Những bài cùng tác giả
1. Mở đầu
Vật liệu nano đang đi sâu vào đời sống hiện đại và đang dần dần
chiếm một ý nghĩa rất lớn đối với đời sống của con người nhờ vào
các tính chất rất đặc biệt của chúng mà các vật liệu truyền
thống trước đó không có được. Tính đặc biệt của vật liệu nano có
được là nhờ kích thước nhỏ bé của chúng.
Bất cứ vật liệu nào đều có sự hưởng ứng với từ trường ngoài (H),
thể hiện bằng độ từ hóa (từ độ - M). Tỷ số c = M/H được gọi là
độ cảm từ. Tùy thuộc vào giá trị, độ cảm từ có thể phân ra làm
các loại vật liệu từ khác nhau. Vật liệu có c <> 0 (~10-6) được
gọi là vật liệu thuận từ. Vật liệu có c > 0 với giá trị rất lớn
có thể là vật liệu sắt từ, ferri từ. Ở đây, vật liệu từ tính ngụ
ý là vật liệu sắt từ, ferri từ hoặc siêu thuận từ. Ngoài độ cảm
từ, một số thống số khác cũng rất quan trọng trong việc xác định
tính chất của vật liệu, ví dụ như: từ độ bão hòa Ms (từ độ đạt
cực đại tại từ trường lớn), từ dư Mr (từ độ còn dư sau khi ngừng
tác động của từ trường ngoài), lực kháng từ Hc (từ trường ngoài
cần thiết để một hệ, sau khi đạt trạng thái bão hòa từ, bị khử
từ). Nếu kích thước của hạt giảm đến một giá trị nào đó (thông
thường từ vài cho đến vài chục nano mét), phụ thuộc vào từng vật
liệu cụ thể, tính sắt từ và ferri từ biến mất, chuyển động nhiệt
sẽ thắng thế và làm cho vật liệu trở thành vật liệu siêu thuận
từ. Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ bằng
không. Điều đó có nghĩa là, khi ngừng tác động của từ trường
ngoài, vật liệu sẽ không còn từ tính nữa, đây là một đặc điểm
rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng y sinh
học. Hạt nano từ tính dùng trong y sinh học cần phải thỏa mãn ba
điều kiện sau: tính đồng nhất của các hạt cao, từ độ bão hòa lớn
và vật liệu có tính tương hợp sinh học (không có độc tính). Tính
đống nhất về kích thước và tính chất liên quan nhiều đến phương
pháp chế tạo còn từ độ bão hòa và tính tương hợp sinh học liên
quan đến bản chất của vật liệu. Trong tự nhiên, sắt (Fe) là vật
liệu có từ độ bão hòa lớn nhất tại nhiệt độ phòng, sắt không độc
đối với cơ thể người và tính ổn định khi làm việc trong môi
trường không khí nên các vật liệu như oxyd sắt Fe3O4 được
nghiên cứu rất nhiều để làm hạt nano từ tính.
Tính siêu thuận từ có được khi kích thước nhỏ đến mức năng lượng
nhiệt phá vỡ trạng thái trật tự từ. Kích thước chuyển sắt
từ-siêu thuận từ được xác định bởi công thức sau:
KV <>2.
2- Chế tạo hạt nano từ tính đơn lẻ
2.1. Phương pháp nghiền
Phương pháp nghiền được phát triển từ rất sớm để chế tạo hạt
nano từ tính dùng cho các ứng dụng vật lý như truyền động từ môi
trường không khí vào buồng chân không, làm chất dẫn nhiệt trong
các loa công suất cao,... Trong những nghiên cứu đầu tiên về CLT[1],
vật liệu từ tính oxyd sắt Fe3O4, được
nghiền cùng với chất hoạt hóa bề mặt
(CHHBM như acid Oleic) và dung môi (dầu, hexane).
CHHBM giúp cho quá trình nghiền được dễ dàng và đồng thời tránh
các hạt kết tụ với nhau. Sau khi nghiền, sản phẩm phải trải qua
một quá trình phân tách hạt rất phức tạp để có được các hạt
tương đối đồng nhất. Phương pháp nghiền có ưu điểm là đơn giản
và chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn. Việc thay đổi CHHBM
và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chế tạo. Nhược
điểm của phương pháp này là tính đồng nhất của các hạt nano
không cao vì khó có thể khống chế quá trình hình thành hạt nano.
Hạt nano từ tính chế tạo bằng phương pháp này thường được dùng
cho các ứng dụng vật lý.
2.2. Phương pháp đồng kết tủa
Trong phương pháp kết tủa từ dung dịch, khi nồng độ của chất đạt
đến một trạng thái bão hòa tới hạn, trong dung dịch sẽ xuất hiện
đột ngột những mầm kết tụ. Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông
qua quá trình khuyếch tán của vật chất từ dung dịch lên bề mặt
của các mầm cho đến khi mầm trở thành hạt nano (hình 2). Để thu
được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cần phân tách hai giai
đoạn hình thành mầm và phát triển mầm. Trong quá trình phát
triển mầm, cần hạn chế sự hình thành của những mầm mới. Các
phương pháp sau đây là những phương pháp kết tủa từ dung dịch:
đồng kết tủa, nhũ tương, polyol, phân ly nhiệt... Phương pháp
đồng kết tủa là một trong những phương pháp thường được dùng để
tạo các hạt oxyd sắt. Có hai cách để tạo oxyd sắt bằng phương
pháp này đó là hydroxide sắt bị ô xi hóa một phần bằng một chất
ô xi hóa nào đó và già hóa hỗn hợp dung dịch có tỉ phần hợp thức
Fe+2 và Fe+3 trong dung môi nước. Phương
pháp thứ nhất có thể thu được hạt nano có kích thước từ 30 nm –
100 nm.[2] Phương pháp thứ hai có thể tạo hạt
nano có kích thước
từ 2 nm – 15 nm.[3]
Bằng cách thay đổi pH và nồng độ ion trong dung dịch mà người ta
có thể có được kích thước hạt như mong muốn đồng thời làm thay
đổi điện tích bề mặt của các hạt đã được hình thành.

Hình 2: Cơ chế hình thành và phát triển hạt
nano trong dung dịch
Cơ chế tổng hợp hạt nano Fe3O4 như sau:
với tỉ phần mol hợp lí Fe3+/Fe2+ = 2 trong
môi trường kiềm có pH = 9 – 14 và trong điều kiện thiếu ô xy.[4]
Fe3+ + H2O -> Fe(OH)x3-x
(thông qua quá trình mất proton)
Fe2+ + H2O -> Fe(OH)y2-y
(thông qua quá trình mất proton)
Fe(OH)x3-x + Fe(OH)y2-y
-> Fe3O4 (thông qua quá trình ô xi hóa và
dehydride hóa, pH > 9, nhiệt độ 60°). Tổng hợp các phản ứng trên
chúng ta có phương trình sau:
Fe2+ + 2Fe3+ + 8OH- = Fe3O4
+ 4H2O
Nếu có ô xi thì magnetite bị ô xi hóa thành hdroxide theo phản
ứng:
Fe3O4 + 0,25 O2 + 4,5 H2O
-> 3Fe(OH)3
2.3. Vi nhũ tương
Vi nhũ tương (microemulsion) cũng là một phương pháp được dùng
khá phổ biến để tạo hạt nano. Với nhũ tương “nước-trong-dầu”,
các giọt dung dịch nước bị bẫy bởi các phân tử CHHBM trong dầu
(các mixen) (hình 3). Đây là một dung dịch ở trạng thái cân bằng
nhiệt động trong suốt, đẳng hướng. Do sự giới hạn về không gian
của các phân tử CHHBM, sự hình thành, phát triển các hạt nano bị
hạn chế và tạo nên các hạt nano rất đồng nhất. Kích thước hạt có
thể từ 4-12 nm với độ sai khác khoảng 0.2-0.3 nm.[5] Ví dụ,
dodecyl sulfate sắt, Fe(DS)2, được dùng trong phương pháp vi nhũ
tương để tạo hạt nano từ tính với kích thước có thể được điều
khiển bằng nồng độ chất hoạt hóa bề mặt (CHHBM) là AOT và nhiệt
độ.[6]
Hình 3: Hệ nhũ tương nước trong dầu và dầu trong nước.
Phương pháp vi nhũ tương cũng là một phương pháp chế tạo hạt
nano đã được thế giới ứng dụng từ lâu do khả năng điều khiển
kích thước hạt dễ dàng của nó. Cơ chế cụ thể của phản ứng xảy ra
trong hệ vi nhũ tương như sau (hình 4): Phản ứng hóa học tạo các
chất mong muốn sẽ xảy ra khi ta hòa trộn các hệ vi nhũ tương này
lại với nhau. Có 2 cách để các phân tử chất phản ứng gặp nhau:
Cách thứ nhất: Các phân tử chất phản ứng thấm qua lớp màng chất
hoạt hóa bề mặt ra ngoài và gặp nhau. Nhưng thực tế thì tỷ lệ
sản phẩm tạo thành theo cách này là rất nhỏ,không đáng kể.
Cách thứ hai: Khi các hạt vi nhũ tương của các chất phản ứng gặp
nhau, nếu có đủ lực tác động thì 2 hạt nhỏ (A,B) có thể tạo
thành một hạt lớn hơn(C). Các chất phản ứng trong 2 hạt nhỏ sẽ
hòa trộn, phản ứng xảy ra trong lòng hạt lớn và sản phẩm mong
muốn được tạo thành (ở đây là các hạt magnetite Fe3O4). Các hạt
magnetite Fe3O4 sau khi tạo thành sẽ bị chất hoạt hóa bề mặt bao
phủ và ngăn cản không cho phát triển thêm về kích thước.
Hình 4: Cơ chế hoạt động của phương pháp vi nhũ tương.
Cũng bằng phương pháp này, người ta có thể chế tạo hạt oxyd sắt
bao phủ bởi một lớp vàng để tránh ô-xi hóa và tăng tính tương
hợp sinh học. Ở đây người ta dùng cetyltrimethylammonium bromide
(CTAB) là CHHBM và octane là pha dầu dung dịch phản ứng ở trong
pha nước.[7]
2.4. Phương pháp Polyol
Polyol là phương pháp thường dùng để tạo các hạt nano kim loại
như Ru, Pd, Au, Co, Ni, Fe,... Sau này nó được mở rộng để tạo
các hạt nano dựa trên. Các hạt nano được hình thành trực tiếp từ
dung dịch muối kim loại có chứa polyol (rượu đa chức). Polyol có tác dụng
như một dung môi hoặc trong một số trường hợp như một chất khử ion kim loại.
Tiền chất có thể hòa tan trong polyol rồi được khuấy và nâng đến nhiệt độ
sôi của polyol để khử các ion kim loại thành kim loại. Bằng cách điều khiển
động học kết tủa mà chúng ta có thể thu được các hạt kim loại với kích thước
và hình dáng như mong muốn. Người ta còn thay đổi phương pháp này bằng cách
đưa những mầm kết tinh bên ngoài vào dung dịch. Như vậy quá trình tạo mầm và
phát triển hạt là hai quá trình riêng biệt làm cho hạt đồng nhất hơn. Hạt
nano oxyd sắt với đường
kính 100 nm có thể được hình thành bằng cách trộn tỉ lệ không
cân đối hydroxide sắt với dung dịch hữu cơ.[8] Muối FeCl2 và
NaOH phản ứng với ethylene glycol (EG) hoặc polyethylene glycol
(PEG) và kết tủa Fe xảy ra ở nhiệt độ từ 80 - 100°C. Bằng phương
pháp này còn có thể tạo các hạt hợp kim của Fe với Ni hoặc Co.
Hạt đồng nhất có kích thước từ khoảng 100 nm thu được bằng cách
không cho mầm kết tinh từ bên ngoài. Nếu cho mầm kết tinh từ bên
ngoài là các hạt nano Pt thì có thể thu được các hạt có kích
thước có thể dao động từ 50 – 100 nm.
2.5. Phương pháp phân li các tiền chất hữu cơ ở nhiệt độ cao
Phương pháp phân li các tiền chất hữu cơ ở nhiệt độ cao phân li
tiền chất chứa sắt trong môi trường CHHBM ở nhiệt độ cao có thể tạo ra các
hạt nano oxyd sắt đồng nhất, kích thước như mong
muốn và kết tinh tốt. Ví dụ, Alivisatos đã tiêm FeCup3(Cup:
N-nitrosophenylhydroxylamine) trong octylamine vào CHHBM có nhóm
amino ở nhiệt độ 250 – 300°C để thu được các hạt nano tinh thể
maghemite có kích thước từ 4 – 10 nm.[9] Hyeon tạo hạt nano tinh
thể maghemite kích thước đồng nhất 13 nm không cần dùng phương
pháp thủy phân mà bằng cách tiêm Fe(CO)5 vào trong dung dịch có
chứa CHHBM và một chất ô xi hóa nhẹ (trimethylamine oxide)[10].
Sun đã chế tạo thành công hạt nano magnetite đồng nhất kích
thước 3 – 20 nm bằng cách cho phản ứng sắt(III) acetylacetonate
trong phenyl ether với sự có mặt của rượu, oleic acid, và
oleylamine ở nhiệt độ 265°C. Phương pháp này có thể tạo hạt nano
kích thước 4 nm khi không có mầm kết tinh nhưng để đạt kích
thước 20 nm thì cần phải có mầm kết tinh.
2.6. Phương pháp phỏng sinh học
Phương pháp phỏng sinh học bắt đầu từ phân tử protein chứa sắt
là ferritin là phương pháp được nghiên cứu kĩ lưỡng nhất.
Ferritin gồm một lõi Fe3+ hydrate hóa được bao bởi nhiều lớp
protein. Do lõi Fe3+ bị giam hãm như vậy mà người ta có thể tạo
ra hạt nano magnetite[11] và magnetite/maghemite[12] với kích
thước 6 – 7 nm bằng cách ô xi hóa apoferritin (ferritin trống)
bằng trimethylamino-N-oxide.
2.7. Phương pháp hóa siêu âm
Phương pháp hóa siêu âm là các phản ứng hóa học được hỗ trợ bởi
sóng siêu âm cũng được dùng để tạo hạt nano oxyd sắt.[13] Hóa
siêu âm là một chuyên ngành của hóa học, trong đó, các phản ứng
hóa học xảy ra dưới tác dụng của sóng siêu âm như một dạng xúc
tác.[14] Sóng siêu âm là sóng dọc, là quá trình truyền sự co lại
và giãn nở của chất lỏng. Tần số thường sử dụng trong các máy
siêu âm là 20 kHz cao hơn ngưỡng nhận biết của tai người (từ vài
Hz đến 16 kHz). Khi sóng siêu âm đi qua một chất lỏng, sự giãn
nở do siêu âm gây ra áp suất âm trong chất lỏng kéo các phân tử
chất lỏng ra xa nhau. Nếu cường độ siêu âm đủ mạnh thì sự giãn
nở này sẽ tạo ra những lỗ hổng trong chất lỏng. Điều này xảy ra
khi áp suất âm đó lớn hơn sức căng địa phương của chất lỏng. Sức
căng cực đại này lại phụ thuộc vào từng chất lỏng và tạp chất ở
trong đó. Thông thường, đây là một quá trình phát triển mầm; tức
là, nó xuất hiện tại các điểm yếu tồn tại sẵn ở trong chất lỏng,
như là những bọt khí hoặc những tiểu bọt khí tức thời có trong
chất lỏng sinh ra từ những quá trình tạo lỗ hổng trước đó. Phần
lớn các chất lỏng bị nhiễm bẩn bởi các hạt nhỏ mà lỗ hổng có thể
xuất phát từ đó khi có mặt của áp suất âm. Một khi được hình
thành, các bọt khí nhỏ bị chiếu siêu âm sẽ hấp thụ năng lượng từ
sóng siêu âm và phát triển lên. Sự phát triển của các lỗ hổng
phụ thuộc vào cường độ siêu âm. Khi cường độ siêu âm cao, các lỗ
hổng nhỏ có thể phát triển rất nhanh. Sự giãn nở của các lỗ hổng
đủ nhanh trong nửa đầu chu kì của một chu kì sóng siêu âm, nên
đến nửa sau chu kì thì nó không có đủ thời gian để co lại nữa.
Khi cường độ siêu âm thấp hơn, các lỗ hổng xuất hiện theo một
quá trình chậm hơn gọi là khuyếch tán chỉnh lưu (hình 2). Dưới
các điều kiện này, kích thước của một lỗ hổng sẽ dao động theo
các chu kì giãn nở và co lại. Trong khi dao động như thế lượng
khí hoặc hơi khuyếch tán vào hoặc ra khỏi lỗ hổng phụ thuộc vào
diện tích bề mặt. Diện tích bề mặt sẽ lớn hơn trong quá trình
giãn nở và nhỏ hơn trong quá trình co lại. Do đó, sự phát triển
của lỗ hổng trong quá trình giãn nở sẽ lớn hơn trong quá trình
co lại. Sau nhiều chu kì siêu âm, lỗ hổng sẽ phát triển. Lỗ hổng
có thể phát triển đến một kích thước tới hạn mà tại kích thước
đó lỗ hổng có thể hấp thụ hiệu quả năng lượng của sóng siêu âm.
Kích thước này gọi là kích thước cộng hưởng, nó phụ thuộc vào
tần số của sóng âm. Ví dụ, với tần số 20 kHz, kích thước này
khoảng 170 mm. Lúc này, lỗ hổng có thể phát triển rất nhanh
trong một chu kì duy nhất của sóng siêu âm. Một khi lỗ hổng đã
phát triển quá mức, ngay cả trong trường hợp cường độ siêu âm
thấp hay cao, nó sẽ không thể hấp thụ năng lượng siêu âm một
cách có hiệu quả được nữa. Và khi không có năng lượng tiếp ứng,
lỗ hổng không thể tồn tại lâu được. Chất lỏng ở xung quanh sẽ đổ
vào và lỗ hổng bị suy sụp. Sự suy sụp của lỗ hổng tạo ra một môi
trường đặc biệt cho các phản ứng hoá học - các điểm nóng (hot
spot). Điểm nóng này là nguồn gốc của hoá siêu âm đồng thể; nó
có nhiệt độ khoảng 5000°C, áp suất khoảng 1000 at, thời gian
sống nhỏ hơn một ms và tốc độ tăng giảm nhiệt trên 1010 (mười
tỉ) K/s. Hóa siêu âm được ứng dụng để chế tạo rất nhiều loại vật
liệu nano như vật liệu nano xốp,[15] nano dạng lồng, hạt nano,
ống nano.[16] Hạt nano oxyd sắt và
oxyd sắt pha Co và Ni đã
được chế tạo bằng phương pháp này. Tuy nhiên các hạt nano cần
phải có chế độ xử lí nhiệt mới có thể đạt được từ độ bão hòa cao
ở nhiệt độ phòng.
Hình 5: Sự hình thành và phát triển của lỗ hổng trong lòng chất lỏng
dưới tác dụng của sóng siêu âm. Sau nhiều chu kì phát triển lỗ
hổng không thể hấp thụ năng lượng sóng siêu âm được nữa nên bị
suy sụp rất nhanh tạo thành các điểm nóng.
Hạt nano từ tính dựa trên oxyd sắt đã được chế tạo bằng hóa
siêu âm.[17] Đây là phương pháp rất đơn giản để tạo hạt
nano từ
tính với từ độ bão hòa rất cao.[18] Muối iron (II) acetate được
cho vào trong nước cất hai lần rồi cho chiếu xạ siêu âm với công
suất khoảng 200 W/2 h trong môi trường bảo vệ. Sóng siêu âm được
tác dụng dưới dạng xung để tránh hiện tượng quá nhiệt do siêu âm
tạo ra. Khi tác dụng siêu âm, trong dung dịch sẽ xuất hiện các
chất có tính khử và tính oxy hóa như H2, hydrogen peroxide
(H2O2). Các sản phẩm trung gian năng lượng cao có thể là HO2
(superoxide), hydro nguyên tử, hydroxyl và điện tử. Các chất này
sẽ oxy hóa muối sắt và biến chúng thành magnetite Fe3O4 . Sau khi
phản ứng xảy ra ta thu được hạt nano Fe3O4 với từ độ bão hòa có
thể đến 80 emu/g, cao gần bằng giá trị của Fe3O4 ở dạng khối.
Có ba vùng được hình thành trong quá trình chiếu xạ siêu âm một
chất lỏng. Vùng (a) là vùng chất khí nằm bên trong lỗ hổng. Vùng
này có nhiệt độ cao và áp suất lớn làm cho hơi nước bị nhiệt
phân thành các gốc tự do H và OH. Vùng (b) là vùng biên giữa
chất khí và chất lỏng. Mặc dù nhiệt độ ở đây thấp hơn ở vùng (a)
nhưng cũng đủ lớn để phản ứng phân hủy nhiệt xảy ra. Người ta đã
quan sát được các gốc hydroxyl tự do ở vùng này. Vùng (c) là
vùng chất lỏng. Ở đây nhiệt độ gần bằng nhiệt độ phòng nên xảy
ra quá trình tái hợp H và OH. Trong ba vùng kể trên thì vùng (b)
là vùng mà ở đó phản ứng hóa siêu âm diễn ra. Khi chiếu xạ siêu
âm dung dịch chứa muối iron (II) acetate thì xuất hiện các phản
ứng sau:
H2O ))) H· + OH·
H· + H· -> H2
OH· + OH· -> H2O2
Fe(CH3COO)2 -> Fe2+ + 2(CH3COO)-
Chất oxy hóa mạnh hydrogen peroxide sẽ ô xi hóa Fe2+
thành Fe3+ theo phản ứng sau:
2Fe2+ + H2O2 -> 2Fe3+
+ 2OH-
Các ion Fe2+ và Fe3+ kết hợp với nhau để
tạo thành magnetite. Tốc độ hình thành các gốc hydroxyl được ước
lượng là 25 mM/phút dưới khí Ar. Bằng cách điều khiển nhiệt độ
mà chúng tôi có thể tạo các hạt Fe3O4 với
các hình dạng khác nhau (hình 6).
Hình 6: Bằng phương pháp hóa siêu âm chúng tôi có thể tạo các hạt que
Fe3O4.
2.8. Phương pháp điện hóa
Phương pháp điện hóa cũng được dùng để chế tạo hạt nano oxyd
sắt từ tính.[19] Dung dịch điện hóa là dung dịch hữu cơ. Kích
thước của hạt nano từ 3 – 8 nm được điều khiển bằng mật độ dòng
điện phân. Sự phân tán của các hạt nano nhờ vào các CHHBM dương.
Phương pháp này phức tạp và hiệu suất không cao như các phương
pháp khác nên ít được nghiên cứu.
2.9. Phương pháp nhiệt phân
Phương pháp nhiệt phân là phương pháp rất hiệu quả để có thể chế
tạo hạt nano với quy mô lớn. Phương pháp này được chia làm hai
phương pháp nhỏ là nhiệt phân bụi hơi và nhiệt phân laser.
Phương pháp nhiệt phân bụi hơi có thể tạo các hạt mịn nhưng các
hạt này thường kết tụ lại với nhau thành các hạt lớn hơn. Trong
khi phương pháp nhiệt phân laser tạo các hạt mịn ít kết tụ với
nhau.
Hình 7: Nguyên lý của phương pháp nhiệt phân bụi hơi.
Hình 8: Nguyên tắc nhiệt phân laser.
Nguyên tắc của phương pháp nhiệt phân bụi hơi để tạo hạt nano
oxyd sắt bắt đầu từ muối Fe3+ và một vài hóa chất có vai trò tác
nhân khử ion thành kim loại để sau đó bị ô xi hóa thành oxyd
sắt maghemite. Nếu không có tác nhân khử nói trên thì hematite
sẽ được hình thành[20] dẫn đến vật liệu cuối cùng không có từ
tính mạnh. Trong dung dịch cồn, các hạt maghemite với kích thước
từ 5 – 60 nm có thể được hình thành với nhiều hình dạng khác
nhau phụ thuộc vào bản chất của tiền chất chứa sắt ban đầu.[21]
Sơ đồ của hệ nhiệt phân bụi hơn được cho trong hình 7. Hệ gồm bộ
phận tạo bụi hơi dùng siêu âm. Bụi hơn sẽ được phun vào một cái
lò gia nhiệt để phản ứng xảy ra và hạt mịn được làm khô trước
khi được chuyển đến một hệ để thu các hạt. Với tiền chất là
Fe(NO3)3 thì đường kính hạt mịn là 6 nm nhưng khi tiền chất là
FeCl3 thì giá trị đó là 60 nm. Với sắt acetylacetonate hạt được
tạo ra có kích thước 5 nm và có độ đồng nhất rất cao. Nếu tiền
chất là Fe2+ ammonium citrate thì kết quả là hình cầu rỗng có
đường kính rất lớn đến 300 nm. Vỏ của các hình cầu là tập hợp
các hạt nano nhỏ hơn có kích thước từ 20 – 40 nm phụ thuộc vào
nhiệt độ của lò.
Phương pháp nhiệt phân laser được dùng để chế tạo hạt Si, SiC,
Si3N4, Si/C/N, oxyd sắt có kích thước từ 5 – 20 nm.[22],[23] Ở
phương pháp này luồng hơi hỗn hợp có chứa chất phản ứng được
nung nóng bởi laser CO2 và phản ứng xảy ra do nhiệt độ cao (hình
8). Khi áp suất hơi và công suất laser có hơn một giá trị nào đó
thì hạt được hình thành và được lọc ra ngoài bằng khí trơ. Hạt
nano tạo từ phương pháp này có kích thước nhỏ, đồng nhất và hầu
như không kết tụ. Người ta dùng phương pháp này để tạo hạt nano
g-Fe2O3 kết tinh tốt và có kích thước từ 3,5 – 5 nm. Sơ đồ hệ
nhiệt phân laser được cho ở hình trên. Vùng phản ứng hóa học xảy
ra lừ nơi giao nhau của chùm hơi và chùm laser (10,6 mm) và được
tách hoàn toàn khỏi các vùng khác làm cho quá trình kết đám của
các hạt được loại bỏ gần như hoàn toàn. Tiền chất trong trường
hợp này là Fe(CO)5 không hấp thụ laser nên ethylene được dùng là
chất hấp thụ năng lượng laser và là chất mang hơi đến buồng phản
ứng. Ethylene không bị phân hủy với năng lượng của laser (652
Wcm-2), nó chỉ có tác dụng chuyển đổi năng lượng laser thành
năng lượng nhiệt để phân hủy Fe(CO)5. Để tạoFe2O3 người ta phải
đưa không khí vào bằng cách trộn không khí với Ar.
3. Chế tạo hạt nano từ tính bao trong một chất khác
3.1. Các kiểu bao bọc hạt nano
Hạt nano từ tính thường được bao bọc trong một vỏ hoặc nền phi
từ tính có kích thước vài trăm nm (còn gọi là các tiểu cầu chứa
hạt nano) để tránh kết tụ khi không có mặt của từ trường ngoài.
Việc bao bọc như thế tạo ra một bề mặt có tính tương hợp sinh
học và dễ dàng chức năng hóa. Việc chế tạo các tiểu cầu bên
trong có, có kích thước micro hoặc nano là một quá trình trong
đó các chất ở thể khí, lỏng, rắn có chứa muối sắt được bọc bên
trong các lớp vỏ tạo bởi vật liệu thứ hai (có thể là polymer hữu
cơ hoặc vô cơ), lớp vỏ này có tác dụng bảo vệ và cách ly vật
liệu làm lõi với môi trường đồng thời cũng quyết định các tính
chất của lõi cho phù hợp với những đòi hỏi đặt ra (chẳng hạn
phân ly được trong nước, bền vững trong môi trường…)[3].
Các tiểu cầu (microencapsulations) có thể có cấu trúc đa dạng và
gồm có các phần chính là lõi và vỏ. Hình dạng và các tính chất
của lõi và vỏ, theo lý thuyết cho thấy có thể được điều chỉnh
bằng cách khống chế các thành phần và các thông số chế tạo. Dưới
đây là một số dạng tiểu cầu tiêu biểu theo lý thuyết.
Hình 9: Hình dạng điển hình của các tiểu cầu có chứa hạt
nano.
Trong các dạng này, tỉ lệ lõi/vỏ và kiểu kết cầu là hai yếu tố
cơ bản để tạo ra các cấu trúc khác nhau của tiểu cầu. Tuy nhiên
trong thực tế, tiểu cầu rất hiếm khi đồng đều và hình dạng của
chúng có thể rất khác so với những dạng được mô tả ở trên. Lưu ý
rằng, ngoài các cấu trúc lõi - vỏ thông thường của tiểu cầu còn
có cấu trúc mà trong đó các hạt nano phân bố đều bên trong một
nền chất mang. Việc tạo ra các tiểu cầu có các tính chất như
mong muốn và mang lại những lợi ích có tính ứng dụng trong khoa
học sự sống, công nghệ sinh học, y học, dược học, nông nghiệp,
công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, sản suất giấy…
Việc lựa chọn các thành phần để làm lõi và vỏ được tiến hành phụ
thuộc vào các tính chất mong muốn của sản phẩm cuối cùng, hướng
áp dụng, và quy trình chế tạo. Có rất nhiều vật liệu hữu cơ hay
vô cơ để làm lõi đã được đem kết nang chẳng hạn như chất keo,
các bon hoạt hóa các hợp chất hữu cơ, các chất xúc tác, dược
phẩm và thuốc, các chất đối chiếu sử dụng trong việc chuẩn đoán,
các enzyme hoạt hóa... Hầu hết vỏ nang tạo bởi các polymer tự
nhiên hay tổng hợp, tuy nhiên, trên thực tế theo một số báo cáo
cho thấy còn có thể sử dụng các acid béo, thậm chí còn sử dụng
các vật liệu dạng có dạng ‘glass’.
Tỉ lệ lõi/vỏ là một yếu tố quan trọng để chế tạo nên các tiểu.
Việc điều chỉnh cả hai thông số độ dày của vỏ và tỉ lệ lõi/vỏ là
rất quan trọng đối với viêc chế tạo tiểu cầu. Chẳng hạn, độ dày
vỏ thường tác động đến sự giải phóng của chất hoạt tính làm thay
đổi thời gian tồn tại của sản phẩm cuối cùng …
3.2. Các nguyên tắc chế tạo các tiểu cầu chứa hạt nano
Sau đây là một số phương pháp hiệu quả để chế tạo các tiểu cầu.
Phần dưới đây trình bày một số phương pháp thường được dùng để
chế tạo tiểu cầu chứa hạt nano.
3.3.Phương pháp bao bọc từng lớp
Phương pháp bao bọc từng lớp (layer-by-layer) là kĩ thuật ngưng
tụ sử dụng một khuôn nano được chế tạo bằng các phương pháp khác
như đồng kết tủa. Sau đó khuôn nano này được cho vào hỗn hợp có
chứa tiền chất của chất cần bao bọc. Phụ thuộc vào bản chất của
tiền chất, nhiệt độ và pH mà phương pháp này có thể tạo ra những
hình cầu đa chức năng có các đặc tính khác nhau. Ban đầu phương
pháp bao bọc từng lớp được ứng dụng để chế tạo các màng
mỏng[24],[25] rồi sau đó được áp dụng để tạo ra các cấu trúc
vỏ/lõi,[26],[27] các tiểu cầu đa chức năng hoặc các tiểu cầu
rỗng. Nguyên tắc của phương pháp này là như sau: các khuôn nano
có thể là các hạt nano có một điện tích bề mặt nào đó. Khuôn
nano này lần lượt được trộn với các polymer mà khi phân ly có
điện tích bề mặt trái dấu với điện tích bề mặt ban đầu và bao
bọc khuôn nano làm cho bề mặt của nó bị tích điện trái dấu với
điện tích bề mặt ban đầu. Một loại polymer thứ hai được đưa vào
hệ, poymer này có đặc điểm là khi phân ly nó tạo ra điện tích bề
mặt ngược dấu với điện tích của polymer thứ nhất. Do điện tích
trái dấu nên polymer thứ hai sẽ bao bọc lên khuôn nano đã được
bọc bởi polymer thứ nhất. Như vậy, khuôn nano được bọc bởi hai
lớp polymer. Quá trình như vậy được tiếp tục nhiều lần cho đến
khi khuôn nano được bọc bởi nhiều lớp polymer có độ dày và tính
chất như mong muốn (hình 10, 11). Khuôn nano có thể được loại bỏ
để tạo ra các hình cầu rỗng hoặc các tiểu cầu được tạo thành từ
các lớp polymer như trên.[28]
Hình 10: Bao bọc hạt nano bằng phương pháp bao bọc từng lớp.
Hình 11: (a) tiểu cầu PS (b) tiểu cầu PS bọc Fe3O4 /PAH, tiểu cầu PS
bọc [Fe3O4 /PAH]4, tiểu cầu PS bọc [Fe3O4 /PDA]4. PS =
polystyrene, PAH = poly(allylamine hydrochloride), PDA =
poly(diallyldimethylammonium chloride.

Hình 12: Ảnh TEM của tiểu cầu có các hạt nano từ tính ở trên vỏ.
Phương pháp tạo các tiểu cầu polymer có chứa hạt nano là một
phương pháp rất quan trọng để khắc phục nhược điểm mà các hạt
nano không được bao bọc không thể có đó là tăng tính tương hợp
của hạt, chống tác nhân môi trường làm ảnh hưởng đến tính chất
của hạt như ô xi hóa, tăng khả năng phân tán của hạt trong dung
dịch, giảm độc tính của hạt. Việc tạo ra các lớp bao bọc bằng
polymer có thể theo nguyên tắc polymer hóa các monomer như
methacrylic acid và hydroxyethyl methacrylate với sự có mặt của
hạt nano Fe3O4 [29] (hình 12) hoặc theo nguyên tắc
“cross-linking” các polymer albumin[30], chitosan[31], hoặc
PVA[32] cùng với sự có mặt của các hạt
nano được đã phân tán
trong dung dịch. Ngoài ta bằng phương pháp này người ta còn tạo
ra các tiểu cầu rỗng có thể dùng để mang thuốc hoặc các hạt nano
(hình 13).
Hình 13: Một số tiểu cầu rỗng tạo bởi phương pháp bọc từng lớp.[33]
3.4.Phương pháp nhũ tương đảo
Chất lỏng latex siêu thuận từ cũng được chế tạo bằng phương pháp
polymer hóa trong hệ nhũ tương đảo.[34] Một polymer kép gồm hai
đầu kị nước có mặt khi các tiền chất phản ứng t ạo kết tủa oxyd
sắt điều khiển quá trình tạo mầm, quá trình phát triển hạt và ổn
định lực đẩy giữa các hạt nano tạo ra các hạt nano oxyd sắt
siêu thuận từ với đường kính 5 nm. Sau khi làm khô, hệ giống như
một chất lỏng từ. Quá trình nhũ tương đảo chất lỏng từ vào
decane được thực hiện nhờ sự có mặt của một lượng nhỏ polymer
kép có vai trò như một CHHBM cùng với siêu âm để tạo ra các giọt
chất lỏng nhỏ có đường kính 180 nm chứa đầy hạt nano từ tính và
các monomer. Sau đó là quá trình polymer hóa các monomer để tạo
ra latex siêu thuận từ.
3.5. Bao bọc hạt nano bằng chất vô cơ
Bao bọc hạt nano từ tính bằng chất vô cơ, trong đa số trường hợp
là silica có tác dụng giống như việc bao bọc hạt nano bằng các
chất hữu cơ. Quan trọng hơn là với bề mặt silane thì hạt nano có
thể dễ dàng phân tán trong các dung môi không phải là nước và là
bề mặt lí tưởng để có thể chức năng hóa bằng các liên kết cộng
hóa trị.[35] Tuy nhiên việc liên kết mạnh này cũng gây khó khăn
khi ta muốn loại bỏ liên kết. Bề mặt silica cho phép các hạt
nano có thể phân tán bên trong lòng nó với một tỉ trọng lớn. Ví
dụ, người ta có thể chế tạo ra các hình cầu rỗng có đường kính
150 nm tạo thành từ các hạt nano và silica bằng phương pháp
nhiệt phân bụi hơi một hỗn hợp dung dịch methanol có chứa
ammonium citrate sắt và tetraethoxysilane (TEOS).[36] Hình dạng
và nguyên lí hình thành các hình cầu rỗng được cho ở hình dưới
đây. Trong giai đoạn đầu, sự bay hơi nhanh chóng của hỗn hợp
methanol làm gia tăng kết tủa trên bề mặt, tức là hình thành các
hình cầu rỗng.[37] Khả năng hòa tan của iron ammonium citrate
sắt vào methanol thấp hơn của TEOS là cho kết tủa ban đầu chủ
yếu là muối sắt. Giai đoạn hai là giai đoạn hình cầu co lại và
TEOS có mặt trên bề mặt nhiều dần lên. Giai đoạn ba là giai đoạn
phân hủy nhiệt để tạo lớp vỏ silica của hình cầu rỗng có chứa
hạt nano g-Fe2O3. Bằng phương pháp nhiệt phân bụi hơi hỗn hợp có
chứa sắt nitrate đậm đặc (1 M) và TEOS sẽ tạo ra các tiểu cầu silica đường
kính 250 nm có chứa hạt nano oxyd sắt phân tán đều
bên trong (hình 3).[38]

Hình 14: silica có hạt nano tạo nên vỏ tiểu cầu rỗng (trái)
và tạo nên tiểu cầu đặc (phải).
Phương pháp vi nhũ tương cũng được dùng để tạo ra hạt nano bao
bọc vởi silica. Người ta đã sử dụng bao loại CHHBM là Triton
X-100, Igepal CO-520, and Brij-97.[39]
oxyd sắt được hình thành
từ đồng kết tủa muối sắt II và sắt III trong môi trường kiềm
mạnh tuy nhiên kích thước hạt của phương pháp này rất nhỏ từ 1 –
2 nm và rất đồng nhất. Một lớp silica rất mỏng khoảng 1 nm được
bao bọc xung quanh hạt nano nhờ quá trình nhiệt phân và polymer
hóa TEOS.
Hình 15: Sơ đồ chế tạo tiểu cầu polymer chứa hạt
nano bằng phương pháp
hóa hơi dung môi.
3.6.Phương pháp hóa hơi dung môi trong chân không
Đây là phương pháp đơn giản thường được dùng nhất để chế tạo
tiểu cầu polymer có chứa hạt nano từ tính oxyd sắt. Polymer
thường được dùng nhất là polystyrene. Dưới đây là ví dụ chế tạo
tiểu cầu polystyrene có kích thước khoảng vài trăm nm có các hạt
nano từ tính phân tán bên trong. Hạt nano Fe3O4 được chế tạo
trướ c đó được chức năng hóa bề mặt bằng oleic acid kị nước có
thể phân tán trong dầu như hexane hoặc toluene. Hòa tan
polystyrene trong một dung môi dễ bay hơi như CH2Cl2 để thu được
dung dịch A, rồi đổ hạt nano từ tính Fe3O4 kị nước vào và khuấy
đều bằng máy khuấy từ. Dung dịch B tạo thành bằng cách trộn
CHHBM sodium dodecyl sulfate trong nước với một tỉ phần CHHBM
nhất định. Trộn dung dịch A và dung dich B bằng máy khuấy cơ học
để tạo ra thể nhũ tương. Hóa hơi dung môi dễ bay hơi CH2Cl2 bằng
máy cất quay chân không trong thời gian 30 phút ở nhiệt độ
khoảng 60°C. Sau khi CH2Cl2 hóa hơi hết ta thu được các hình cầu
polystyrene có chứa các hạt nano bên trong. Tách lọc các tiểu
cầu bằng máy li tâm. Bằng cách thay đổi các thông số đầu vào mà
các tiểu cầu có kích thước khác nhau và có từ độ khác nhau như
mong muốn.
4. Nhận xét về khả năng ứng dụng các phương pháp chế tạo trong đề tài
Trong các phương pháp trên, mỗi phương pháp đều có ưu điểm và
nhược điểm riêng. Hơn nữa, việc chế tạo hạt nano còn phụ thuộc
vào điều kiện vật chất của cơ quan nghiên cứu. Dựa trên các đặc
điểm đó chúng tôi dự định lựa chọn các phương pháp sau đây để
nghiên cứu chế tạo: đồng kết tủa và hóa siêu âm để tạo hạt nano
từ tính oxyd sắt; hóa hơi dung môi và bao bọc từng lớp để tạo
tiểu cầu polymer có chứa hạt nano. Phương pháp đồng kết tủa và
hóa hơi dung môi có ưu điểm là các phương pháp đơn giản và có
thể chế tạo với số lượng lớn, nhược điểm là đây không phải là
những phương pháp mới. Phương pháp hóa siêu âm và bao bọc từng
lớp có ưu điểm là các phương pháp mới được phát triển, nghiên
cứu các phương pháp này có thể mang đến những đóng góp mới về
mặt khoa học nhưng chúng có nhược điểm là phức tạp và đòi hỏi
đầu tư nhiều công sức.
5. Tài liệu tham khảo
[1] Rosensweig, R.E., Ferrohydrodynamics. 1985, Cambridge:
Cambridge University Press.
[2] Sugimoto T and Matijevic E 1980 J. Colloid Interface
Sci. 74 227.
[3] Massart R and Cabuil V 1987 J. Chem. Phys. 84 967.
[4] Ajay Kumar Gupta, Mona Gupta, Biomaterials 26 (2005)
3995–4021
[5] Feltin N and Pileni M P 1997 Langmuir 13 3927.
[6] Lopez-Quintela M A and Rivas J 1993 J. Colloid Interface
Sci. 158 446.
[7] Boutonnet M, Kizling J and Stenius P 1982 Colloids Surf.
A 5 209
[8] Fievet F, Lagier J P, Blin B, Beaudoin B and Figlarz M
1989 Solid State Ion. 32/33 198
[9] Rockenberger J, Scher E C and Alivisatos A P 1999 J. Am.
Chem. Soc. 121 11595
[10] Hyeon T, Lee S S, Park J, Chung Y and Na H B 2001 J.
Am. Chem. Soc. 123 12798
[11] Meldrum F C, Heywood B R and Mann S 1992 Science 257
522
[12] Wong K K W, Douglas T, Gider S, Awschalom D D and Mann
S 1998 Chem. Mater. 10 279
[13] Cao X, Koltypin Y, Katabi G, Prozorov R, Felner I and
Gedanken A 1997 J. Mater. Res. 12 402
[14] K. S. Suslick, The Chemistry of ultrasound trong
Encyclopaedia Britannica, Chicago (1994) 138- 155.
[15] N. Arul Dhas, C. Paul Raj, A. Gedanken, Preparation of
luminescent silicon nanoparticles: a novel sonochemical
approach, Chem. Mater. 10 (1998) 3278-3281.
[16] M. Sivakumar, A. Towata, K. Yasui, T. Tuziuti, Y. Iida,
A new ultrasonic cavitation approach for the synthesis of zinc
ferrite nanocrystals, Current Appl. Phys. 6 (2006) 591-593.
[17] R. Vijayakumar, Y. Koltypin, I. Felner, A. Gedanken,
Sonochemical synthesis and characterization of pure
nanometer-sized Fe3O4 particles, Mater. Sci. Engineer. A 286
(2000) 101-105.
[18] N. H. Hai, N. H. Luong, N. N. Long, N. Chau, N. D. Phu,
S. Theerdhala, A. Gedanken, Proc. Natl. Conf. Solid State Phys.
V, Vungtau, Vietnam (2007), 140 (Vietnamese).
[19] Pascal C, Pascal J L, Favier F, Elidrissi-Moubtassim M
L and Payen C 1999 Chem. Mater. 11 141
[20] Pecharroman C, Gonzalez-Carreno T and Iglesias J E 1995
Phys. Chem. Min. 22 21
[21] Gonzalez-Carreno T, Morales M P, Gracia M and Serna C J
1993 Mater. Lett. 18 151
[22] Veintemillas-Verdaguer S, Morales M P and Serna C J
1998 Mater. Lett. 35 227
[23] Veintemillas-Verdaguer S, Morales M P and Serna C J
2001 Appl. Organomet. Chem. 15 1
[24] Fendler J H 1998 Nanoparticles and Nanostructured
Films: Preparation, Characterization and Application (Weinheim:
Wiley-VCH)
[25] Ulman A 1991 An Introduction to Ultrathin Organic
Films: From Langmuir-Blodgett to Self-Assembly (Boston:
Academic)
[26] Caruso F, Caruso R A and M¨ohwald H 1998 Science 282
1111
[27] Caruso F 2001 Adv. Mater. 13 11
[28] Donath E, Sukborukov G B, Caruso F, Davies S A and
Mohwald H 1998 Angew. Chem. Int. Ed. 37 2201
[29] Zaitsev V S, Filimonov D S, Presnyakov I A, Gambino R J
and Chu B 1999 J. Colloid Interface Sci. 212 49
[30] Gupta P K, Hung T C, Lam F C and Perrier D G 1988 Int.
J.Pharmaceutics 43 167
[31] Hassan E E, Parish R C and Gallo J M 1992 Pharm. Res. 9
390
[32] Muller-Schulte D and Brunner D 1995 J. Chromatogr. A
711 53
[33] Alexander I. Petrov, Dmitry V. Volodkin, Gleb B.
Sukhorukov, Biotechnol. Prog. 2005, 21, 918-925.
[34] Wormuth K 2001 J. Colloid Interface Sci. 241 366
[35] Ulman A 1996 Chem. Rev. 96 1533
[36] Tartaj P, Gonzalez-Carreno T and Serna C J 2001 Adv.
Mater. 13 1620.
[37] Messing G L, Zhang S and Jayanthi G V 1993 J. Am.
Ceram. Soc. 76 2707
[38] Tartaj P, Gonzalez-Carreno T and Serna C J 2002
Langmuir 18 4556
[39] Santra S, Tapec R, Theodoropoulou N, Dobson J, Hebard A
and Tan W 2001 Langmuir 17 6000
|