ dễ dàng được phủ lên kính "thông minh",
lúc ẩn lúc hiện, cùng nhoẻn miệng cười với
vua mà không cần phải vùi dập tấm gương! Nhà
vua chắc chắn sẽ rất đẹp lòng. Nhưng nếu có
một đòi hỏi cao hơn là nàng phải bước ra như
Giáng Kiều trong tranh, thì có lẽ ta phải
cần đến một công nghệ "phản tàng hình" và
tài năng của một nhà ảo thuật...
TVT
Mùa Đông Nam bán cầu
23 June 2007
VI/ Tài Liệu Tham Khảo
-
http://vietsciences.free.fr/inventions/denphatquang.htm
http://vietsciences.free.fr/inventions/polymercachdienvapolymerdandien.htm
Yoshino Katsumi, "Dodensei Kobunshi no Hanashi" (tiếng Nhật) (Câu
chuyện về cao phân tử dẫn điện), 2001, Nikkan Kogyo Shimbun Pub., Tokyo.
H.
W. Heuer, R. Wehrmann and S. Kirchmeyer, Adv. Func. Mater. 12
(2002) 89.
B.
C. Thompson, P. Schottland, K. Zong and J. R. Reynolds, Chem. Mater.
12 (2000) 557.
P. Chandrasakhar, B. J. Zay, G. C. Birur, S.
Rawal, E. A. Pierson, L. Kauder and T. Swanson, Adv. Func. Mater.
12 (2002) 95.
http://vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/thanhtuukhoahoc/kythuattanghinh.htm
|